Thứ Ba, 12 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 15+16



CHƯƠNG 15

Ayesha Phán Xử
Thứ kế tiếp tôi nhớ được là mở mắt và nhận ra thân ảnh của Job, giờ đã thực sự phục hồi sau khi bị sốt rét tấn công. Anh ta đang đứng trên dải sáng gay gắt mà không gian bên ngoài chiếu vào trước động, rũ quần áo tôi như một cách giặt rũ tạm thời, việc anh ta không thể làm vì không có bàn chải, rồi sau đó gấp chúng gọn gàng và đặt chúng vào chân giường đá. Làm xong, anh ta lấy bộ đồ du lịch của tôi ra khỏi chiếc túi Gladstone, mở nó ra sẵn cho tôi dùng. Đầu tiên anh ta đặt nó phía chân giường, rồi e sợ tôi có thể hất nó ra, tôi cho là thế, anh ta đặt nó trên một tấm da báo trên sàn, đứng lui xuống một hai bước để quan sát hiệu quả. Không hài lòng, vì thế anh ta đóng cái túi, kéo nó đến cuối, để nó lại chân giường, đặt bộ đồ du lịch trên đó. Tiếp theo anh ta nhìn những cái chậu đầy nước, là những chiếc máy giặt của chúng tôi. “A!” Tôi nghe thấy anh ta lẩm bẩm, “Không có nước nóng ở nơi hoang dã này. Mình cho là những kẻ nghèo khổ này chỉ dùng nó để luộc nhau,” và anh ta thở dài sâu sắc.
“Chuyện gì thế, Job?” Tôi nói.
“Xin thứ lỗi, thưa ngài,” Anh ta nói, lại chạm vào mái tóc. “Tôi nghĩ ngài đang ngủ, thưa ngài; Tôi chắc ngài có vẻ như ngài muốn. Khi nhìn thấy ngài, người ta có lẽ nghĩ ngài đã có một đêm như ngài muốn.”
Tôi chỉ rên rỉ thay cho trả lời. Thực vậy, tôi đã có một đêm ở đây, mà tôi không bao giờ hy vọng có lại lần nữa.
“Ngài Leo thế nào rồi, Job?”
“Vẫn như vậy, thưa ngài. Nếu cậu ấy không được chữa sớm, cậu ấy sẽ chết mất, thưa ngài; tất cả chỉ có thế; dù tôi phải nói rằng, cô Ustane hoang dã kia đã làm hết sức vì cậu ấy, gần như một người Thiên Chúa giáo đã được rửa tội. Cô ấy luôn xoay quanh chăm sóc cậu ấy, nếu tôi mạo hiểm can thiệp, trông cô ta thật khủng khiếp; tóc cô ấy như dựng đứng, cô ấy nguyền rủa và chửi thề một cách vô giáo dục – ít nhất tôi nghĩ cô ta đang nguyền rủa, nếu nhìn từ dáng vẻ bề ngoài của cô ta.”
“Thế cậu làm gì rồi?”
“Tôi đã chào cô ấy và nói, ‘Này người phụ nữ trẻ, vị trí của cô tôi hoàn toàn không hiểu và không nhận ra. Hãy để tôi nói cho cô, tôi có bổn phận phục vụ chủ nhân của tôi khi không còn khả năng vì bệnh tật, tôi sẽ phục vụ đến khi tôi cũng không còn khả năng.’ Nhưng cô ta không thèm để ý, chứ không chỉ nguyền rủa và chửi thề như trước đó. Tối qua cô ấy để tay dưới chiếc áo mặc đêm của cô ấy, lấy ra một con dao cong lưỡi, thế là tôi lôi ra khẩu súng lục của tôi, chúng tôi đi vòng quanh nhau cho đến khi cô ấy bật cười. Đó không phải cách cư xử tốt đẹp mà một người Thiên Chúa giáo phải làm với một kẻ hoang dã, dù cô ta xinh đẹp đến đâu, mà đó là thứ người ta nghĩ là rất ngu ngốc. (Job đặt trọng tâm vào “ngu ngốc”) Đến một nơi thế này tìm kiếm những thứ không ai cho là sẽ tìm thấy, đó là một bản án với chúng ta, thưa ngài – quan điểm của tôi là thế; còn với tôi, tôi cho rằng bản án chưa thực hiện được một nửa, khi nó thực hiện xong, chúng ta cũng sẽ xong đời, và dừng lại trong những hang động hoang sơ đầy bóng ma và xác chết này suốt đời. Giờ thưa ngài, tôi phải đi xem nước dùng của Ngài Leo, nếu con mèo hoang đó đưa cho; và có lẽ ngài cũng muốn dậy chứ, thưa ngài, vì đã quá chín giờ rồi.”
Câu nói của Job không phải lời chào mừng đúng đắn cho người trải qua một đêm như tôi; hơn thế, nó có sức nặng của sự thật. Lấy một ví dụ trong đó, dường như hoàn toàn bất khả thi nếu chúng tôi muốn trốn thoát khỏi nơi này. Giả sử Leo phục hồi, giả sử Bà ấy cho chúng tôi đi – dù cực kỳ đáng ngờ -  và giả sử bà ta không “thổi bay” chúng tôi vì một khoảnh khắc tức giận nào đó, và giả sử chúng tôi không bị người Amahagger đặt chậu nung nóng, chúng tôi cũng hoàn toàn không thể tìm được đường đi trong mạng lưới đầm lầy trải rộng hết điểm này đến điểm khác hàng dặm trường, tạo nên một pháo đài mạnh mẽ không thể vượt qua được bao quanh các hộ gia đình Amahagger, nó mạnh hơn bất kỳ thứ gì từng được con người xây dựng và thiết kế. Không, chỉ có một việc để làm – đối mặt với nó; nói theo cách của tôi, tôi chủ động quan tâm đến toàn bộ câu chuyện kỳ lạ này, như tôi vẫn đang quan tâm, bất chấp trạng thái thần kinh đang bị suy nhược, tôi vẫn không đòi hỏi gì hơn, thậm chí phải trả giá bằng mạng sống của bản thân cho tính tò mò. Ai lại không bị lôi cuốn về mặt sinh lý để có thể chịu đựng nghiên cứu một nhân vật như Ayesha khi cơ hội đang hiện ra thế này cơ chứ? Theo đuổi kinh hãi cộng với đam mê, bên cạnh đó, tôi buộc phải khiến mình tỉnh táo như ban ngày, bản thân bà ta có sức thu hút mà tôi không thể quên được. Không chỉ cảnh tượng hãi hùng tôi đã chứng kiến suốt đêm đưa tôi đến kết luận đó; than ôi! Tôi phải thừa nhận, nó không chỉ đảo điên trong đầu tôi từ đó đến giờ.
Sau khi mặc quần áo, tôi đi ăn, đúng hơn là tới phòng ướp xác ăn vài món, như trước đó những cô gái câm mang đến cho tôi. Ăn xong, tôi tới xem Leo khốn khổ, người đã hoàn toàn phát điên, không còn nhận ra tôi nữa. Tôi hỏi Ustane xem cô ấy nghĩ cậu ấy sẽ thế nào; nhưng cô ấy chỉ lắc đầu và bắt đầu khóc. Rõ ràng hy vọng của cô ấy rất nhỏ; và tôi quyết định, nếu có thể, tôi muốn đưa Bà ấy tới nhìn xem cậu ấy. Chắc chắn bà ta có thể cứu được cậu ấy nếu bà ta lựa chọn thế - dù sao bà ta đã nói bà ta có thể. Khi tôi trong phòng, Billali đi vào, và cũng lắc đầu.
“Hắn ta sẽ chết tối nay,” ông ta nói.
“Chúa không cho phép điều đó, thưa cha,” Tôi trả lời, rồi quay đi với trái tim nặng trĩu.
Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh đã ra lệnh gặp ngươi, Khỉ Đầu Chó à,” ông già nói ngay khi chúng tôi đi ra khỏi tấm rèm; “nhưng con trai yêu quí của ta, cẩn thận hơn vào. Hôm qua ta chắc chắn trong lòng rằng Bà ấy muốn làm ngươi nổ tan khi ngươi không bò vào bằng bụng trước mặt bà ấy. Giờ bà ấy đang ngồi trong khán phòng lớn để phán xét những kẻ đã đánh ngươi và con Sư Tử. Đi nào, con trai; nhanh chóng tới thôi.”
Tôi quay lại đi theo ông ta xuống lối đi nhỏ, khi chúng tôi tới động lớn trung tâm, có nhiều người Amahagger, một số khoác áo choàng, một số chỉ mặc đồ da báo đơn giản, đang vội vã đi vào. Chúng tôi trộn lẫn với đám đông, bước vào hang động khổng lồ và thực sự gần như vô tận đó. Những bức tường của nó đều được điêu khắc công phu, cứ mỗi hai mươi bước chân hoặc lối đi như vậy lại mở ra một góc bên phải, Billali nói với tôi, nó dẫn đến các ngôi mộ được đào rỗng dưới lớp đá bởi “tộc người từng sống trước đây”. Ông ta bảo, bây giờ không ai đến thăm những ngôi mộ đó nữa; tôi thấy tim mình vui sướng khi nghĩ về những cơ hội nghiên cứu đồ cổ đang mở ra trước mắt.
Cuối cùng chúng tôi đến phần đầu hang động, nơi có một bệ đá gần như giống với cái mà chúng tôi bị tấn công điên cuồng, mẫu vật chứng minh cho tôi thấy rằng những bệ đá đó từng được dùng như bàn thờ, có lẽ để cử hành các nghi lễ tôn giáo, đặc biệt hơn, là các nghi thức kết nối với việc chôn cất người chết. Một bên của bệ đá là những lối đi nhỏ, Billali bảo tôi, chúng dẫn tới các hang động đầy người chết khác. “Thật thế đấy,” ông ta nói thêm, “cả ngọn núi này toàn người chết, gần như tất cả bọn họ đều hoàn hảo.”
Trước bệ tập trung một lượng lớn người cả nam lẫn nữ, đang đứng nhìn chằm chằm theo kiểu ảm đạm đặc thù của họ, điều có thể khiến Mark Tapley giảm sự khốn khổ của ông ta khoảng năm phút. Trên bệ đặt một chiếc ghế gỗ thô dát ngà voi, chỗ ngồi bằng sợi cỏ, bệ chân tạo từ tấm gỗ gắn vào khung ghế.
Bỗng nhiên có tiếng kêu “Hiya! Hiya!” (“Bà ấy! Bà ấy!”), sau đó toàn bộ đám đông khán giả lập tức phủ phục trên mặt đất, nằm im như thể bị chết tập thể, để lại mình tôi đứng đó như một người sống sót đơn độc sau thảm họa. Một hàng dài binh sĩ xuất hiện từ lối đi sang bên trái, rồi tự dịch chuyển sang bên phía kia bệ đá. Một dãy đàn ông câm điếc theo sau, rồi tới những phụ nữ câm điếc mang đèn, một thân ảnh da trắng cao cao, quấn từ đầu đến chân, tôi nhận ra đó là Bà ấy. Bà ấy lên bệ và ngồi xuống ghế, nói với tôi bằng tiếng Hy Lạp, tôi cho là vì bà ấy không muốn những người kia hiểu bà ấy nói gì.
“Lại đây, Holly,” bà ấy nói, “ngồi dưới chân ta, và xem ta phán xử những kẻ muốn giết ngươi. Hãy tha thứ cho ta nếu tiếng Hy Lạp của ta như kẻ khập khiễng; đã quá lâu từ khi ta nghe âm thanh ngôn ngữ đó đến mức lưỡi ta cứng lại, và không uốn lưỡi đúng cách.”
Tôi cúi đầu, lên bệ và ngồi dưới chân bà ấy.
“Ngươi ngủ thế nào, Holly của ta?” bà ấy hỏi.
“Tôi ngủ không tốt lắm, Ayesha!” Tôi trả lời thật, thầm sợ hãi có lẽ bà ấy đã biết tôi đi qua lúc nửa đêm.
“Vậy à,” bà ta mỉm cười nói; “Ta cũng vậy, không ngủ ngon. Đêm qua ta đã có những giấc mơ, và ta nghĩ ngươi đã gọi chúng đến, ôi Holly.”
“Người mơ thấy gì, Ayesha?” Tôi vô tư hỏi.
“Ta mơ thấy,” bà ta trả lời nhanh, “một người ta căm ghét và một người ta yêu thương,” sau đó bỏ qua cuộc đối thoại, bà ta nói với đội trưởng bảo vệ của mình bằng tiếng Ả Rập: “Hãy mang đám người kia tới đây.”
Viên đội trưởng cúi thấp, vì người bảo vệ và người hầu của bà ấy không phải phủ phục xuống đất nhưng vẫn phải đứng đó, hắn đi với thuộc hạ xuống lối đi nhỏ bên phải.
Sau đó im lặng. Bà ấy ngả đầu quấn băng trên tay và chìm trong suy tư, trong khi đám đông trước mặt tiếp tục phủ phục bằng bụng, chỉ điểu chỉnh cái đầu một chút để nhìn được chúng tôi bằng một mắt. Dường như Nữ Hoàng của họ hiếm khi xuất hiện công khai đến mức họ sẵn sàng chấp nhận trải qua sự bất tiện này, thậm chỉ cả những rủi ro nghiêm trọng hơn, để có cơ hội nhìn thấy bà ấy, hay đúng hơn là bộ đồ bọc ngoài của bà ấy, vì không người sống nào ở đây trừ tôi từng nhìn thấy mặt bà ta. Cuối cùng chúng tôi đã nhìn thấy nhấp nhô ánh sáng, và nghe tiếng bước chân dọc theo lối đi, dẫn đầu bởi người bảo vệ, theo sau là những kẻ sống sót trong đám người suýt giết chúng tôi, khoảng hơn hai mươi tên, trên mặt chúng, biểu cảm buồn rầu tự nhiên tranh đấu với vẻ khủng bố rõ ràng hài hòa với trái tim hoang dã của chúng. Chúng xếp thành hàng trước bệ, lẽ ra phải nằm bò xuống sàn hang như đám khản giả, nhưng Bà ấy bảo họ dừng lại.
“Không,” bà ấy nói bằng giọng rất nhẹ nhàng, “đứng lên; ta cầu nguyện để các ngươi đứng. Không chừng lúc các ngươi mệt vì bị kéo ra sẽ chóng đến thôi,” bà ta cười du dương.
Tôi thấy vẻ sợ sệt kinh hãi chạy dọc theo hàng của đám khốn xấu xa đó, tôi rất tiếc cho chúng. Có lẽ hai hay ba phút trôi qua trước khi điều gì đó trong lành xảy ra, lúc đó Bà ấy đang cử động cái đầu – tất nhiên, chúng tôi không thể nhìn thấy mắt bà ấy – chậm rãi và cẩn thận kiểm tra từng tên phạm tội. Cuối cùng bà ta nói với tôi bằng giọng ôn hòa và thận trọng.
“Vị khách của ta, ngươi có nhận ra những người này không?”
“Có, thưa Nữ Hoàng, gần như tất cả bọn họ,” Tôi nói và thấy chúng khó chịu với tôi khi tôi bảo thế.
“Thế thì hãy nói cho ta, về đám người kia, câu chuyện mà ta đã nghe.”
Được yêu cầu, trong vài lời, tôi đã kể câu chuyện về lễ ăn thịt người và nỗ lực tra tấn người đầy tớ khốn khổ của chúng tôi. Câu chuyện nhận được sự im lặng hoàn toàn từ cả kẻ bị kết tội, khán thính giả, và cả Bà ấy. Khi tôi nói xong, Ayesha gọi tên Billali, ông già nâng đầu lên, nhưng không đứng dậy, xác nhận câu chuyện. Không còn bằng chứng nào khác.
“Các ngươi đã nghe thấy rồi đấy,” Bà ấy nói bằng giọng rõ ràng và lạnh lẽo, rất khác giọng lúc bình thường – quả thực, một trong những điều đáng chú ý nhất về con người kỳ lạ này là giọng nói bà ta tự thân nó có sức mạnh kỳ diệu phù hợp với tâm trạng tại thời điểm đó. “Các ngươi muốn nói gì, những đứa con nổi loạn, tại sao không nên trút thù hận lên các ngươi?”
Phút chốc không có câu trả lời, nhưng cuối cùng một tên trong đám người, tên đó ngực rộng, đẹp trai, trung tuổi, có những đường nét như trạm khắc và đôi mắt như diều hâu, nói rằng, mệnh lệnh mà chúng nhận được là không làm hại người da trắng; chứ không nói gì tới người đầy tớ da đen, vì thế bị một người phụ nữ giờ đã chết thúc giục, chúng tiến hành đặt chậu nung nóng anh ta theo phong tục cổ xưa đầy tôn kính của đất nước này, tất nhiên là để ăn thịt anh ta. Đối với cuộc tấn công bất ngờ vào chúng tôi, đó là do sự tức giận đột ngột, chúng vô cùng hối tiếc chuyện này. Hắn kết thúc bằng cách khiêm tốn cầu xin cho bọn chúng được trục xuất vào đầm lầy, sống chết tùy ý; nhưng tôi thấy trên mặt hắn viết rằng, có rất ít hy vọng được thương xót.
Rồi tới một khoảng lặng, sự im lặng rộng lớn nhất ngự trị toàn bộ khung cảnh, chiếu sáng bởi những ngọn đèn nhấp nháy trải ra những mảnh sáng tối trên tường đá, kỳ lạ như những gì tôi từng thấy trên mảnh đất xấu xa này. Trên nền đất trước bệ đá là bóng dáng như xác chết của các khán giả, những hàng dài của họ biến mất trong nền tối. Trước những khán giả đang nằm phủ phục này là những kẻ làm điều xấu, đang cố gắng che phủ sự khủng bố tự nhiên của chúng bằng vẻ can đảm lãnh đạm. Bên phải và trái, những người bảo vệ đứng im lặng, khoác áo choàng trắng và trang bị vũ khí là giáo lớn và dao găm, những người đàn ông và đàn bà câm đang xem bằng ánh mắt không quá tò mò. Rồi, ngồi trên ghế trước tất cả, tôi ngồi dưới chân, là người phụ nữ da trắng che mặt, người mà vẻ đẹp và sức mạnh kỳ diệu của bà ấy dường như tỏa sáng như hào quang, hay đúng hơn như một quầng sáng từ những tia sáng vô hình. Tôi chưa bao giờ thấy dáng vẻ che mặt của bà ấy lại khủng khiếp như lúc này, bà ấy tự tập hợp sức mạnh để báo thù.
Cuối cùng giờ phút đó đã đến.
“Lũ chó má rắn rết kia,” Bà ấy bắt đầu với giọng trầm thấp tụ hợp dần dần sức mạnh tới khi nó ngân vang cả không gian. “Những kẻ ăn thịt người kia, các ngươi đã phạm hai điều. Thứ nhất, các ngươi đã tấn công những người lạ này, những người da trắng, và muốn giết người đầy tớ của họ, vì thế các người đáng nhận một cái chết đơn độc. Nhưng không phải chỉ có thế. Các ngươi dám làm trái lời ta. Ta đã không gửi lời tới các ngươi qua Billali, người đầy tớ của ta, cha của các ngươi ư? Ta không truyền lệnh bảo các ngươi tiếp đãi trọng thị những người lạ này ư, những người các ngươi cố giết chết, nếu không mạnh mẽ và can đảm, đã có thể bị giết hại tàn nhẫn rồi? Các ngươi không được dạy dỗ từ bé rằng luật lệ của Bà ấy là luật không bao giờ thay đổi, kẻ nào phá vỡ nó dù nhiều hay ít đều sẽ phải chết ư? Lời nhẹ nhất của ta không phải là luật lệ ư? Cha các ngươi không dạy các ngươi điều này ngay từ khi các ngươi còn bé ư? Các ngươi không biết rằng ta có thể ra lệnh những hang động to lớn này rơi đè lên các ngươi, hay khiến mặt trời dừng cuộc hành trình, hay hi vọng ta biến hóa, làm cho lời ta nặng nhẹ theo ý các ngươi ư? Các ngươi biết rồi đấy, các ngươi là Những Kẻ Tội Lỗi. Nhưng các ngươi đều là quỉ dữ - quỉ dữ tới tận xương tủy – Tội lỗi thổi các ngươi lên như suối nước mùa xuân. Không phải ta, mà chính là hàng thế hệ các ngươi đã ngừng tồn tại vì các ngươi đã dùng cách thức xấu xa như quỉ dữ để hủy diệt lẫn nhau. Giờ đây, vì các ngươi đã làm việc đó, vì các ngươi đã tấn công những vị khách của ta tới chết, và hơn thế, vì các ngươi dám không tuân lệnh ta, đây là phán xét mà ta dành cho các ngươi. Các ngươi sẽ bị đưa tới hang tra tấn, [*] và được trao cho những tên đao phủ, tới lúc mặt trời lặn ngày mai, tên nào còn sống sẽ bị giết, giống như các ngươi đã giết người đầy tớ của vị khách của ta.”
[*] “Hang tra tấn” – về sau tôi mới biết nơi kinh hãi này, cũng là một truyền thuyết từ người tiền sử từng sống ở Kôr. Đồ vật duy nhất trong hang là những khối đá được sắp xếp ở nhiều vị trí để thuận lợi cho việc tra tấn. Nhiều khối đá làm từ tảng đá xốp, bị nhuộm tối nhờ máu của các nạn nhân từ xa xưa ngấm trên chúng. Giữa hang là chỗ đặt một cái lò, có khoang để nung nóng cái chậu đã đi vào sử sách. Nhưng thứ kinh hãi nhất trong hang này là trên mỗi khối đá đều có tranh khắc minh họa hành động tra tấn tương ứng được áp dụng. Những bức điêu khắc này khủng khiếp đến mức tôi sẽ không cố mô tả chúng khiến người đọc đau lòng. – L.H.H.
Bà ấy dừng lại, tiếng thì thầm kinh dị yếu ớt lan khắp hang động. Đối với các nạn nhân, ngay khi nhận thức đầy đủ sự ghê gớm trong hình phạt dành cho mình, vẻ cam chịu rời bỏ họ, họ lăn lộn trên mặt đất, kêu khóc và van xin lòng thương xót một cách ghê sợ. Tôi cũng quay lại phía Ayesha, cầu xin bà ấy tha cho họ, hay ít nhất xử lý tính mạng của họ theo cách ít kinh hãi hơn. Nhưng bà ấy cứng rắn cương quyết thi hành nó.
“Holly của ta,” Bà ấy nói bằng tiếng Hy Lạp, nói thật, dù tôi luôn được coi là một học giả tài ba về ngôn ngữ, tốt hơn rất nhiều người, tôi vẫn thấy cách nói đó thật khó nghe, chính do biến đổi lúc hạ giọng. Tất nhiên Ayesha nói giọng đương thời của bà ấy, trong khi chúng ta chỉ có những hướng dẫn về giọng truyền thống và giọng hiện đại để phát âm chính xác. “Holly của ta, không thể được. Nếu ta thể hiện sự thương xót với lũ sói này, mạng sống của các ngươi sẽ không an toàn giữa đám người này dù một ngày. Ngươi không hiểu chúng. Chúng là hùm beo hớp máu, thậm chí ngay cả bây giờ chúng cũng thèm khát mạng sống các ngươi. Ngươi nghĩ ta thống trị tộc người này thế nào? Ta có một đội vệ sĩ tuân theo lệnh ta, nhưng đó không phải bằng sức mạnh, mà bằng khủng bố. Đế chế của ta hình thành từ trí tưởng tượng. Trong mỗi thế hệ có lẽ ta đều làm như ta đang làm bây giờ, giết một đám người bằng tra tấn. Đừng cho là ta độc ác, hay đang trả thù cái gì thấp kém như vậy. Có lợi gì với ta khi trả thù như vậy? Holly ạ, những ai sống lâu không có đam mê cứu vớt những gì họ đã thu lợi được từ nó đâu. Dù có vẻ như ta đã phẫn nộ mà giết chúng, hay do tâm trạng ta đi quá xa, nhưng thực sự không phải thế. Ngươi thấy mây bay trên trời trôi đi vô định như thế nào không, sau chúng là gió lớn quét theo con đường nào, chúng cũng phải đi theo đường đó. Với ta cũng vậy, Holly ạ. Tâm trạng hay mọi thay đổi của ta là mây, có vẻ thay đổi thất thường; nhưng sau chúng, gió lớn thổi là mục đích của ta. Không, đám người này phải chết; chết như ta đã nói.” Rồi đột nhiên quay về phía đội trưởng bảo vệ:
“Theo lời ta, thực hiện đi!”

CHƯƠNG 16

Những ngôi mộ ở Kôr
Sau khi đám tù nhân bị dẫn đi, Ayesha vẫy tay, đám khán giả quay lại và bắt đầu bò xuống dưới hang như bầy cừu tan tác. Khi họ cách một khoảng khá xa so với bệ đá, họ đứng lên và bước đi, bỏ lại Nữ Hoàng và tôi, ngoại trừ những người câm và vài người bảo vệ bên cạnh, còn lại đi theo đám người bị kết án. Cho rằng đây là một cơ hội tốt, tôi đề nghị Bà ấy tới xem Leo, kể cho bà ấy nghe tình trạng nghiêm trọng của cậu ấy; nhưng bà ta không muốn, và bảo rằng cậu ấy chắc chắn không thể chết trước đêm nay, vì người ta chưa bao giờ chết vì sốt rét trừ lúc đêm xuống hay bình minh. Bà ấy cũng nói tốt hơn là để căn bệnh tự tiêu hết năng lực của nó càng nhiều càng tốt trước khi bà ta chữa. Tiếp theo, tôi đứng dậy rời đi khi bà ấy mời tôi đi theo, vì bà ta muốn nói chuyện với tôi và chỉ cho tôi các kỳ quan hang động.
Tôi đã tham gia quá nhiều vào cái mạng đầy lôi cuốn chết người của bà ta để có thể nói Không, dù tôi muốn thế, nhưng tôi đã không làm vậy. Bà ấy đứng lên rời khỏi ghế, ra hiệu với những người câm, đi xuống bệ đá. Theo sau bốn cô gái cầm đèn, xếp thành hai người đi trước và hai người đi sau chúng tôi, còn những người khác đi xa, đám vệ sĩ cũng vậy.
“Bây giờ,” bà ta nói, “ngươi muốn xem vài kì quan nơi đây chứ, Holly? Hãy nhìn cái hang lớn kia. Ngươi từng thấy cái nào giống thế chưa? Có nhiều cái như nó, được đào bằng bàn tay của tộc người đã chết từng sống ở đây, trong một thành phố trên đồng bằng. Đó là một dân tộc vĩ đại và tuyệt vời, những con người của Kôr, nhưng giống như người Ai Cập, họ nghĩ nhiều về người chết hơn người sống. Ngươi nghĩ cần bao nhiêu người làm việc trong bao nhiêu năm để đào được cái hang này và tất cả các khu trưng bày quanh đây?”
“Hàng chục nghìn năm,” Tôi trả lời.
“Đúng vậy, Holly. Dân tộc này là một tộc người cổ xuất hiện trước cả người Ai Cập. Ta có thể đọc được bản chữ khắc của họ một chút, và tìm ra chìa khóa – ngươi nhìn đây, đây là một trong những hang động cuối cùng họ đào,” quay lại khối đá phía sau lưng, bà ấy ra hiệu những người câm mang đèn lên. Khắc trên bệ đá là hình một ông già ngồi trên ghế, với cây gậy ngà trong tay. Đập vào mắt tôi là dáng vẻ của ông ấy, cực kỳ giống người được vẽ trong cảnh ướp xác tại căn phòng chúng tôi hay dùng bữa. Cái ghế giống y như cái của Ayesha đã ngồi phán xử, dưới nó là đoạn văn tự khắc lên ngắn gọn theo kiểu ký tự kỳ lạ tôi đã nói, nhưng tôi không nhớ nhiều để minh họa. Nó giống tiếng Trung Quốc hơn bất kỳ ngôn ngữ nào tôi biết. Dãy ký tự này Ayesha đã tìm hiểu được, hơi khó khăn và do dự, bà ấy đọc to và dịch. Nó như sau:
“Vào năm 4259 kể từ lúc thành lập Thành Phố của đế chế Kôr hang động này (hay nơi chôn cất) hoàn thành bởi Tisno, Vua của Kôr, nơi đây nhân dân và nô lệ của họ đã lao động suốt ba thế hệ, là ngôi mộ cho các công dân có thứ hạng sẽ tới sau này của họ. Trên thiên đường Thượng Đế sẽ phù hộ cho công việc của họ, để Tisno yên ngủ, vương triều hùng mạnh, giống như những chân dung được khắc ở trên, ngủ một giấc yên bình và hạnh phúc tới ngày thức tỉnh, [*] và giấc ngủ của các đầy tớ của ngài cũng vậy, những người thuộc chủng tộc của ngài, những kẻ đứng lên theo ngài, sẽ cúi đầu thấp hơn.”
[*] Câu này rất đáng chú ý, dường như chỉ ra niềm tin về một nhà nước trong tương lai. – Biên tập viên.
“Ngươi thấy chưa, Holly,” bà ấy nói, “dân tộc này đã tạo nên thành phố mà tro tàn của nó vẫn còn làm chướng ngại vật cho đồng bằng phía xa kia từ bốn nghìn năm trước khi các hang này hoàn thành. Nhưng lần đầu tiên ta nhìn thấy chúng là hai nghìn năm trước đây, cảnh cũng như bây giờ. Thế nên hãy nghĩ mà xem, thành phố này đã bao nhiêu tuổi đời! Giờ đi theo ta, ta sẽ chỉ cho ngươi dân tộc vĩ đại này đã ngã xuống kiểu gì khi thời điểm sụp đổ của nó tới,” và bà ấy dẫn đường xuống giữa hang, dừng tại một chỗ có hòn đá tròn đặt ở đó trong cái hố lớn do con người đào trên mặt sàn, đặt khít chính xác như những tấm sắt đặt khít khoảng không gian bên dưới vỉa hè London chứa than tiếp tế. “Ngươi nhìn này,” bà ấy nói. “Hãy nói cho ta đó là gì?”
“Không, tôi không biết,” Tôi trả lời; bà ấy đi qua đó tới cạnh bên tay trái của hang (phía trước là lối vào ra chính) rồi ra hiệu cho những người câm mang đèn đến. Trên tường có sơn gì đó màu đỏ với các ký tự tương tự các ký tự trong bức điêu khắc về Tisno – Vua của Kôr. Đoạn văn tự này bà ấy cũng dịch cho tôi, màu đỏ vẫn tươi mới đủ để hiện ra hình dáng từng con chữ. Nó như sau:
“Ta, Junis, linh mục của Đền Thờ Lớn của Kôr, viết điều này lên đá trong nơi chôn cất vào năm 4803 kể từ lúc thành lập Kôr. Kôr đã sụp đổ! Không còn nghi lễ hùng mạnh trong khán đường lớn nữa, nó không còn thống trị thế giới nữa, các hải đội sẽ đi ra ngoài giao thương với thế giới. Kôr đã sụp đổ! Những công việc phi thường và tất cả những thành phố của Kôr, tất cả các hải cảng nó xây dựng và các kênh đào nó thực hiện, đều cho sói, cú và thiên nga hoang, và đám man rợ đến sau này. Hai mươi lăm tuần trăng trước, một đám mây đã bao phủ Kôr, và hàng trăm thành phố của Kôr, cả vùng ngoài đám mây, bệnh dịch hạch tới giết chết người dân, cả già lẫn trẻ, người này tới người kia, không thương tiếc. Từng người một chuyển thành màu đen và chết đi – người trẻ và người già, người giàu và người nghèo, đàn ông và đàn bà, hoàng tử và nô lệ. Dịch hạch giết và giết, không ngừng ngày đêm, những ai thoát khỏi dịch hạch đều bị chết bởi nạn đói. Trẻ con ở Kôr không còn được bảo quản theo nghi thức cổ nữa, vì quá nhiều người chết, do đó họ bị ném vào hố lớn trong hang, rồi tới hố trên sàn hang. Cuối cùng, những tàn dư còn lại của dân tộc vĩ đại này, ánh sáng của toàn thế giới, đã đi tới bờ biển và lên tàu đi về phương bắc; còn giờ đây tôi, linh mục Junis, người viết điều này, là người cuối cùng sống sót còn lại của thành phố vĩ đại này, còn ai nữa chưa rời đi ở các thành phố khác tôi không biết. Tôi viết điều này trong lòng đau đớn trước khi tôi chết, vì Đế Chế Kôr không còn nữa, và vì không còn gì để thờ phụng trong ngôi đền, tất cả các cung điện đều trống rỗng, các hoàng tử, thuyền trưởng, thương nhân đều đã biến mất khỏi mặt đất.”
Tôi ngạc nhiên thở dài – việc sụp đổ hoàn toàn được mô tả trong dòng chữ nguệch ngoạc thô lỗ này quá mạnh mẽ. Thật khủng khiếp khi nghĩ về người sống sót đơn độc của dân tộc hùng mạnh này đang ghi lại số phận của nó trước khi ông ta cũng đi vào bóng tối. Người đàn ông già nua đó phải cảm thấy điều gì trong sự cô đơn khủng khiếp, dưới ánh sáng một ngọn đèn yếu ớt chiếu vào không gian u ám nhỏ bé, trong vài dòng ngắn gọn ông ấy đã vẽ lại lịch sử cái chết của quốc gia mình trên vách hang? Đúng là chủ đề cho nhà luân lý học, hay họa sĩ, hay thật ra là cho bất kỳ ai có thể tư duy!
“Chẳng nhẽ điều đó không xảy ra với ngươi sao, Holly,” Ayesha nói, đặt tay lên vai tôi, “những người của dân tộc này đi thuyền về phương Bắc có lẽ là tổ phụ của những người Ai Cập đầu tiên chăng?”
“Không, tôi không biết,” Tôi nói; “thế giới có lẽ rất già nua.”
“Già nua ư? Phải, nó thực sự đã già nua. Thời đại này tới thời đại khác đều có các quốc gia, những quốc gia giàu mạnh, nghệ thuật uyên bác, rồi cũng xuất hiện và ra đi, rồi bị quên lãng, vì thế không còn ký ức nào về chúng lưu lại. Nhưng đất nước này là một trong số đó; vì Thời gian đã ăn mòn các tác phẩm của con người, thực ra trừ khi người ta đào được các hang động như dân tộc Kôr, biển sau đó có lẽ sẽ nuốt chửng chúng, hoặc động đất chôn vùi chúng trong đó. Ai biết cái gì đã từng tồn tại trên mặt đất, hay cái gì sẽ tồn tại? Không có điều gì mới dưới mặt trời, người Do Thái khôn ngoan đã viết thế từ rất lâu trước đây. Ta nghĩ dân tộc này chưa hoàn toàn bị hủy diệt. Một vài người còn lại trong các thành phố khác, vì các thành phố của họ rất đông người. Nhưng đám người man rợ từ phía nam, hay không chừng cả dân tộc của ta, người Ả Rập, đã trừng phạt họ, lấy phụ nữ của họ làm vợ, chủng tộc người Amahagger bây giờ là đứa con hoang của những người con xứ Kôr hùng mạnh, sinh sống trong mồ với xương cốt ông cha họ. [*] Nhưng ta không biết: ai có thể biết được? Con người của ta không thể xuyên qua màn đêm của Thời Gian. Họ là một dân tộc vĩ đại. Họ chinh phục cho đến khi không còn gì để chinh phục, sau đó họ định cư dễ dàng trong các bức tường núi đá, với đám đầy tớ nam và nữ, đám hát rong, những nhà điêu khắc, và đám thê thiếp của họ, giao dịch và cãi vã, ăn uống và săn bắn, ngủ và vui vẻ tới khi thời khắc của họ tới. Nhưng hãy tới đây, ta sẽ chỉ cho ngươi cái hố lớn trong hang động mà đoạn văn tự kia nói đến. Mắt ngươi sẽ không bao giờ chứng kiến một cảnh nào khác như thế nữa đâu.”
[*] Tên của chủng tộc Amahagger dường như chỉ ra rằng có sự pha trộn các chủng tộc gây tò mò giống như điều có lẽ đã dễ dàng xảy ra với người hàng xóm Zambesi. Tiền tố “Ama” chỉ người Zulu và các chủng tộc thân thích nói chung, biểu thị “dân tộc”, còn “hagger” là một từ Ả Rập có nghĩa là đá. – Biên tập viên.
Tôi đi theo bà ấy tới một lối đi bên cạnh ra khỏi hang chính, rồi đi xuống rất nhiều bước, dọc theo một trục ngầm diện tích đá không ít hơn sáu mươi feet, được thông gió bằng vết khoan chạy thẳng lên trên, tôi không biết chỗ nào. Lối đi kết thúc đột ngột, bà ấy dừng lại và bảo những người câm giơ đèn lên, như bà ấy tiên đoán, tôi thấy một cảnh mà tôi không muốn nhìn lại. Chúng tôi đang đứng trước một cái hố khổng lồ, đúng ra là đứng trên bờ vực của nó, vì nó còn đi xuống sâu hơn nữa – tôi không biết bao nhiêu – so với chỗ chúng tôi đứng, bên lề là một bức tường đá thấp. Tôi có thể nhận thấy xa hơn, cái hố có kích thước bằng không gian dưới mái vòm nhà thờ Thánh Paul ở London, khi những cây đèn chiếu tới, tôi không thấy gì ngoài một nhà mồ mênh mông, đầy đủ hàng nghìn xương người, chất đống như một kim tự tháp khổng lồ trắng bóng, do các cơ thể tươi trôi xuống từ đỉnh khi bị ném từ trên xuống. Tôi không thể tưởng tượng còn gì kinh khủng hơn đống hài cốt lộn xộn của một dân tộc đã ra đi, điều khiến nó đáng sợ hơn là trong không khí khô, một số lượng đáng kể thi thể chỉ đơn giản bị sấy khô, lớp da vẫn còn trên đó, giờ đã gắn chặt vào mỗi vị trí tương ứng, nhìn chằm chằm vào người bên ngoài núi cốt trắng chúng tôi, trông như biếm họa hình người kỳ quặc khủng khiếp. Tôi bật kêu trong kinh ngạc, những âm thanh vọng lại từ tiếng kêu của tôi rung động cả không gian hình vòm, quấy rầy một hộp sọ đã thăng bằng chính xác nhiều ngàn năm gần đỉnh đống xương. Nó rơi xuống như chạy, vui vẻ vọt tới chỗ chúng tôi, tất nhiên mang theo một trận tuyết lở của xương cốt sau đó, tới khi toàn bộ cái hố đều chuyển động, như thể các bộ xương thức dậy chào đón chúng tôi.
“Đi thôi,” Tôi nói, “Tôi nhìn đủ rồi. Đó là thi thể những người đã chết vì căn bệnh đó phải không?” Tôi hỏi thêm khi chúng tôi quay đầu.
“Phải. Dân tộc Kôr từng ướp xác họ, như người Ai Cập đã làm, nhưng nghệ thuật ướp xác của họ tốt hơn của người Ai Cập, vì trong khi người Ai Cập mổ bụng và hút não, người Kôr chỉ tiêm chất dịch vào tĩnh mạch là đã đạt được mọi thứ. Nhưng dừng lại đã, ngươi sẽ thấy,” bà ấy ngẫu nhiên dừng ở một trong các cửa ra vào nhỏ mở ra lối đi dọc theo con đường chúng tôi đang đi trên đó, ra hiệu cho những người câm chiếu sáng cho chúng tôi. Chúng tôi đi vào một phòng nhỏ giống căn phòng tôi ngủ ở điểm dừng chân đầu tiên, chỉ có điều, trong đó thay vì một, có tới hai ghế băng đá dài hay còn gọi là giường ngủ. Trên băng ghế là các cơ thể được phủ vải lanh vàng, [*] bụi mịn nguyên chất tụ đầy trên xác theo năm tháng, nhưng không giống những gì lẽ ra phải thế, vì trong các hang sâu này không có chất liệu nào biến thành bụi. Cạnh những cơ thể trên kệ đá và sàn mộ là nhiều bình lọ có họa tiết, nhưng tôi thấy rất ít đồ trang sức hay vũ khí trong những căn hầm thế này.
[*] Toàn bộ vải lanh người Amahagger mặc đều lấy từ mộ, có sắc vàng đặc trưng. Tuy nhiên chúng được giặt rất sạch, và có thể tẩy trắng lại lần nữa, tạo thành màu trắng tuyết như cũ, là loại vải lanh mềm nhất và tốt nhất tôi từng thấy. – L.H.H.
“Cầm tấm vải đó lên, Holly,” Ayesha nói, nhưng khi tôi đưa tay ra làm thế, tôi rụt tay trở lại. Giống như phạm thượng, nói thật, tôi kinh ngạc trước sự trang nghiêm oai vệ của nơi này, đang hiện hữu trước chúng tôi. Buồn cười vì nỗi sợ hãi của tôi, bà ấy cầm nó lên, rồi phát hiện ra những tấm vải khác tốt hơn nằm phủ trên những hình hài trên ghế đá. Bà ấy cũng bỏ chúng lại, rồi lần đầu tiên trong hàng nghìn năm qua đôi mắt sống động nhìn vào gương mặt người chết lạnh lẽo. Đó là một phụ nữ; cô ta có lẽ khoảng ba mươi lăm tuổi, hoặc ít hơn một chút, chắc chắn rất xinh đẹp. Ngay cả bây giờ những đường nét yên bình rõ ràng, nhấn bằng đôi lông mày tinh tế và hàng mi dài phản chiếu bóng ánh đèn trên gương mặt trắng ngà vô cùng đẹp đẽ. Khoác áo choàng trắng, mái tóc xanh đen xõa xuống, cô ấy ngủ giấc ngủ dài cuối cùng, trên một cánh tay là gương mặt áp vào ngực cô ấy, một đứa trẻ nằm đó. Khung cảnh thật ngọt ngào, dù kinh khủng – tôi không hề xấu hổ thú nhận điều đó – tôi khó mà cầm được nước mắt. Nó đưa tôi trở lại biên giới mờ nhạt của thời gian, tới mái nhà hạnh phúc của Đế Chế Kôr đã chết, nơi đó người phụ nữ xinh đẹp, cám dỗ này sống và chết, chết đi mang theo người cô ấy sinh ra theo cô ấy vào nấm mồ. Họ đã ở đây trước chúng tôi, người mẹ và đứa trẻ, những ký ức trắng xóa về câu chuyện nhân bản đã bị quên lãng nói lên một cách hùng hồn, chạm tới tận trái tim, hơn bất kỳ điều gì ghi lại về cuộc đời họ. Tôi để mảnh vải niệm trở lại một cách cung kính, thở dài cho những đóa hoa đẹp đẽ, mang ý nghĩa Vĩnh Hằng, chỉ nở rộ trong nấm mồ, tôi quay lại cơ thể đối diện, nhẹ nhàng vén mạng che lên. Đó là một người đàn ông đời trước, bộ râu dài muối tiêu, cũng khoác áo choàng trắng, có lẽ là chồng người phụ nữ, người đã sống cùng cô ấy nhiều năm, cuối cùng cũng đi tới giấc ngủ một lần nữa vì những gì thánh thiện đẹp đẽ bên cạnh cô ấy.
 Chúng tôi rời nơi đó và vào những chỗ khác. Quá dài dòng nếu mô tả những thứ tôi nhìn thấy. Mỗi người đều có nơi cư ngụ của mình, vì hơn năm trăm năm đã trôi qua từ lúc hang động hoàn thành tới khi chủng tộc đó bị hủy diệt, rõ ràng đủ để lấp đầy các hầm mộ này, không đếm hết được, tất cả dường như không bị xáo trộn từ ngày họ đặt chân tới đây. Tôi có thể viết đầy một cuốn sách để mô tả về chúng, nhưng làm vậy chỉ có thể lặp lại những gì tôi đã nói, vô số lần.
Hầu hết các cơ thể đều được đối xử như tác phẩm nghệ thuật bậc thầy, hoàn hảo như ngày họ chết hàng nghìn năm trước. Không gì tới làm tổn thương họ trong yên lặng sâu thẳm của đá: họ đều vượt ngoài tầm với của nóng lạnh và ẩm ướt, các loại thuốc tạo hương thơm đã bão hòa rõ ràng đã thực sự kéo dài vĩnh viễn hiệu quả của nó. Tuy nhiên đây đó, chúng tôi thấy một ngoại lệ trong đó, dù xác thịt nhìn bề ngoài trông khá tốt, nếu chạm vào nó sẽ rơi ra, chứng tỏ thực tế rằng, hình hài đó là một đống bụi. Ayesha nói với tôi, điều đó phát sinh từ những cơ thể đặc biệt, do sự vội vàng khi chôn cất hay những nguyên nhân khác, được ngâm trong chất bảo quản, [*] thay cho việc tiêm vào trong cơ thể.
[*] Ayesha sau đó chỉ cho tôi thấy cái cây mà lá của nó dùng để sản xuất chất bảo quản cổ xưa này. Đó là một loại cây bụi thấp, ngày nay sinh trưởng tươi tốt trên sườn núi, chính xác là sườn dẫn lên các bức tường đá. Lá của nó dài và hẹp, màu xanh sống động, nhưng đổi thành màu đỏ tươi sáng trong mùa thu, bề ngoài không khác cây nguyệt quế. Chúng có ít mùi khi xanh, nhưng nếu luộc chín, mùi thơm rất mạnh tỏa ra từ nó khiến ai cũng khó mà chịu nổi. Tuy nhiên, hỗn hợp tốt nhất được làm từ rễ, trong dân tộc Kôr có một đạo luật, Ayesha đã chỉ cho tôi nó được ám chỉ tới trên một vài bản văn tự, rằng, sẽ thi thành hình phạt nặng nề đau đớn để không ai ở dưới một cấp bậc nhất định được ướp xác bằng thuốc chiết xuất từ rễ cây. Mục đích và hiệu quả của luật này, tất nhiên để đảm bảo loài cây này không bị tiêu diệt. Việc buôn bán lá và rễ của cây này do Chính Phủ độc quyền, nhờ đó các đời Vua của Kôr thu được một phần lớn lợi nhuận. – L.H.H.
Tuy nhiên với ngôi mộ cuối cùng chúng tôi tới thăm, tôi phải nói một lời, vì những gì nó nói lên nỗi thương cảm con người còn hùng hồn hơn những ngôi mộ trước đó. Nó có hai người cư ngụ, họ nằm bên nhau trên kệ đơn. Tôi rút vải niệm và ở đó, siết chặt lấy trái tim, là một người đàn ông trẻ và một cô gái đương thì rực rỡ. Đầu cô gái nằm trong cánh tay chàng trai, đôi môi chàng trai ấn lên trán cô gái. Tôi mở tấm áo choàng vải lanh của chàng trai, phía tim anh ta có vết thương từ dao găm, dưới ngực người phụ nữ cũng có một nhát đâm tàn nhẫn như thế, nó lấy đi sinh mạng cô ấy. Ở tảng đá phía trên có dòng chữ chỉ ba từ. Ayesha dịch nó. Đó là “Cưới bằng Cái Chết”.
Chuyện đời của hai người này thế nào, những con người, sự thật, sống và chết rất đẹp đẽ, không bị chia lìa?
Tôi nhắm mắt, tưởng tượng, mang theo luồng suy tư, phi tàu con thoi nhanh chóng ngược trở lại các thời đại, dệt một bức tranh vào bóng tối thật chân thực sống động tới từng chi tiết đến nỗi có lúc tôi đã nghĩ tôi đã chiến thắng Quá Khứ, đôi mắt linh hồn tôi đã xuyên qua bí ẩn của Thời Gian.
Dường như tôi thấy hình bóng cô gái xinh đẹp này – mái tóc vàng chảy xuống lấp lánh trên nền vải tuyết trắng, bộ ngực còn trắng hơn cả áo khoác, mập mờ trong ánh sáng trang sức vàng. Tôi dường như thấy cái động lớn đầy chiến binh, râu quai nón, mặc giáp, trên bệ đá sáng trưng nơi Ayesha đã ngồi phán xử, một người đàn ông đứng đó, khoác áo choàng bao quanh bởi những biểu tượng quan tư tế. Trên hang, một người mặc áo màu tía đi tới, trước và sau ông ta là những người hát rong và tì nữ xinh đẹp, đang hát bài hát đám cưới. Một cô gái mặc đồ trắng đứng trước điện thờ, xinh đẹp hơn cả người xinh đẹp nhất ở đó – tinh khiết hơn đóa bạch hoa, lạnh lẽo hơn sương giá lấp lánh nơi trái tim. Nhưng khi người đàn ông tới gần, cô ấy rùng mình. Rồi ngoài dự đoán, trong đám đông xuất hiện một người trẻ tuổi tóc đen, đưa tay về phía cô gái đã quên mất từ lâu, hôn lên khuôn mặt nhợt nhạt của cô ấy, nơi máu bắn ra như ánh bình minh đỏ rực trên bầu trời yên tĩnh. Tiếp theo ồn ào và hỗn loạn, một ánh gương lóe lên, họ lôi người thanh niên khỏi tay cô ấy, đâm anh ta, nhưng cô ấy kêu lên, giật lấy con dao găm từ thắt lưng chàng trai, hướng nó vào bộ ngực tuyết trắng, ngôi nhà của trái tim, rồi cô ngã xuống, những âm thanh kêu khóc, than thở vang lên, khung cảnh lộng lẫy cuộn ra khỏi phạm vi tầm nhìn của tôi, một lần nữa quá khứ đóng cuốn sách của nó lại.
Người đọc hãy tha thứ cho mơ mộng xâm lấn vào câu chuyện thực tế. Nhưng với tôi, đó như bản gốc – tôi thấy câu chuyện rất rõ ràng trong phút chốc, như thể nó đang hiện hữu; hơn nữa, ai nói phần nào là thực, quá khứ, hiện tại, hoặc phần nào là bịa đặt trong tưởng tượng? Điều gì là tưởng tượng? Có lẽ đó là bóng dáng của sự thật vô hình, có lẽ đó chỉ là suy nghĩ trong lòng.
Trong khoảnh khắc toàn bộ trôi qua não tôi, còn Bà ấy nói với tôi.
“Than ôi con người,” Ayesha che mặt nói khi bà ấy cuộn lại tấm vải trên xác hai người yêu nhau, giọng nói bà ấy trang trọng, ly kì, tương đối khớp với giấc mơ tôi từng mơ: “đi tới nấm mồ, để quên lãng che đi nấm mồ, cuối cùng tất cả chúng ta đều phải tới đó thôi! Ôi, ta đã sống quá lâu rồi. Đối với ta, Holly ạ, hàng nghìn nối hàng nghìn năm nữa; rồi hàng nghìn năm sau ngươi đi qua cánh cửa và lạc mất trong sương mù, một ngày nào đó khi bình minh tới ta sẽ chết, giống như ngươi và những người này. Thế thì cái gì cần dùng để ta sống lâu hơn chút nữa, cách xa cái chết nhờ kiến thức ta thu được từ Tự Nhiên, vì cuối cùng ta cũng phải chết? Khoảng cách mười ngàn năm, hay mười lần mười ngàn năm trong lịch sử thời gian là gì? Không là gì cả - nó như sương mù cuộn lại trong ánh mặt trời; nó chạy trốn như một giấc ngủ hay một hơi thở của Linh Hồn Vĩnh Cửu. Than ôi con người! Chắc chắn nó sẽ đuổi kịp chúng ta, và chúng ta sẽ phải ngủ. Chắc chắn chúng ta cũng lại thức dậy và sống lại, rồi lại ngủ tiếp, cứ thế và cứ thế, xuyên qua nhiều triều đại, không gian, và thời gian, từ niên đại này tới nhiên đại khác, tới khi thế giới chết hết, và các thế giới bên ngoài thế giới này chết hết, không còn gì sống sót ngoài Linh Hồn – đó là Sự Sống. Nhưng vì hai chúng ta và vì những người chết này, kết cục của các kết cục sẽ là Sự Sống, hay sẽ là Cái Chết? Nhưng Cái Chết là Màn Đêm của Sự Sống, ra khỏi đêm tối, Ngày Mai lại tái sinh, rồi Màn Đêm lại sinh ra lần nữa. Chỉ khi nào Ngày và Đêm, Sự Sống và Cái Chết, đều kết thúc và bị nuốt chửng trong những gì nó sinh ra, số phận của chúng ta sẽ ra sao, Holly? Ai có thể nhìn xa hơn nữa? Không, thậm chí ngay cả ta!”
Rồi giọng điệu và cách thức đột ngột thay đổi.
“Ngươi đã thấy đủ chưa, khách lạ, hay ta sẽ chỉ cho ngươi thêm những kỳ quan mộ chí trong khán phòng cung điện của ta? Nếu muốn, ta có thể dẫn ngươi tới chỗ Tisno, vị Vua hùng mạnh và dũng cảm nhất của Kôr, các hang động này đã hoàn thành vào thời của ông ta, giờ ông ta nằm trong nơi lộng lẫy như chế nhạo hư vô, chào đón bóng tối trống rỗng của quá khứ đang sùng kính thứ hư ảo đã khắc sâu của ông ta!”
“Tôi đã xem đủ rồi, thưa Nữ Hoàng,” Tôi trả lời. “Trái tim tôi đang choáng ngợp trước sức mạnh Thần Chết hiển hiện. Loài người rất yếu đuối và dễ bị tan nát bởi cảm giác đồng hành chờ đợi thời khắc kết thúc. Vì thế hãy dẫn dắt tôi, Ayesha!”

Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 13+14



CHƯƠNG 13

Ayesha lộ diện
“Thế đấy,” Bà ấy nói, “hắn ta đã đi rồi, kẻ đần độn già nua râu trắng! À, tên đó cũng thu được chút ít tri thức trong đời. Hắn ta đã thu nó lại như nước, nhưng giống như nước, nó lại chảy qua ngón tay, nếu bàn tay hắn ta ướt dù là bởi sương, thế hệ những kẻ ngu ngốc đó vẫn gào lên ‘Thấy chưa, ông ấy là người thông thái!’ Không phải vậy sao? Nhưng họ gọi ngươi thế nào? Hắn ta gọi ‘Khỉ Đầu Chó’,” bà ta cười; “nhưng đó là kiểu cách của đám người hoang dã thiếu trí tưởng tượng đó, những con thú bay tới, họ sẽ gán cho một cái tên tương tự nhau. Họ gọi ngươi thế nào ở đất nước của ngươi, người lạ?”
“Họ gọi tôi là Holly, thưa Nữ Hoàng,” Tôi trả lời.
“Holly,” bà ấy nói từ đó một cách khó khăn, nhưng bằng giọng duyên dáng nhất; “Holly là gì?”
“Holly là một cái cây có gai,” Tôi nói.
“Vậy à. Phải, ngươi trông giống một cái cây có gai. Khỏe mạnh, xấu xí, nhưng nếu trí tuệ ta không sai lầm, ngươi là một người trung thực tận xương tủy, một người đáng để dựa vào. Ta nghĩ vậy. Nhưng hãy ở đây, Holly, đừng đứng đó, vào với ta và ngồi bên ta. Ta không muốn thấy ngươi bò trước mặt ta như đám nô lệ kia. Ta sợ sự sùng bái và khủng bố của họ; đôi khi họ làm phiền ta, ta chỉ có thể hủy diệt họ để vui đùa, để thấy đám còn lại chuyển sang trắng bệch, thậm chí tận tim phổi.” Rồi bà ấy giữ tấm rèm bên cạnh bằng đôi tay trắng ngà để tôi đi qua vào trong.
Tôi bước vào, run rẩy. Người phụ nữ này rất khủng khiếp. Khi tấm rèm dừng lại, khoảng mười hai feet mười, trong chỗ nghỉ là một cái giường và một cái bàn trên đó đặt trái cây và nước lấp lánh. Cuối phòng là một chiếc bình như tranh vẽ trên đá trạm khắc, cũng đầy nước tinh khiết. Nơi này được chiếu sáng nhẹ nhàng bởi những cây đèn hình lọ tuyệt đẹp mà tôi đã nói, không khí và rèm treo đầy mùi nước hoa tinh tế. Nước hoa dường như tỏa ra từ mái tóc tráng lệ và trang phục trắng bó sát người của chính Bà ấy. Tôi đi vào phòng nhỏ rồi nghi ngại đứng đó.
“Ngồi đi,” Bà ấy nói, chỉ vào cái giường. “Ngươi không có lý do gì để sợ hãi ta. Nếu có, ngươi sẽ không sợ nữa, vì ta sẽ giết ngươi. Vì thế hãy để trái tim ngươi được soi sáng.”
Tôi ngồi xuống chân giường gần bồn nước trông như cái bình, còn Bà ấy nhẹ nhàng ngồi xuống bên kia.
“Nào bây giờ, Holly,” bà ta nói, “Làm thế nào ngươi nói được tiếng Ả Rập? Đó là ngôn ngữ thân yêu của ta, vì ta là một người Ả Rập từ khi sinh ra, thậm chí ‘al Arab al Ariba’ (một người Ả Rập của những người Ả Rập), đó là chủng tộc của cha chúng ta Yárab, con trai của Kâhtan, vì ta sinh ra ở thành Ozal xinh đẹp và cổ kính của vùng Yaman Hạnh Phúc. Nhưng ngươi không nói ngôn ngữ đó giống như chúng ta từng nói. Ngươi nói thiếu nhạc điệu của thứ ngôn ngữ ngọt ngào của các bộ tộc ở Hamyar mà ta chưa bao giờ nghe thấy. Vài từ dường như đã thay đổi, thậm chí giống người Amahagger kia, những kẻ đã làm mất giá trị và làm ô uế sự tinh khiết của nó, vì thế ta phải nói chuyện với chúng bằng ngôn ngữ khác.” [*]
[*] Yárab con trai của Kâhtan, người sống vào những thế kỷ trước thời đại của Abraham, là cha đẻ của người Ả Rập cổ, đã đặt tên Ả Rập cho đất nước này. Trong cách nói của chính bà ấy ‘al Arab al Ariba’, Bà ấy chắc chắn muốn truyền đạt rằng, Bà ấy mang dòng máu Ả Rập chính thống để phân biệt với những người Ả Rập nhập tịch, hậu duệ của Ismael, con trai của Abraham và Hagar, những người được biết đến như ‘al Arab al mostáraba’. Phương ngữ của bộ lạc cổ Koreish thường được gọi là tiếng Ả Rập rõ ràng hay “dễ hiểu”, nhưng phương ngữ Hamaritic lại gần với nguyên bản tiếng Syria mẹ đẻ hơn. – L.H.H.
“Tôi đã nghiên cứu nó,” Tôi trả lời, “suốt nhiều năm. Ngôn ngữ này cũng được nói ở Ai Cập và nơi khác nữa.”
“Vậy là nó vẫn được nói, và ở cả tận Ai Cập ư? Vị Pharaoh nào đang ngồi trên ngai vàng? Vẫn là một con cháu của nhà Ochús người Ba Tư chứ, hay nhà Achæmenians đã ra đi rồi, vì thời của Ochús đã xa lâu rồi mà.”
“Người Ba Tư đã ra đi khỏi Ai Cập vào hai nghìn năm trước, từ đó là gia tộc Ptolemy, người La Mã, và nhiều thế hệ khác nữa đã phát triển mạnh mẽ và thống trị bên sông Nile, rồi sụp đổ khi thời đại của họ đã suy tàn,” tôi kinh ngạc nói. “Người biết gì về nhà Artaxerxes người Ba Tư?”
Bà ấy cười, không trả lời, lại một cơn ớn lạnh xuyên qua tôi. “Còn Hy Lạp,” bà ấy nói; “Hy Lạp vẫn còn đó chứ? Ôi, ta yêu người Hy Lạp. Họ đẹp như ban ngày, và thông minh nữa, nhưng trái tim khốc liệt và hay thay đổi.”
“Vâng,” Tôi nói, “Có một Hy Lạp; chỉ là bây giờ, nó lại một lần nữa là một dân tộc. Nhưng người Hy Lạp ngày nay không phải là người Hy Lạp thời xưa, nước Hy Lạp giờ là một sự nhạo báng cho Hy Lạp trước kia.”
“Vậy à! Người Do Thái vẫn ở Jerusalem chứ? Ngôi Đền nhà vua thông thái xây dựng vẫn còn chứ, và nếu thế thì Thiên Chúa mà họ thờ phụng trong đó là ai? Đấng Cứu Thế của họ đến rồi chứ, họ rao giảng nhiều đến thế và tiên tri lớn tiếng đến thế về vị đó, Người đó đã thống trị trái đất rồi chứ?”
“Người Do Thái đã bị tan vỡ và biến mất, những mảnh vỡ của dân tộc họ trải khắp thế giới, Jerusalem không còn gì nữa. Đối với ngôi đền mà Herod đã xây dựng,”
“Herod!” bà ấy nói. “Ta không biết Herod. Nhưng tiếp tục đi.”
“Người La Mã đã đốt nó, và những con đại bàng La Mã bay qua đống đổ nát của nó, giờ Judæa là một sa mạc.”
“Vậy à, vậy à! Họ là một dân tộc vĩ đại, người La Mã ấy, và đi thẳng đến chấm hết – ôi, họ đã lao đến đó như định mệnh, hay giống những con đại bàng của họ lao vào con mồi! – và để yên bình lại phía sau.”
"Solitudinem faciunt, pacem appellant," Tôi đề nghị.
“A, ngươi cũng có thể nói tiếng Latin nữa!” Bà ngạc nhiên nói. “Thật là một âm thanh kì lạ trong tai ta sau bao ngày qua, dường như với ta giọng nói của ngươi không trầm xuống như người La Mã nói chuyện. Ai đã viết lời đó? Ta không biết câu đó, nhưng chắc là người của dân tộc vĩ đại đó. Có vẻ như ta đã tìm thấy một người rất uyên bác – người mà đôi tay giữ được dòng nước trí tuệ của nhân loại. Ngươi cùng biết tiếng Hy Lạp chứ?”
“Vâng, thưa Nữ Hoàng, và một chút tiếng Do Thái, nhưng không nói tốt lắm. Giờ chúng đều là những ngôn ngữ đã chết.”
Bà ấy vỗ tay trong niềm vui sướng rất trẻ con. “Đúng thế thật, ngươi là một cái cây xấu xí, ngươi sinh trưởng những hoa trái khôn ngoan, ôi Holly,” bà ấy nói; “nhưng ta ghét người Do Thái, vì họ gọi ta là ‘ngoại đạo’ khi ta muốn dạy họ triết lý của ta – Đấng Cứu Thế của họ đã đến rồi chứ, Ngài ấy đã thống trị thế giới ư?”
“Đấng Cứu Thế của họ đã đến,” Tôi trả lời với sự tôn kính; “nhưng Ngài nghèo khổ và thấp hèn, còn họ chẳng muốn gì từ Ngài. Họ đánh đòn Ngài, đóng đinh Ngài trên cây, nhưng lời của Ngài và những tác phẩm của Ngài còn sống, vì Ngài là Con Trai của Thiên Chúa, giờ đây sự thật là Ngài đã thống trị một nửa thế giới, nhưng không phải là Hoàng Đế của Thế Giới.”
“A, những con sói lòng dạ tàn nhẫn,” bà nói, “những kẻ đi theo Cảm Giác và thần thánh – tham lợi và bè phái. Ta có thể thấy gương mặt tối tăm của họ. Vậy họ đã đóng đinh Đấng Cứu Thế của họ ư? Thật không thể tin được. Ngài ấy là Con Trai của Sinh Thần, chuyện này không là gì với họ, nếu thực sự Ngài là như vậy, chúng ta sẽ nói sau. Họ không thể quan tâm tới bất kỳ vị Thần nào nếu Ngài đến mà không phô bầy cùng sức mạnh. Họ, dân tộc được lựa chọn, con tàu của Ngài họ gọi là Jehovah, ôi, còn con tàu của Baal, con tàu của Astoreth, con tàu của các thần linh của người Ai Cập – dân tộc có dạ dày lớn, tham lam đã mang tới cho họ của cải và sức mạnh. Vậy nên, họ đóng đinh Đấng Cứu Thế của mình vì Ngài đến trong bề ngoài thấp hèn – còn giờ bọn họ đã bị phân tán rải rác khắp trái đất ư? Tại sao, nếu ta nhớ được, không có lời tiên tri nào của họ nói vậy. Phải, hãy để họ đi – họ đã làm tan nát trái tim ta, những người Do Thái đó, làm ta nhìn thế giới bằng đôi mắt xấu xa, chao ôi, và đưa ta tới nơi hoang dã này, nơi của một dân tộc còn tồn tại trước cả họ. Khi ta muốn dạy họ sự thông thái ở Jerusalem, họ đã ném đá ta, ngay tại cổng Đền Thờ, những kẻ đạo đức giả râu trắng và các giáo sĩ xua người dân tới ném đá ta! Nhìn này, dấu vết chuyện đó giờ vẫn còn đây!” Bất ngờ bà ấy kéo tấm vải phủ như sương khói trên cánh tay tròn trịa lên, chỉ vào một vết sẹo nhỏ màu đỏ đối lập với vẻ đẹp trắng trong ngọt ngào đó.
Tôi co người lại kinh hoàng.
“Xin lỗi, thưa Nữ Hoàng,” Tôi nói, “Nhưng tôi rất hoang mang. Màn đêm hai nghìn năm đã trôi qua trên trái đất kể từ khi Đấng Cứu Thế của người Do Thái bị treo trên cây thập tự giá tại Golgotha. Thế thì làm thế nào người có thể dạy giáo lý cho người Do Thái trước cả Ngài tồn tại? Người là một phụ nữ và không có linh hồn. Làm thế nào một phụ nữ có thể sống hai nghìn năm? Tại sao người lừa gạt tôi, thưa Nữ Hoàng?”
Bà ấy ngả lưng trên giường, một lần nữa tôi lại cảm thấy đôi mắt ẩn sau đang trêu đùa tôi, nhìn ra lòng tôi.
“Ôi con người này!” cuối cùng bà ấy nói rất chậm rãi và thong thả, “dường như vẫn có những thứ trên trái đất mà ngươi không biết. Ngươi vẫn tin rằng mọi thứ đều chết đi, thậm chí cả những người Do Thái kia cũng vậy ư? Ta nói cho ngươi không có gì chết đi cả. Không có những thứ như Tử Thần, chỉ có một thứ gọi là Thay Đổi. Xem này,” và bà ấy chỉ vào vài bức điêu khắc trên tường đá. “Ba lần hai nghìn năm đã qua đi kể từ lúc người cuối cùng của chủng tộc vĩ đại khắc ra những bức tranh này ngã xuống khi bệnh dịch hạch bùng nổ tiêu diệt họ, nhưng họ vẫn chưa chết. Thậm chí giờ họ vẫn sống; không chừng linh hồn họ đang bị thu hút về phía chúng ta ngay giờ phút này,” rồi bà ấy nhìn quanh. “Chắc chắn đôi khi dường như mắt ta có thể thấy họ.”
“Vâng, nhưng với thế giới, họ đã chết.”
“À, một lúc thôi; nhưng thậm chí với thế giới, họ sẽ lại ra đời lần nữa, và cứ thế tiếp diễn. Ta, phải, ta, Ayesha [*] – người lạ, đó là tên ta – Ta nói cho ngươi, ta chờ đợi đến giờ vì người ta yêu sẽ tái sinh, ta nán lại đây đến lúc chàng tìm thấy ta, biết chắc rằng chàng sẽ đến, ở đây, và chỉ ở đây, chàng sẽ chào đón ta. Tại sao, ngươi có tin không, ta, một người đầy quyền lực, ta, đẹp hơn nhiều vẻ đẹp của nàng Helen người Hy Lạp, ta, người họ từng ngợi ca, sự thông thái của ta rộng hơn, rộng và sâu hơn rất nhiều so với sự thông thái của Solomon Thông Thái – Ta, người biết những bí mật của trái đất và sự giàu có của nó, có thể biến tất cả mọi thứ cho ta dùng – Ta, người từng vượt qua Thay Đổi, mà ngươi gọi là Thần Chết – tại sao, ta nói, ôi người lạ, ngươi nghĩ rằng ta đã hợp thành bầy ở đây với đám người hoang dã thấp kém hơn thú vật này sao?”
[*] Phát âm là Assha – L.H.H.
“Tôi không biết,” Tôi khiêm tốn nói.
“Vì ta đợi chàng, người ta yêu. Đời ta không chừng đã thành quỉ dữ, ta không biết nữa – vì ai có thể nói cái gì là quỉ dữ, cái gì là thánh thiện – vì thế ta sợ chết, thậm chí nếu ta có thể chết, điều ta không thể cho đến khi nào giờ phút của ta tới, để đi và tìm kiếm chàng đang ở đâu; vì giữa chúng ta có một bức tường chắn ta không thể trèo qua, ít ra ta sợ hãi làm điều đó. Chắc cũng dễ lạc lối lúc đang kiếm tìm trong những không gian vĩ đại nơi các hành tinh lang thang vô tận này. Nhưng ngày đó sẽ tới, có thể hơn năm nghìn năm đã trôi qua, lạc lối và tan chảy trong miệng Thời Gian, như thể mây trôi tan dần trong bóng đêm, hay có lẽ là ngày mai, khi chàng – tình yêu của ta – tái sinh lại, rồi theo qui luật mạnh hơn bất kỳ kế hoạch nào của con người, chàng sẽ tìm thấy ta ở đây, nơi chàng từng biết ta, chắc chắn trái tim chàng sẽ mềm đi trước ta, dù ta đã phạm tội chống lại chàng; ôi, thậm chí dù chàng không còn nhớ ta nữa, chàng sẽ vẫn yêu ta, chỉ vì nhan sắc này.”
Một thoáng tôi chết lặng, không thể trả lời. Câu chuyện quá áp đảo khiến trí tuệ của tôi không thể nắm bắt.
“Nhưng dù vậy đi nữa, thưa Nữ Hoàng,” cuối cùng tôi nói, “ngay cả nếu đàn ông chúng tôi tái sinh đi tái sinh lại, thì người cũng không như thế, nếu người nói là thật.” Bà ấy nhìn lên sắc bén, và tôi lại một lần nữa bắt gặp ánh sáng lóe lên từ đôi mắt bị che khuất đó; “người chưa bao giờ chết ư?” Tôi vội vã tiếp tục.
“Đúng vậy,” Bà ấy nói; “vì một phần may mắn, một phần nhờ học hỏi, ta đã giải quyết được một trong những bí mật vĩ đại của thế giới. Hãy nói cho ta, người lạ: sự sống – thế thì tại sao sự sống không nên kéo dài một thời gian chứ? Một cuộc đời mười hay hai mươi hay năm mươi nghìn năm lịch sử có là gì? Tại sao trong mười nghìn năm hiếm hoi mưa bão sẽ bào mỏng đỉnh núi đi một đoạn? Trong hai nghìn năm qua hang động này không thay đổi, không gì thay đổi ngoài thú vật và con người – những kẻ giống như thú vật. Chuyện này không có gì hay cả, nhưng ngươi có thể hiểu. Sự sống rất tuyệt vời, nhưng được kéo dài thêm một chút thì không tuyệt vời đâu. Tự nhiên có linh hồn sống động của nó cũng như con người, là con của Mẹ Tự Nhiên, có linh hồn, có hơi thở, và sống cùng sự sống của Mẹ Tự Nhiên. Con người sẽ không sống vĩnh hằng, vì Mẹ Tự Nhiên không vĩnh hằng, bà ấy sẽ phải chết, như mặt trăng tự nhiên sẽ chết. Bà ấy phải chết, ta muốn nói rằng, đúng hơn là thay đổi và ngủ tới lúc bà ấy sống lại. Nhưng bà ấy sẽ chết khi nào? Chưa, ta tin tưởng , trong khi bà ấy còn đang sống, ai có được bí mật của bà cũng sẽ sống cùng với bà như vậy. Ta không có tất cả bí mật của bà, nhưng ta có một số, chừng như nhiều hơn bất kỳ ai tồn tại trước ta. Giờ đây với ngươi, ta không nghi ngờ gì, điều này sẽ là một bí ẩn vĩ đại, do đó ta sẽ không dùng nó vượt qua ngươi bây giờ. Lúc khác ta sẽ nói cho ngươi nhiều hơn nếu tâm trạng của ta tốt, dù dường như ta chưa bao giờ nói lại điều đó. Ngươi đang tự hỏi làm sao ta biết ngươi đến mảnh đất này ư, rồi cứu đầu các ngươi khỏi cái chậu nung nóng?”
“Vâng, thưa Nữ Hoàng,” Tôi yếu ớt trả lời.
“Thế thì hãy nhìn trên mặt nước,” bà ấy chỉ vào cái bình khắc, sau đó cong người về phía trước, chạm tay vào nó.
Tôi đứng lên nhìn chằm chằm, ngay lập tức nước tối lại. Rồi nó quang đãng trở lại, tôi thấy rõ rệt như đang nhìn thấy bất kỳ việc gì trong đời mình – Tôi thấy con thuyền của chúng tôi trên kênh đào kinh khủng đó. Có Leo nằm ngủ dưới đáy, một cái áo choàng chùm qua cậu ấy để chống muỗi, trong tư thế như che đi khuôn mặt cậu ấy, còn tôi, Job và Mahomed đang kéo trên bờ kênh.
Tôi quay lại kinh ngạc, kêu lên rằng đó là ma thuật, vì tôi nhận ra cảnh đó – đó là những gì thực sự xảy ra.
“Không, không; ôi Holly,” bà ấy trả lời, “Đó không phải là ma thuật, thật là hoang đường dốt nát. Chả có gì là ma thuật cả, dù những thứ thế này là tri thức trong những bí mật của Mẹ Tự Nhiên. Nước là chiếc gương của ta; ta thấy những gì xảy ra trong đó nếu ta muốn triệu hồi những hình ảnh lên, việc này không thường xuyên. Thế là ta có thể thấy các ngươi, những gì các ngươi làm trong quá khứ, nếu có gì đó phải làm cho đất nước này, ta sẽ biết, hay ngươi – người quan sát – cũng sẽ biết. Hãy nghĩ về một gương mặt nếu ngươi là người đó, nó sẽ ánh xạ từ tâm trí ngươi lên mặt nước. Ta chưa biết toàn bộ bí mật này – Ta không thể đọc được gì từ tương lai. Nhưng đó là một bí mật kỳ lạ, ta chưa tìm ra nó. Ở Ả Rập và Ai Cập, các phù thủy biết về nó từ hàng thế kỷ qua. Một ngày ta tình cờ ngẫm nghĩ về con kênh đào cổ - kể từ khi ta đi thuyền trên đó lúc khoảng hai mươi tuổi, ta cố ý muốn nhìn lại nó. Ta đã nhìn như vậy, rồi ta thấy con thuyền và ba người các ngươi đang đi trên đó, còn một người, gương mặt ta không thể thấy, nhưng hình dáng trẻ trung và cao quý, đang ngủ trên thuyền, vì vậy ta đã gửi thông điệp và cứu các ngươi. Còn bây giờ chia tay thôi. Nhưng ở lại đã, hãy nói cho ta về người trẻ tuổi – con Sư Tử, như người già kia gọi hắn ta. Ta muốn gặp hắn, nhưng hắn lại ốm, ngươi đã nói - ốm vì sốt rét, cũng bị thương trong trận đánh nhau.”
“Cậu ấy rất yếu,” Tôi trả lời buồn bã; “Người không thể làm gì cho cậu ấy sao, thưa Nữ Hoàng! Ai biết được nhiều đến vậy chứ?”
“Tất nhiên ta có thể. Ta có thể chữa cho hắn; nhưng sao ngươi nói chuyện buồn bã đến thế? Ngươi yêu người trẻ đó sao? Hắn ước chừng là con trai ngươi phải không?”
“Cậu ấy là con trai nuôi của tôi, thưa Nữ Hoàng! Cậu ấy sẽ bị mang đi trước chúng tôi sao?”
“Không. Sốt rét đã tấn công hắn bao lâu rồi?”
“Hôm nay là ngày thứ ba.”
“Tốt; thế thì hãy để hắn nằm thêm ngày nữa. Có lẽ hắn sẽ khỏi thôi vì hắn rất khỏe, tốt hơn so với để ta cứu, vì thuốc của ta thuộc loại sẽ làm rung chuyển thành lũy của sự sống. Tuy nhiên nếu đêm mai, vào giờ này sốt rét vẫn thống trị hắn, hắn sẽ không thể tự hồi phục, khi đó ta sẽ đến cứu hắn. Ngừng lại, ai đang chăm sóc hắn?”
“Người đầy tớ da trắng của chúng tôi, Billali đặt tên anh ta là Con Lợn;” tôi do dự một chút, “còn cả một phụ nữ tên Ustane, một phụ nữ rất đẹp của đất nước này, cô ấy đã tới ôm cậu ấy khi lần đầu tiên thấy cậu, và luôn bên cạnh cậu ấy từ đó đến giờ, theo tôi hiểu đó là phong cách người dân của người, thưa Nữ Hoàng.”
“Người dân của ta! Đừng nói với ta về người dân của ta,” bà ấy vội vã trả lời; “Những kẻ nô lệ đó không phải người dân của ta, chúng chỉ là lũ chó bắt ta phải trả giá tới khi ngày giải thoát của ta đến; vì đó là phong tục của họ, ta chả có gì để làm cả. Cũng đừng gọi ta là Nữ Hoàng – Ta mệt với trò tâng bốc và các chức danh rồi – hãy gọi ta là Ayesha, tên đó nghe thật ngọt ngào êm tai, như tiếng vang từ quá khứ. Đối với Ustane này, ta không biết. Ta băn khoăn không biết đó có phải là người chống đối mà ta được cảnh báo không, và đã đến lượt ta cảnh báo người đó? Dừng lại, ta sẽ xem đã;” rồi gập người về phía trước, bà ấy giơ tay về phía mặt nước và nhìn chăm chú vào đó. “Xem này,” Bà ấy lặng lẽ nói, “Đó là cô ta ư?”
Tôi nhìn vào nước, ở đó, phản chiếu trên bề mặt yên ả của nó là hình bóng khuôn mặt nghiêm trang của Ustane. Cô ấy cúi người về phía trước, với cái nhìn dịu dàng vô hạn trên từng đường nét, đang xem gì đó bên dưới, những chiếc khóa hạt dẻ rơi trên vai phải của cô.
“Đó là cô ấy,” Tôi thấp giọng nói, một lần nữa tôi cảm thấy rất nhiều lo lắng trong cái nhìn bất thường này. “Cô ấy đang trông Leo ngủ.”
“Leo!” Ayesha nói bằng giọng lơ đãng; “tại sao, đó là từ ‘lion’ (sư tử) trong tiếng Latin mà. Người già kia lần này đặt tên rất hay. Thật là lạ,” bà ấy tự nói với chính mình, “rất lạ. Giống đến vậy – nhưng không thể nào!”  Với một cử chỉ thiếu kiên nhẫn, bà ấy đưa tay trên nước một lần nữa. Nó tối lại, hình ảnh im lặng biến mất và thật thần bí như khi nó hiện ra, một lần nữa ánh đèn, chỉ có ánh đèn, chiếu sáng bề mặt yên ả của chiếc gương sống động trong veo đó.
“Ngươi có muốn hỏi gì ta trước khi đi không, Holly?” bà ta nói, sau khi nghĩ một lúc. “Thật là một cuộc sống thô sơ khiến ngươi phải chịu đựng ở đây, vì những người này rất hoang dã, không biết cách canh tác. Ta không gặp rắc rối vì điều đó, đây là thức ăn của ta,” bà ấy chỉ vào hoa quả trên bàn nhỏ. “Không gì ngoài hoa quả từng đi qua miệng ta – hoa quả và bánh bột mì, cùng một ít nước. Ta mời chào các cô gái tới đợi các ngươi. Họ câm, ngươi thấy đấy, vừa câm vừa điếc, nên là những người đày tớ an toàn nhất, thật tiết kiệm với những ai có thể đọc được gương mặt và ký hiệu của họ. Ta nuôi dưỡng họ - mất rất nhiều thế kỷ và nhiều rắc rối; nhưng cuối cùng ta đã thành công. Ta đã từng thành công trước đó, nhưng chủng loại đó quá xấu xí, vì thế ta đã để cho nó chết đi; nhưng giờ, như ngươi thấy, họ hoàn toàn khác. Ta cũng từng nuôi một chủng loại khổng lồ, nhưng Mẹ Tự Nhiên không muốn nữa, và nó chết đi. Ngươi có muốn hỏi gì ta không?
“Vâng, một điều thôi, Ayesha,” Tôi mạnh dạn nói; nhưng cảm thấy không có cách nào để mạnh dạn như tôi tin tưởng. “Tôi muốn nhìn thấy mặt của người.”
Bà ấy cười vang như chuông. “Ngươi nghĩ xem, Holly,” bà ấy trả lời; “ngươi nghĩ xem. Dường như ngươi biết những huyền thoại xa xưa về các vị thần Hy Lạp. Không có một Actæon bị chết khốn khổ vì anh ta nhìn vào một nhan sắc quá lộng lẫy đó sao? Nếu ta cho ngươi xem mặt, không chừng ngươi cũng có thể chết một cách khốn khổ; không chừng ngươi có thể ăn mất cả trái tim mình trong ham muốn bất lực; vì ta không phải dành cho ngươi – ta không dành cho ai hết, trừ một người, đã từng dành cho một người, nhưng giờ thì chưa.”
“Như người mong muốn, Ayesha,” Tôi nói. “Tôi không sợ vẻ đẹp của người. Tôi đã để trái tim cách xa khỏi thứ hư không như nhan sắc phụ nữ, thứ đó chỉ như một bông hoa.”
“Không, ngươi sẽ bị giam lại,” bà ta nói; “không vượt qua được. Vẻ đẹp của ta trường tồn cũng như chính ta; nếu ngươi vẫn còn muốn vậy, ôi con người dại dột, ngươi sẽ thế; nhưng đừng đổ lỗi cho ta nếu đam mê đó gắn vào lý do của ngươi, như những kẻ phạm tội người Ai Cập từng trèo lên chú lừa con, rồi dẫn đi đâu ngươi không biết. Chưa bao giờ có người đàn ông nào đứng trước vẻ đẹp của ta lại có thể bỏ nó ra khỏi tâm trí, vì thế đối với đám người hoang dã này, ta phải che mặt, để họ ít làm phiền ta hơn, nếu không ta sẽ giết họ. Hãy nói đi, ngươi vẫn muốn nhìn ư?”
“Tôi muốn,” Tôi trả lời, trí tò mò lấn át tôi.
Bà ta nâng cánh tay tròn trịa trắng tinh lên – chưa bao giờ tôi thấy cánh tay như vậy trước đây – và chậm rãi, rất chậm rãi, rút từng thứ buộc bên dưới mái tóc. Rồi khi tất cả lớp vải bao bọc dài và như xác chết đột ngột rơi từ trên người bà ấy xuống đất, đôi mắt tôi lướt lên hình hài của bà ấy, giờ chỉ còn khoác bộ y phục hơi trắng làm hiện ra vóc dáng hoàn hảo và tôn quí, mang bản năng của sự sống, thậm chí còn hơn cả sự sống, kiều diễm như loài rắn chứ không phải con người. Trên đôi chân nhỏ là đôi dép gắn đinh tán vàng. Rồi đến mắt cá chân hoàn hảo hơn cả những gì nhà điêu khắc từng mơ tưởng. Trên eo, chiếc váy dài trắng của bà gắn con rắn hai đầu bằng vàng ròng, khiến thân thể duyên dáng uốn theo những đường tinh tế dễ thương, cho đến khi chiếc váy dài kết thúc bằng miếng bạc trắng tuyết trên ngực, nơi cánh tay đang gập lại. Tôi nhìn vào gương mặt bà ấy – Tôi không nói quá – co lại như bị mờ đi và kinh ngạc. Tôi từng nghe nói về vẻ đẹp của tiên nhân, giờ tôi đã thấy; chỉ là vẻ đẹp này, với vẻ diễm lệ và tinh khiết khủng khiếp, lại trở thành ma quỉ - ít nhất lúc này, tôi thấy như ma quỉ. Tôi biết mô tả nó thế nào đây? Tôi không thể - đơn giản tôi không thể! Người không sống cùng cây bút có lẽ sẽ truyền đạt được cảm giác về những gì tôi thấy. Tôi có thể nói, đôi mắt trở nên to hơn, đen sâu thẳm và mềm mại, trên gương mặt tô màu nhẹ, vầng trán rộng cao quí, trên đó tóc rủ xuống thẳng và tinh tế. Nhưng tất cả đều đẹp, quá đẹp, vẻ đẹp của bà ấy không nằm trong đó. Nếu có thể được cho là có một nơi cố định, vẻ đẹp đó nằm trong vẻ uy nghiêm toát ra, trong vẻ kiều diễm hoàng tộc, trong dấu vết thần thánh của quyền lực mềm, thứ đang tỏa sáng trên gương mặt rạng rỡ như vầng hào quang sống động. Trước đây chưa bao giờ tôi đoán được có vẻ đẹp cao cả đến vậy – nhưng cao cả là một thứ đen tối – hào quang không hẳn là thiên đường – dù không gì vinh quang hơn nó. Dù gương mặt trước mắt tôi là của một phụ nữ trẻ không quá ba mươi tuổi, sức khỏe hoàn hảo, thoạt tiên chói lọi bởi vẻ chín muồi, nhưng đóng dấu lên đó vẻ từng trải khôn tả, vẻ quen thuộc sâu sắc với nỗi đau và đam mê. Ngay cả nụ cười đáng yêu len giữa núm đồng tiền trên miệng cũng có thể che đi bóng tối của tội lỗi và nỗi buồn. Nó chiếu sáng cả đôi mắt lộng lẫy, hiện ra vẻ uy nghiêm, dường như đang nói: “Hãy nhìn ta đi, đáng yêu đến mức không phụ nữ nào bằng, bất tử và thần thánh; ký ức ám ảnh ta từ đời này sang đời khác, đam mê dắt tay ta – ta đã là ma quỉ, từ đời này sang đời khác, ta sẽ là ma quỉ, ta sẽ buồn bã tới khi sự cứu rỗi tới.”
Bị thu hút bởi lực từ mà tôi không thể cưỡng lại được, tôi để mắt nghỉ ngơi trên quả cầu uy quyền sáng lấp lánh của bà ấy, cảm thấy con đường hiện tại từ đó đến chỗ tôi gây hoang mang và bị che khuất.
Bà ấy cười – a, như tiếng nhạc! và gật cái đầu nhỏ bé với tôi bằng điệu bộ làm dáng như thăng hoa có thể gây tác động tới tượng thần Vệ Nữ.
“Con người dại dột!” bà ta nói; “Giống như Actæon, ngươi đã có lý trí; cẩn thận đấy, giống như Actæon, ngươi cũng có thể bị chết một cách khốn khổ, bị xé thành từng mảnh bởi bầy chó săn mê muội của chính ngươi. Ta cũng vậy, Holly, là một nữ thần đồng trinh, không đến được với bất kỳ đàn ông nào, trừ một người, và đó không phải ngươi. Lại nói, ngươi đã nhìn đủ rồi chứ!”
“Tôi đã nhìn vào vẻ đẹp này, tôi bị mù rồi,” Tôi nói giọng khàn khàn, nâng tay lên che mắt.
“Vậy sao! Ta đã nói với ngươi gì nhỉ? Vẻ đẹp như tỏa sáng; nó đáng yêu nhưng nó sẽ tàn phá – đặc biệt với cây cối, ôi, Holly!” Bà ta lại gật đầu lần nữa và mỉm cười.
Bỗng nhiên bà ta dừng lại, xuyên qua ngón tay mình, tôi thấy một thay đổi khủng khiếp trên vẻ mặt bà ấy. Đôi mắt to của bà ấy bỗng gắn chặt trong biểu cảm khiếp sợ như vật lộn với hy vọng to lớn đang tăng lên trong sâu thẳm tâm hồn tăm tối của bà. Gương mặt xinh xắn trở nên cứng ngắc, dáng vẻ yểu điệu duyên dáng dường như thẳng đứng.
“Con người kia,” bà ta nửa thì thầm, nửa rít lên, quay đầu lại như một con rắn sắp ra trận – “Con người kia, ngươi có con bọ hung phân scarab trên tay từ đâu? Nói, hoặc ta sẽ giết chết ngươi bằng Linh Hồn của Sự Sống ngay tại chỗ ngươi đứng!” và bà ta bước một bước nhẹ về phía tôi, từ đôi mắt bà ta chiếu ra ánh sáng khủng khiếp – với tôi, nó như ngọn lửa – rồi tôi ngã xuống đó, trên mặt đất trước bà ta, bập bẹ lúng túng trong nỗi sợ hãi.
“Bình tĩnh,” Bà ta nói, bất ngờ thay đổi cách thức, với giọng mềm mại như cũ. “Ta đã làm ngươi sợ! Hãy tha thứ cho ta! Nhưng lúc này, ôi Holly, tâm trí gần như vô hạn trở nên mất kiên nhẫn vì sự chậm chạp của thứ rất hữu hạn, ta bị kích thích sử dụng tới sức mạnh phiền toái – người gần như suýt chết đấy, nhưng ta nhớ rằng – con bọ hung phân scarab – về scarabæus ấy!”
“Tôi đã nhặt được nó,” Tôi ú ớ một cách yếu ớt, khi tôi nhận ra chân mình lần nữa, một thực tế nghiêm trọng là lúc này đầu óc tôi đã bị rối loạn, tôi không nhớ gì về chiếc nhẫn nữa trừ việc tôi nhặt nó lên trong động của Leo.
“Thật kỳ lạ,” bà ta nói bằng giọng đột ngột run rẩy kích động đầy nữ tính, dường như không phải người phụ nữ khủng khiếp lúc nãy – “nhưng ta từng biết một con bọ hung phân scarab như thế. Nó – treo vòng qua cổ - của người ta yêu.” Bà ấy phát ra một tiếng khó nhọc nức nở, cuối cùng tôi thấy bà ấy vẫn chỉ là một phụ nữ, dù có lẽ đã rất già.
“Cái này,” bà ta tiếp tục, “nó đúng là rất giống cái đó, ta chưa bao giờ từng thấy vật nào giống cái đó đến thế, hơn nữa vì từng gắn với một câu chuyện, chàng đeo nó và rất quí trọng nó. [*] Nhưng con bọ hung scarab mà ta biết không được đặt trong khung của một chiếc nhẫn thế này. Giờ hãy đi đi, Holly, đi đi, và nếu có thể, cố quên đi việc ngươi đã ngu ngốc nhìn thấy vẻ đẹp của Ayesha,” rồi quay người về phía tôi, bà ta quăng mình lên giường, vùi mặt vào gối.
[*] Tôi được một nhà Ai Cập học uyên bác và nổi tiếng - người tôi trình lên con bọ hung phân scarab nguyên vẹn rất thú vị và đẹp đẽ này, “suten se Ra” – thông báo rằng ông ta chưa bao giờ thấy vật nào giống như thế. Dù nó mang một danh hiệu thường gắn cho hoàng gia Ai Cập, nhưng ông ấy cho rằng nó không nhất thiết là vỏ đạn của một Pharaoh, mà cũng có thể là ngai vàng hay tên cá nhân của một vương triều đã được ghi lại nào đó. Câu chuyện về con bọ hung scarab cụ thể này là gì, thật không may, giờ chúng ta có thể không bao giờ biết, nhưng tôi hơi nghi ngờ rằng, nó đóng vai trò nào đó trong câu chuyện bi thảm của Công chúa Amenartas và người yêu bà ấy Kallikrates, vị linh mục không giữ lời thề của Isis. – Biên tập viên.
Còn đối với tôi, loạng choạng sau khi gặp bà ấy, tôi không nhớ đã về động của tôi bằng cách nào.

CHƯƠNG 14

Linh hồn trong Địa ngục
Đã gần mười giờ tối, tôi quăng mình xuống giường, và bắt đầu tập hợp những mảnh trí tuệ rải rác lại, ngẫm nghĩ về những gì tôi đã nhìn và nghe thấy. Nhưng càng suy nghĩ, tôi càng khó hiểu. Tôi bị điên, say hay đang mơ, hoặc chăng tôi chỉ là nạn nhân của một trò lừa bịp khổng lồ và công phu nhất? Làm sao mà tôi - một người có lý trí, không phải không quen thuộc với các sự kiện khoa học hàng đầu trong lịch sử, và đến giờ vẫn là một người không tin tuyệt đối và hoàn toàn vào những trò lừa phỉnh, ở châu Âu chúng đến dưới cái tên siêu nhiên – lại có thể tin được trong vài phút trước, tôi đã tham gia trò chuyện với một phụ nữ hai ngàn năm có lẻ tuổi? Điều đó đi ngược lại với thực nghiệm về bản chất tự nhiên con người, tuyệt đối hoàn toàn không thể xảy ra. Đó nhất định là một trò lừa bịp, nhưng nếu là lừa bịp, tôi nên nghĩ gì về nó? Hình ảnh trong nước, hiểu biết kỳ lạ của người phụ nữ về quá khứ xa xưa, và sự thiếu hiểu biết, hay sự thiếu hiểu biết rõ ràng của bà ấy về lịch sử sau này là sao? Vẻ đẹp tuyệt vời và khủng khiếp của bà ấy cũng vậy, là sao? Dù sao đó là một thực tế rõ ràng, ngoài tầm trải nghiệm của nhân loại. Không chỉ đơn thuần là một người phụ nữ trần tục có thể tỏa sáng như siêu nhiên. Về thứ bà ta sở hữu, dù sao về mặt quyền lợi – nó không an toàn cho bất kỳ ai nhìn vào nhan sắc như vậy. Tôi là một kẻ tàn nhẫn trong những vấn đề như vậy, ngoại trừ một trải nghiệm đau khổ thời xuân xanh, tôi luôn cho phụ nữ (đôi khi tôi nghĩ đó là lộn tên) ra ngoài đầu óc. Nhưng giờ đây, với nỗi khiếp sợ mãnh liệt, tôi biết rằng tôi không bao giờ có thể từ bỏ ảo tưởng về đôi mắt lộng lẫy đó; than ôi! Ma lực thực sự của người phụ nữ đó, dù nó làm kinh sợ và bài xích, vẫn lôi cuốn ở mức độ lớn hơn nhiều. Một người trải qua hai nghìn năm trên lưng, chỉ huy những sức mạnh to lớn như vậy, có kiến thức về một bí ẩn giúp thoát khỏi cái chết, chắc chắn đáng giá để yêu, dù đó là bất kỳ phụ nữ nào. Nhưng than ôi! Không phải câu hỏi bà ta có đáng hay không, đến giờ tôi có thể nhận ra, không thành thạo trong những vấn đề này, tôi, một nghiên cứu sinh đại học, được ghi nhận từ thành tích bản thân gọi là ghét phụ nữ, một người đàn ông đáng kính đang tuổi trung niên, đã hoàn toàn rơi vào tình yêu vô vọng với nữ phù thủy da trắng này. Vớ vẩn; thật vớ vẩn! Bà ta rõ ràng đã cảnh báo tôi, còn tôi từ chối tuân theo cảnh báo. Nguyền rủa tính tò mò chết người xui khiến đàn ông lật tấm màn che của phụ nữ, nguyền rủa những kích động tự nhiên gây ra điều đó! Nguyên nhân phân nửa – có lẽ nhiều hơn phân nửa – là bất hạnh của chúng ta. Tại sao đàn ông không thể hài lòng với cuộc sống đơn độc vui vẻ, và cũng để phụ nữ sống đơn độc vui vẻ như thế? Có lẽ họ có thể hạnh phúc, nhưng tôi không chắc chúng ta nên thế. Đây là một trạng thái yêu đương đẹp đẽ. Ở tuổi này, tôi lại trở thành nạn nhân của Nữ Phù Thủy hiện đại này! Nhưng bà ấy không phải người hiện đại, ít nhất bà ấy nói vậy. Bà ấy cổ xưa như Nữ Phù Thủy chính hiệu vậy.
Tôi vò tóc, nhảy khỏi giường, cảm thấy nếu không làm gì đó, tôi sẽ điên đầu mất. Bà ta có ý gì với con bọ hung phân scarabæus?  Đó là scarabæus của Leo, lấy ra từ chiếc rương cũ mà Vincey đã để lại phòng tôi gần hai mươi mốt năm trước. Cuối cùng có thể toàn bộ câu chuyện này là thật, và bản văn tự trên mảnh gốm không phải đồ giả mạo hay một phát minh của bộ óc gàn dở đã bị quên lãng từ lâu nào đó? Nếu vậy, có thể Leo là người đàn ông Bà ấy đang chờ đợi – người đàn ông đã chết được tái sinh lại! Không thể nào! Toàn bộ chuyện này thật nhảm nhí! Ai đã từng nghe nói về một người được sinh ra lần nữa chưa?
Nhưng nếu một phụ nữ có thể tồn tại hai nghìn năm, thì điều đó cũng có thể - bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra. Theo những gì tôi suy diễn, bản thân tôi lại có thể là hóa thân của ai đó đã bị lãng quên, hoặc có lẽ là bản mới nhất của chuỗi dài các tổ tiên của một bản thể nào đó. Phải, vive la guerre! Tại sao không chứ? Chỉ là không may, tôi không có hồi ức về các trạng thái kiếp trước đó. Ý tưởng này vô lý đến mức khiến tôi phá lên cười, nhìn vào bức tranh điêu khắc vẽ một chiến binh dữ tợn trên tường động, hét to với anh ta, “Ai biết được, phải không, nhà nghiên cứu sinh già? – có lẽ tôi là bản hiện đại của anh đấy. Lạy Chúa! Có lẽ tôi là anh và anh là tôi đấy.” Tôi cười nhạo chính sự điên rồ của mình, tiếng cười buồn thảm rung động cả mái vòm, như thể hồn ma người chiến binh làm vang vọng lại hồn ma của tiếng cười.
Sau đó tôi nghĩ rằng tôi chưa xem Leo thế nào, vì thế, cầm một trong những cây đèn đang cháy bên cạnh giường, tôi cởi giày và rón rén đi xuống lối đi nhỏ dẫn vào động cậu ấy đang ngủ. Luồng khí đêm nâng rèm đu đưa nhẹ nhàng, như thể bàn tay có lý trí đang đưa đẩy nó. Tôi luồn vào căn phòng như cái hầm và nhìn quanh. Có chút ánh sáng để tôi có thể nhận ra Leo đang nằm trên giường, lăn lộn không ngừng trong cơn sốt rét, nhưng đã ngủ. Cạnh cậu ấy, nửa nằm trên sàn, nửa dựa vào chiếc giường đá, là Ustane. Cô đang cầm tay cậu ấy, nhưng cũng lơ mơ ngủ, cả hai tạo thành một bức tranh khá thảm hại. Leo khốn khổ! Má cậu ấy bừng đỏ, dưới mắt thâm quầng, hơi thở nặng nề. Cậu đang rất, rất ốm yếu; nỗi sợ hãi khủng khiếp lại xâm chiếm lấy tôi, rằng cậu ấy sắp chết, tôi sẽ bị bỏ lại cô độc trên đời. Còn nếu cậu ấy sống, cậu ấy có lẽ sẽ là đối thủ của tôi trước Ayesha; thậm chí nếu cậu ấy không phải đàn ông, thì có cơ hội nào cho tôi không, một người trung niên xấu xí, đối lập với sự trẻ trung và vẻ đẹp ngời sáng của cậu ấy? Đúng vậy, cảm ơn Thượng Đế! Cảm giác đúng đắn của tôi đã không bị chết đi. Bà ấy vẫn chưa giết được nó; và tôi đứng đó, cầu nguyện Thượng Đế chân thành, xin ngài để con trai tôi, còn hơn cả con trai, sống sót – dù ngài chứng minh được ngài là đàn ông hay không.
Rồi tôi nhẹ nhàng quay về, nhưng tôi vẫn không ngủ được; nhìn và nghĩ về Leo thân yêu ốm yếu nằm đó đã tiếp thêm dầu vào ngọn lửa lo âu trong lòng tôi. Thân thể mệt mỏi và tâm trí quá căng thẳng đánh thức tất cả trí tưởng tượng của tôi một cách vô thức và tự nhiên. Những ý tưởng, cách nhìn, cảm hứng trôi nổi một cách sống động đáng ngạc nhiên. Hầu hết chúng đều kì cục, một số kinh khủng, vài hồi tưởng và cảm giác từ bao nhiêu năm đã bị chôn vùi trong đổ nát của đời tôi. Nhưng, sau và trên tất cả, lượn lờ hình ảnh người phụ nữ kinh khủng đó, lấp lánh ký ức về vẻ đẹp mê hoặc của bà ta. Tôi cứ sải bước lên xuống trong động – lên rồi lại xuống.
Bỗng nhiên tôi quan sát thấy những gì không nhận ra trước đó, có một khe hở hẹp trên tường đá. Tôi cầm đèn kiểm tra nó; khe hở dẫn tới một lối đi nhỏ. Giờ tôi vẫn đủ nhạy cảm để ghi nhớ rằng, chuyện này không hề dễ chịu, giống như một tình huống chúng tôi đã từng rơi vào, có những lối nhỏ chạy tới căn phòng ngủ của người nào đó mà không ai biết là ở đâu. Nếu có những lối nhỏ này, người ta có thể đi theo; họ có thể tới khi người đó đang ngủ. Một phần xem nó dẫn đến đâu, một phần xuất phát từ mong muốn không ngừng thôi thúc làm một điều gì đó, tôi đi theo lối nhỏ đó. Nó dẫn tới một cầu thang đá, tôi đi xuống; cầu thang kết thúc bằng một lối nhỏ khác, hay đúng hơn là một đường hầm, cũng được đào vào khối đá đang nằm, theo tôi thấy, nó chạy đúng chính xác dưới phòng trưng bày dẫn đến lối vào các phòng của chúng tôi, và đi qua hang lớn ở trung tâm. Tôi đi xuống đó: yên lặng như mồ, nhưng vẫn có cảm giác lôi kéo thu hút mà tôi không thể định nghĩa được, đôi chân mang tất của tôi rơi xuống không tiếng động trên nền đá nhẵn mịn. Khi tôi đi qua khoảng năm mươi thước, tôi tới một lối đi khác chạy tới góc phải, ở đó một điều khủng khiếp xảy ra với tôi: làn gió sắc bén vây lấy và thổi tắt đèn, để tôi lại trong bóng tối hoàn toàn giữa lòng nơi bí ẩn này. Tôi đi vài bước tới đường hầm bị chia đôi, sợ hãi vô cùng bị lạc đường khi đi men theo nó trong bóng tối, rồi dừng lại suy nghĩ. Tôi nên làm gì đây? Tôi không có lựa chọn; cố quay lại con đường dài trong bóng tối hoàn toàn dường như là việc đáng sợ, nhưng tôi không thể đứng đây suốt đêm, nếu làm thế, có lẽ cũng không giúp gì cho tôi nhiều lắm, vì trong lòng đá, buổi trưa cũng tối như nửa đêm thôi. Tôi nhìn qua vai – không có dấu hiệu hay âm thanh nào. Tôi chăm chú nhìn vào phía trước trong bóng tối: chắc chắn phía xa tôi thấy gì đó như ánh lửa yếu ớt. Có lẽ đó là động tôi có thể nhận được ánh sáng – dù sao, cũng đáng để điều tra. Tôi rón rén đi dọc đường hầm một cách chậm rãi và đau đớn, giữ tay bám vào tường, cảm thấy mỗi bước chân đặt xuống, nỗi sợ rơi xuống hố lại ít đi. Ba mươi bước – có ánh sáng, ánh sáng rộng đến và đi, chiếu xuyên rèm! Năm mươi bước – nó gần trong tầm tay! Sáu mươi bước – ôi, thiên đường tuyệt vời!
Tôi đứng chỗ tấm rèm, chúng không treo gần, nên tôi có thể thấy rõ cái hang nhỏ bên ngoài. Có vẻ là một ngôi mộ, được chiếu sáng bởi một ngọn lửa ở giữa trung tâm, ánh sáng trắng không khói. Quả thật, ở đó phía bên trái, là một thềm đá có gờ cao khoảng ba inch, trên thềm một thứ đang nằm, tôi nghĩ là xác chết; dù sao cũng giống thế, còn có gì đó màu trắng phủ trên nó. Bên phải cũng tương tự, đặt một số tấm thêu. Trên ngọn lửa, cong cong một hình ảnh phụ nữ; người đó ở phía bên tôi và đối mặt với cái xác, khoác một áo choàng đen để giấu mình như áo choàng của nữ tu. Dường như người đó đang nhìn vào ánh lửa bập bùng. Đột nhiên, khi tôi đang cố nghĩ xem phải làm gì, bằng cơn co giật gây cảm giác khí lực tuyệt vọng, người phụ nữ đứng dậy và bỏ chiếc áo choàng đen khỏi người.
Đó chính là Bà ấy!
Bà ấy mặc chiếc váy dài trắng bó sát như khi tôi thấy lúc bà ấy bỏ che mặt, chiếc váy cắt thấp ngực, buộc con rắn hai đầu bên thắt lưng, và giống như trước đó, mái tóc đen gợn sóng dày nặng nề đổ xuống lưng. Nhưng gương mặt bà ấy – từng hút lấy mắt tôi, giữ chặt tôi – nhưng lúc này không phải bằng sức mạnh của nhan sắc, mà là sức mạnh của vẻ khủng bố lôi cuốn. Vẻ đẹp vẫn thế, thực vậy, nhưng nỗi thống khổ, niềm đam mê mù quáng và thù hận dữ dội bùng lên run rẩy, trong cái nhìn như tra tấn của đôi mắt hếch, vượt quá khả năng mô tả của tôi.
Bà ấy vẫn đứng đó một lúc, tay giơ cao lên đầu, chiếc váy trắng trượt xuống tới thắt lưng vàng, lộ ra vẻ đẹp chói mắt của thân thể. Bà ấy đứng đó, ngón tay nắm chặt, cái nhìn oán ghét khủng khiếp tụ tập và hằn sâu trên gương mặt.
Tôi chợt nghĩ về những gì có thể xảy đến nếu bà ta phát hiện ra tôi, suy nghĩ đó khiến tôi phát ốm và xỉu mất. Nhưng ngay cả khi biết sẽ phải chết nếu dừng lại, tôi cũng không tin mình có thể cử động được nữa, vì tôi đã hoàn toàn bị mê hoặc. Tôi vẫn biết điều nguy hiểm đó. Giả sử bà ta nghe thấy hay nhìn thấy tôi qua tấm rèm, giả sử tôi hắt hơi, hay phép thuật nói cho bà ta biết bà ta đang bị theo dõi – thực sự ngày tàn của tôi đã chóng đến.
Hạ bàn tay nắm chặt xuống bên sườn, rồi lại đưa lên đầu, như tôi là một người đàn ông còn sống và đáng kính, ánh lửa trắng nhảy lên tới mái, ném ánh sáng dữ dội khủng khiếp lên Bà ấy, thân ảnh da trắng dưới lớp phủ, từng cuộn từng cuộn trên tác phẩm bằng đá.
Lại đưa cánh tay trắng ngà xuống, bà ấy nói như rít lên, bằng tiếng Ả Rập, với những lời làm máu tôi đông lại, khiến tim tôi như ngừng đập giây lát.
“Hãy nguyền rủa cô ta, cô ta đáng bị nguyền rủa vĩnh viễn.”
Cánh tay rơi xuống và ánh lửa chìm dần. Rồi chúng lại đi lên, và lưỡi lửa rộng lớn lại bắn lên theo đó; rồi lại rơi xuống.
“Hãy nguyền rủa ký ức của cô ta – ký ức người Ai Cập đáng bị nguyền rủa.”
Lại lên rồi lại xuống.
“Hãy nguyền rủa cô ta, con gái sông Nile, vì vẻ đẹp của cô ta.”
“Hãy nguyền rủa cô ta, vì phép thuật của cô ta đã thắng ta.”
“Hãy nguyền rủa cô ta, vì cô ta đã dành mất người ta yêu.”
Ngọn lửa lại đi xuống và co lại.
Bà ta đưa tay trước mắt, bỏ giọng điệu xì xèo, kêu lớn lên:
“Nguyền rủa để làm gì chứ? – Cô ta đã thắng, cô ta đã biến mất.”
Rồi bà ta lại bắt đầu lại với sức lực đáng sợ hơn:
“Hãy nguyền rủa cô ta, dù cô ta ở đâu. Hãy để những lời nguyền rủa của ta tới nơi cô ta ở và tàn phá sự yên nghỉ của cô ta.”
“Hãy nguyền rủa cô ta xuyên qua mọi trời sao. Hãy để hình bóng cô ta cũng bị nguyền rủa.”
“Hãy để sức mạnh của ta tìm ra cô ta ở đó.”
“Hãy để cô ta nghe thấy ta ở đó. Hãy để cô ta tự trốn trong bóng tối.”
“Hãy để cô ta rơi xuống tận cùng tuyệt vọng, vì một ngày nào đó ta sẽ tìm ra cô ta.”
Ngọn lửa lại đi xuống, bà ta lại dùng tay che mắt.
“Vô dụng – vô dụng,” Bà ta rền rĩ; “Ai có thể chạm tới kẻ đang ngủ chứ? Ta vẫn không thể chạm tới họ.”
Rồi bà ta lại bắt đầu nghi thức xấu xa kia một lần nữa.
“Hãy nguyền rủa cô ta khi cô ta tái sinh. Hãy để cô ta sinh ra trong nguyền rủa.”
“Hãy để cô ta bị nguyền rủa hoàn toàn từ giờ phút sinh ra tới tận khi giấc ngủ tìm đến cô ta.”
“Đúng thế, rồi hãy để cô ta bị nguyền rủa; vì sau đó ta sẽ dùng sự trả thù vượt qua cô ta, phá hủy hoàn toàn cô ta.”
Rồi cứ tiếp tục thế. Ngọn lửa lên rồi xuống, phản chiếu chính nó trong đôi mắt đau đớn của bà ta; âm thanh rền rĩ của lời nguyền đáng sợ, tôi không có lời nào để truyền tải nỗi khủng khiếp của chúng, chúng chạy quanh các bức tường rồi tan biến trong những vang vọng nhỏ, ngọn lửa gay gắt và bóng tối sâu thẳm luân phiên dưới hình hài màu trắng kinh hãi kéo ra trên chiếc quan tài đá.
Nhưng cuối cùng bà ta dường như mệt mỏi rồi dừng lại. Bà ta ngồi xuống nền đá, lắc đám tóc dày đẹp đẽ trên mặt và ngực, bắt đầu khóc nức nở khủng khiếp trong sự tra tấn của nỗi tuyệt vọng đến đau lòng.
“Hai nghìn năm,” bà ta rên rỉ - “hai nghìn năm ta đã khao khát và chịu đựng; nhưng dù thế kỷ lê lết qua thế kỷ, thời gian nhường chỗ thời gian, vết thương trong ký ức không hề giảm đi, ánh sáng hy vọng cũng không rực rỡ hơn. Ôi! Sống hai nghìn năm, toàn bộ đam mê đã ăn mòn trái tim ta, tội lỗi còn hiện diện trước cả ta. Ôi, đối với ta, sự sống không mang theo quên lãng! Ôi, những năm tháng mệt mỏi đã và đang tới, vĩnh viễn sẽ tới, vô tận và không có kết thúc!”
“Tình yêu của ta! Tình yêu của ta! Tình yêu của ta! Tại sao người lạ mang ngươi trở lại cho ta theo cách này? Năm trăm năm qua ta đã không đau khổ như vậy. Ôi, nếu ta lại phạm tội chống lại ngươi, ta sẽ không thể xóa sạch tội lỗi ư? Khi nào ngươi trở lại bên ta, ngươi có tất cả, chứ không phải không có gì? Ta có thể làm gì đây? Làm gì? Làm gì? Làm gì? Không chừng cô ta – không chừng người Ai Cập đó đang ở bên ngươi, và thử thách trí nhớ của ta. Ôi, tại sao ta không thể chết với ngươi, ta đã giết ngươi ư? Than ôi, ta không thể chết! Than ôi! Than ôi!” Bà ấy ném mình lên mặt đất, nức nở khóc tới khi tôi nghĩ trái tim bà ấy phải nổ tan.
Đột nhiên bà ấy dừng lại, đứng dậy, xếp lại chiếc váy, sốt ruột hất những ổ khóa dài, quét qua nơi một thân hình nằm trên đá.
“Ôi, Kallikrates,” bà ta kêu khóc, còn tôi run lên trước cái tên đó, “Ta phải nhìn lại gương mặt ngươi, dù đau đớn. Một thế hệ trôi qua kể từ khi ta nhìn thấy ngươi, người ta đã giết – giết bằng chính tay ta,” với ngón tay run rẩy, bà ấy co người nắm lấy góc tấm phủ từ thân thể trên quan tài đá, rồi dừng lại. Khi bà ấy nói lại lần nữa, trong tiếng thì thầm kinh ngạc, như thể ý tưởng của bà ấy cũng kinh khủng với chính bà ta.
“Ta sẽ nâng ngươi dậy,” bà ta nói, dường như với cái xác, “để ngươi đứng trước ta như cũ chứ? Ta có thể làm điều đó,” bà ta giữ tay vào người chết, trong khi toàn bộ thân hình bà ta trở nên cứng ngắc, trông thật khủng khiếp, còn đôi mắt trở nên bất động và trì độn. Tôi khiếp đảm sau tấm rèm, tóc tôi dựng đứng trên đầu, đó là tưởng tượng hay thực tế, tôi không thể nói, nhưng tôi nghĩ thân thể im lặng trong tấm phủ bắt đầu rung, tấm cuộn nâng lên như thể nó nằm trên ngực một người đang ngủ. Bỗng nhiên bà ta rút tay lại, chuyển động của xác chết dường như ngừng lại.
“Để làm gì chứ?” Bà ta ủ rũ nói. “Có gì hay đâu khi khơi lại những tháng ngày quen thuộc trong đời khi ta không thể triệu hồi được linh hồn? Thậm chí ngươi đứng trước ta, ngươi cũng không thể biết ta, nhưng có thể làm những gì ta bảo ngươi. Sự sống của ngươi sẽ là sự sống của ta, đó không phải là cuộc đời của ngươi, Kallikrates.”
Bà ta đứng đó suy nghĩ một lúc, rồi ngồi xuống bằng đầu gối bên cạnh cơ thể đó, bắt đầu ấn đôi môi vào thân hình kia và khóc. Có gì đó thật khủng khiếp về cảnh người phụ nữ đang gây cảm giác ghê sợ này nới lỏng đam mê bên người chết – khủng khiếp hơn bất kỳ điều gì từng xảy đến trước đây – tôi không thể nhìn nổi nữa, quay đi, tôi bắt đầu bò run rẩy từng bước, chậm chạp theo lối nhỏ tối tăm, cảm thấy trái tim run rẩy như thể tôi đã nhìn thấy một cảnh tượng của Linh Hồn trong Địa Ngục.
Tôi hầu như không biết làm sao tôi bị vấp. Lần thứ hai tôi ngã, khi rẽ sang đoạn đường đôi, nhưng may mắn phát hiện sai lầm đúng lúc. Sau hai mươi phút bò dọc theo đó, cuối cùng tôi đã tới cầu thang nhỏ mà tôi đã trèo xuống. Vì vậy, hoàn toàn kiệt sức và sợ gần chết, cuối cùng tôi lún người xuống sàn đá, chìm vào quên lãng.
Khi tỉnh lại, tôi nhận thấy một tia sáng mờ nhạt trong lối đi ngay sau tôi. Tôi bò về phía đó, thấy đó là cầu thang nhỏ đi xuống mà bình minh yếu ớt đang lấy trộm đi. Đi qua đó, tôi trở về phòng tôi an toàn, ném mình lên giường, ngay sau đó chìm trong giấc ngủ, hay đúng hơn là trạng thái mê man.