CHƯƠNG 13
Ayesha lộ diện
“Thế
đấy,” Bà ấy nói, “hắn ta đã đi rồi,
kẻ đần độn già nua râu trắng! À, tên đó cũng thu được chút ít tri thức trong
đời. Hắn ta đã thu nó lại như nước, nhưng giống như nước, nó lại chảy qua ngón
tay, nếu bàn tay hắn ta ướt dù là bởi sương, thế hệ những kẻ ngu ngốc đó vẫn
gào lên ‘Thấy chưa, ông ấy là người thông thái!’ Không phải vậy sao? Nhưng họ
gọi ngươi thế nào? Hắn ta gọi ‘Khỉ Đầu Chó’,” bà ta cười; “nhưng đó là kiểu
cách của đám người hoang dã thiếu trí tưởng tượng đó, những con thú bay tới, họ
sẽ gán cho một cái tên tương tự nhau. Họ gọi ngươi thế nào ở đất nước của
ngươi, người lạ?”
“Họ
gọi tôi là Holly, thưa Nữ Hoàng,” Tôi trả lời.
“Holly,”
bà ấy nói từ đó một cách khó khăn, nhưng bằng giọng duyên dáng nhất; “Holly là
gì?”
“Holly
là một cái cây có gai,” Tôi nói.
“Vậy
à. Phải, ngươi trông giống một cái cây có gai. Khỏe mạnh, xấu xí, nhưng nếu trí
tuệ ta không sai lầm, ngươi là một người trung thực tận xương tủy, một người
đáng để dựa vào. Ta nghĩ vậy. Nhưng hãy ở đây, Holly, đừng đứng đó, vào với ta
và ngồi bên ta. Ta không muốn thấy ngươi bò trước mặt ta như đám nô lệ kia. Ta
sợ sự sùng bái và khủng bố của họ; đôi khi họ làm phiền ta, ta chỉ có thể hủy
diệt họ để vui đùa, để thấy đám còn lại chuyển sang trắng bệch, thậm chí tận tim
phổi.” Rồi bà ấy giữ tấm rèm bên cạnh bằng đôi tay trắng ngà để tôi đi qua vào
trong.
Tôi
bước vào, run rẩy. Người phụ nữ này rất khủng khiếp. Khi tấm rèm dừng lại,
khoảng mười hai feet mười, trong chỗ nghỉ là một cái giường và một cái bàn trên
đó đặt trái cây và nước lấp lánh. Cuối phòng là một chiếc bình như tranh vẽ
trên đá trạm khắc, cũng đầy nước tinh khiết. Nơi này được chiếu sáng nhẹ nhàng
bởi những cây đèn hình lọ tuyệt đẹp mà tôi đã nói, không khí và rèm treo đầy
mùi nước hoa tinh tế. Nước hoa dường như tỏa ra từ mái tóc tráng lệ và trang
phục trắng bó sát người của chính Bà ấy.
Tôi đi vào phòng nhỏ rồi nghi ngại đứng đó.
“Ngồi
đi,” Bà ấy nói, chỉ vào cái giường.
“Ngươi không có lý do gì để sợ hãi ta. Nếu có, ngươi sẽ không sợ nữa, vì ta sẽ
giết ngươi. Vì thế hãy để trái tim ngươi được soi sáng.”
Tôi
ngồi xuống chân giường gần bồn nước trông như cái bình, còn Bà ấy nhẹ nhàng ngồi xuống bên kia.
“Nào
bây giờ, Holly,” bà ta nói, “Làm thế nào ngươi nói được tiếng Ả Rập? Đó là ngôn
ngữ thân yêu của ta, vì ta là một người Ả Rập từ khi sinh ra, thậm chí ‘al Arab
al Ariba’ (một người Ả Rập của những người Ả Rập), đó là chủng tộc của cha
chúng ta Yárab, con trai của Kâhtan, vì ta sinh ra ở thành Ozal xinh đẹp và cổ
kính của vùng Yaman Hạnh Phúc. Nhưng ngươi không nói ngôn ngữ đó giống như
chúng ta từng nói. Ngươi nói thiếu nhạc điệu của thứ ngôn ngữ ngọt ngào của các
bộ tộc ở Hamyar mà ta chưa bao giờ nghe thấy. Vài từ dường như đã thay đổi,
thậm chí giống người Amahagger kia, những kẻ đã làm mất giá trị và làm ô uế sự
tinh khiết của nó, vì thế ta phải nói chuyện với chúng bằng ngôn ngữ khác.” [*]
[*] Yárab con trai của Kâhtan, người sống vào những thế kỷ
trước thời đại của Abraham, là cha đẻ của người Ả Rập cổ, đã đặt tên Ả Rập cho
đất nước này. Trong cách nói của chính bà ấy ‘al Arab al Ariba’, Bà ấy chắc
chắn muốn truyền đạt rằng, Bà ấy mang dòng máu Ả Rập chính thống để phân biệt
với những người Ả Rập nhập tịch, hậu duệ của Ismael, con trai của Abraham và
Hagar, những người được biết đến như ‘al Arab al mostáraba’. Phương ngữ của bộ
lạc cổ Koreish thường được gọi là tiếng Ả Rập rõ ràng hay “dễ hiểu”, nhưng
phương ngữ Hamaritic lại gần với nguyên bản tiếng Syria mẹ đẻ hơn. – L.H.H.
“Tôi
đã nghiên cứu nó,” Tôi trả lời, “suốt nhiều năm. Ngôn ngữ này cũng được nói ở
Ai Cập và nơi khác nữa.”
“Vậy
là nó vẫn được nói, và ở cả tận Ai Cập ư? Vị Pharaoh nào đang ngồi trên ngai
vàng? Vẫn là một con cháu của nhà Ochús người Ba Tư chứ, hay nhà Achæmenians đã
ra đi rồi, vì thời của Ochús đã xa lâu rồi mà.”
“Người
Ba Tư đã ra đi khỏi Ai Cập vào hai nghìn năm trước, từ đó là gia tộc Ptolemy,
người La Mã, và nhiều thế hệ khác nữa đã phát triển mạnh mẽ và thống trị bên
sông Nile, rồi sụp đổ khi thời đại của họ đã suy tàn,” tôi kinh ngạc nói.
“Người biết gì về nhà Artaxerxes người Ba Tư?”
Bà
ấy cười, không trả lời, lại một cơn ớn lạnh xuyên qua tôi. “Còn Hy Lạp,” bà ấy
nói; “Hy Lạp vẫn còn đó chứ? Ôi, ta yêu người Hy Lạp. Họ đẹp như ban ngày, và
thông minh nữa, nhưng trái tim khốc liệt và hay thay đổi.”
“Vâng,”
Tôi nói, “Có một Hy Lạp; chỉ là bây giờ, nó lại một lần nữa là một dân tộc.
Nhưng người Hy Lạp ngày nay không phải là người Hy Lạp thời xưa, nước Hy Lạp
giờ là một sự nhạo báng cho Hy Lạp trước kia.”
“Vậy
à! Người Do Thái vẫn ở Jerusalem chứ? Ngôi Đền nhà vua thông thái xây dựng vẫn
còn chứ, và nếu thế thì Thiên Chúa mà họ thờ phụng trong đó là ai? Đấng Cứu Thế
của họ đến rồi chứ, họ rao giảng nhiều đến thế và tiên tri lớn tiếng đến thế về
vị đó, Người đó đã thống trị trái đất rồi chứ?”
“Người
Do Thái đã bị tan vỡ và biến mất, những mảnh vỡ của dân tộc họ trải khắp thế
giới, Jerusalem không còn gì nữa. Đối với ngôi đền mà Herod đã xây dựng,”
“Herod!”
bà ấy nói. “Ta không biết Herod. Nhưng tiếp tục đi.”
“Người
La Mã đã đốt nó, và những con đại bàng La Mã bay qua đống đổ nát của nó, giờ Judæa
là một sa mạc.”
“Vậy
à, vậy à! Họ là một dân tộc vĩ đại, người La Mã ấy, và đi thẳng đến chấm hết –
ôi, họ đã lao đến đó như định mệnh, hay giống những con đại bàng của họ lao vào
con mồi! – và để yên bình lại phía sau.”
"Solitudinem
faciunt, pacem appellant," Tôi đề nghị.
“A,
ngươi cũng có thể nói tiếng Latin nữa!” Bà ngạc nhiên nói. “Thật là một âm
thanh kì lạ trong tai ta sau bao ngày qua, dường như với ta giọng nói của ngươi
không trầm xuống như người La Mã nói chuyện. Ai đã viết lời đó? Ta không biết
câu đó, nhưng chắc là người của dân tộc vĩ đại đó. Có vẻ như ta đã tìm thấy một
người rất uyên bác – người mà đôi tay giữ được dòng nước trí tuệ của nhân loại.
Ngươi cùng biết tiếng Hy Lạp chứ?”
“Vâng,
thưa Nữ Hoàng, và một chút tiếng Do Thái, nhưng không nói tốt lắm. Giờ chúng
đều là những ngôn ngữ đã chết.”
Bà
ấy vỗ tay trong niềm vui sướng rất trẻ con. “Đúng thế thật, ngươi là một cái
cây xấu xí, ngươi sinh trưởng những hoa trái khôn ngoan, ôi Holly,” bà ấy nói;
“nhưng ta ghét người Do Thái, vì họ gọi ta là ‘ngoại đạo’ khi ta muốn dạy họ
triết lý của ta – Đấng Cứu Thế của họ đã đến rồi chứ, Ngài ấy đã thống trị thế
giới ư?”
“Đấng
Cứu Thế của họ đã đến,” Tôi trả lời với sự tôn kính; “nhưng Ngài nghèo khổ và
thấp hèn, còn họ chẳng muốn gì từ Ngài. Họ đánh đòn Ngài, đóng đinh Ngài trên
cây, nhưng lời của Ngài và những tác phẩm của Ngài còn sống, vì Ngài là Con
Trai của Thiên Chúa, giờ đây sự thật là Ngài đã thống trị một nửa thế giới,
nhưng không phải là Hoàng Đế của Thế Giới.”
“A,
những con sói lòng dạ tàn nhẫn,” bà nói, “những kẻ đi theo Cảm Giác và thần
thánh – tham lợi và bè phái. Ta có thể thấy gương mặt tối tăm của họ. Vậy họ đã
đóng đinh Đấng Cứu Thế của họ ư? Thật không thể tin được. Ngài ấy là Con Trai
của Sinh Thần, chuyện này không là gì với họ, nếu thực sự Ngài là như vậy,
chúng ta sẽ nói sau. Họ không thể quan tâm tới bất kỳ vị Thần nào nếu Ngài đến
mà không phô bầy cùng sức mạnh. Họ, dân tộc được lựa chọn, con tàu của Ngài họ
gọi là Jehovah, ôi, còn con tàu của Baal, con tàu của Astoreth, con tàu của các
thần linh của người Ai Cập – dân tộc có dạ dày lớn, tham lam đã mang tới cho họ
của cải và sức mạnh. Vậy nên, họ đóng đinh Đấng Cứu Thế của mình vì Ngài đến
trong bề ngoài thấp hèn – còn giờ bọn họ đã bị phân tán rải rác khắp trái đất
ư? Tại sao, nếu ta nhớ được, không có lời tiên tri nào của họ nói vậy. Phải,
hãy để họ đi – họ đã làm tan nát trái tim ta, những người Do Thái đó, làm ta
nhìn thế giới bằng đôi mắt xấu xa, chao ôi, và đưa ta tới nơi hoang dã này, nơi
của một dân tộc còn tồn tại trước cả họ. Khi ta muốn dạy họ sự thông thái ở
Jerusalem, họ đã ném đá ta, ngay tại cổng Đền Thờ, những kẻ đạo đức giả râu
trắng và các giáo sĩ xua người dân tới ném đá ta! Nhìn này, dấu vết chuyện đó
giờ vẫn còn đây!” Bất ngờ bà ấy kéo tấm vải phủ như sương khói trên cánh tay
tròn trịa lên, chỉ vào một vết sẹo nhỏ màu đỏ đối lập với vẻ đẹp trắng trong
ngọt ngào đó.
Tôi
co người lại kinh hoàng.
“Xin
lỗi, thưa Nữ Hoàng,” Tôi nói, “Nhưng tôi rất hoang mang. Màn đêm hai nghìn năm
đã trôi qua trên trái đất kể từ khi Đấng Cứu Thế của người Do Thái bị treo trên
cây thập tự giá tại Golgotha. Thế thì làm thế nào người có thể dạy giáo lý cho
người Do Thái trước cả Ngài tồn tại? Người là một phụ nữ và không có linh hồn.
Làm thế nào một phụ nữ có thể sống hai nghìn năm? Tại sao người lừa gạt tôi,
thưa Nữ Hoàng?”
Bà
ấy ngả lưng trên giường, một lần nữa tôi lại cảm thấy đôi mắt ẩn sau đang trêu
đùa tôi, nhìn ra lòng tôi.
“Ôi
con người này!” cuối cùng bà ấy nói rất chậm rãi và thong thả, “dường như vẫn
có những thứ trên trái đất mà ngươi không biết. Ngươi vẫn tin rằng mọi thứ đều
chết đi, thậm chí cả những người Do Thái kia cũng vậy ư? Ta nói cho ngươi không
có gì chết đi cả. Không có những thứ như Tử Thần, chỉ có một thứ gọi là Thay
Đổi. Xem này,” và bà ấy chỉ vào vài bức điêu khắc trên tường đá. “Ba lần hai
nghìn năm đã qua đi kể từ lúc người cuối cùng của chủng tộc vĩ đại khắc ra
những bức tranh này ngã xuống khi bệnh dịch hạch bùng nổ tiêu diệt họ, nhưng họ
vẫn chưa chết. Thậm chí giờ họ vẫn sống; không chừng linh hồn họ đang bị thu
hút về phía chúng ta ngay giờ phút này,” rồi bà ấy nhìn quanh. “Chắc chắn đôi
khi dường như mắt ta có thể thấy họ.”
“Vâng,
nhưng với thế giới, họ đã chết.”
“À,
một lúc thôi; nhưng thậm chí với thế giới, họ sẽ lại ra đời lần nữa, và cứ thế
tiếp diễn. Ta, phải, ta, Ayesha [*] – người lạ, đó là tên ta – Ta nói cho ngươi,
ta chờ đợi đến giờ vì người ta yêu sẽ tái sinh, ta nán lại đây đến lúc chàng
tìm thấy ta, biết chắc rằng chàng sẽ đến, ở đây, và chỉ ở đây, chàng sẽ chào
đón ta. Tại sao, ngươi có tin không, ta, một người đầy quyền lực, ta, đẹp hơn
nhiều vẻ đẹp của nàng Helen người Hy Lạp, ta, người họ từng ngợi ca, sự thông
thái của ta rộng hơn, rộng và sâu hơn rất nhiều so với sự thông thái của
Solomon Thông Thái – Ta, người biết những bí mật của trái đất và sự giàu có của
nó, có thể biến tất cả mọi thứ cho ta dùng – Ta, người từng vượt qua Thay Đổi,
mà ngươi gọi là Thần Chết – tại sao, ta nói, ôi người lạ, ngươi nghĩ rằng ta đã
hợp thành bầy ở đây với đám người hoang dã thấp kém hơn thú vật này sao?”
[*] Phát âm là Assha – L.H.H.
“Tôi
không biết,” Tôi khiêm tốn nói.
“Vì
ta đợi chàng, người ta yêu. Đời ta không chừng đã thành quỉ dữ, ta không biết
nữa – vì ai có thể nói cái gì là quỉ dữ, cái gì là thánh thiện – vì thế ta sợ
chết, thậm chí nếu ta có thể chết, điều ta không thể cho đến khi nào giờ phút
của ta tới, để đi và tìm kiếm chàng đang ở đâu; vì giữa chúng ta có một bức
tường chắn ta không thể trèo qua, ít ra ta sợ hãi làm điều đó. Chắc cũng dễ lạc
lối lúc đang kiếm tìm trong những không gian vĩ đại nơi các hành tinh lang
thang vô tận này. Nhưng ngày đó sẽ tới, có thể hơn năm nghìn năm đã trôi qua,
lạc lối và tan chảy trong miệng Thời Gian, như thể mây trôi tan dần trong bóng
đêm, hay có lẽ là ngày mai, khi chàng – tình yêu của ta – tái sinh lại, rồi
theo qui luật mạnh hơn bất kỳ kế hoạch nào của con người, chàng sẽ tìm thấy ta
ở đây, nơi chàng từng biết ta, chắc chắn trái tim chàng sẽ mềm đi trước ta, dù
ta đã phạm tội chống lại chàng; ôi, thậm chí dù chàng không còn nhớ ta nữa,
chàng sẽ vẫn yêu ta, chỉ vì nhan sắc này.”
Một
thoáng tôi chết lặng, không thể trả lời. Câu chuyện quá áp đảo khiến trí tuệ
của tôi không thể nắm bắt.
“Nhưng
dù vậy đi nữa, thưa Nữ Hoàng,” cuối cùng tôi nói, “ngay cả nếu đàn ông chúng
tôi tái sinh đi tái sinh lại, thì người cũng không như thế, nếu người nói là
thật.” Bà ấy nhìn lên sắc bén, và tôi lại một lần nữa bắt gặp ánh sáng lóe lên
từ đôi mắt bị che khuất đó; “người chưa bao giờ chết ư?” Tôi vội vã tiếp tục.
“Đúng
vậy,” Bà ấy nói; “vì một phần may mắn, một phần nhờ học hỏi, ta đã giải quyết
được một trong những bí mật vĩ đại của thế giới. Hãy nói cho ta, người lạ: sự
sống – thế thì tại sao sự sống không nên kéo dài một thời gian chứ? Một cuộc
đời mười hay hai mươi hay năm mươi nghìn năm lịch sử có là gì? Tại sao trong
mười nghìn năm hiếm hoi mưa bão sẽ bào mỏng đỉnh núi đi một đoạn? Trong hai
nghìn năm qua hang động này không thay đổi, không gì thay đổi ngoài thú vật và
con người – những kẻ giống như thú vật. Chuyện này không có gì hay cả, nhưng ngươi
có thể hiểu. Sự sống rất tuyệt vời, nhưng được kéo dài thêm một chút thì không
tuyệt vời đâu. Tự nhiên có linh hồn sống động của nó cũng như con người, là con
của Mẹ Tự Nhiên, có linh hồn, có hơi thở, và sống cùng sự sống của Mẹ Tự Nhiên.
Con người sẽ không sống vĩnh hằng, vì Mẹ Tự Nhiên không vĩnh hằng, bà ấy sẽ
phải chết, như mặt trăng tự nhiên sẽ chết. Bà ấy phải chết, ta muốn nói rằng,
đúng hơn là thay đổi và ngủ tới lúc bà ấy sống lại. Nhưng bà ấy sẽ chết khi
nào? Chưa, ta tin tưởng , trong khi bà ấy còn đang sống, ai có được bí mật của
bà cũng sẽ sống cùng với bà như vậy. Ta không có tất cả bí mật của bà, nhưng ta
có một số, chừng như nhiều hơn bất kỳ ai tồn tại trước ta. Giờ đây với ngươi,
ta không nghi ngờ gì, điều này sẽ là một bí ẩn vĩ đại, do đó ta sẽ không dùng
nó vượt qua ngươi bây giờ. Lúc khác ta sẽ nói cho ngươi nhiều hơn nếu tâm trạng
của ta tốt, dù dường như ta chưa bao giờ nói lại điều đó. Ngươi đang tự hỏi làm
sao ta biết ngươi đến mảnh đất này ư, rồi cứu đầu các ngươi khỏi cái chậu nung
nóng?”
“Vâng,
thưa Nữ Hoàng,” Tôi yếu ớt trả lời.
“Thế
thì hãy nhìn trên mặt nước,” bà ấy chỉ vào cái bình khắc, sau đó cong người về
phía trước, chạm tay vào nó.
Tôi
đứng lên nhìn chằm chằm, ngay lập tức nước tối lại. Rồi nó quang đãng trở lại,
tôi thấy rõ rệt như đang nhìn thấy bất kỳ việc gì trong đời mình – Tôi thấy con
thuyền của chúng tôi trên kênh đào kinh khủng đó. Có Leo nằm ngủ dưới đáy, một
cái áo choàng chùm qua cậu ấy để chống muỗi, trong tư thế như che đi khuôn mặt
cậu ấy, còn tôi, Job và Mahomed đang kéo trên bờ kênh.
Tôi
quay lại kinh ngạc, kêu lên rằng đó là ma thuật, vì tôi nhận ra cảnh đó – đó là
những gì thực sự xảy ra.
“Không,
không; ôi Holly,” bà ấy trả lời, “Đó không phải là ma thuật, thật là hoang
đường dốt nát. Chả có gì là ma thuật cả, dù những thứ thế này là tri thức trong
những bí mật của Mẹ Tự Nhiên. Nước là chiếc gương của ta; ta thấy những gì xảy
ra trong đó nếu ta muốn triệu hồi những hình ảnh lên, việc này không thường
xuyên. Thế là ta có thể thấy các ngươi, những gì các ngươi làm trong quá khứ,
nếu có gì đó phải làm cho đất nước này, ta sẽ biết, hay ngươi – người quan sát
– cũng sẽ biết. Hãy nghĩ về một gương mặt nếu ngươi là người đó, nó sẽ ánh xạ
từ tâm trí ngươi lên mặt nước. Ta chưa biết toàn bộ bí mật này – Ta không thể
đọc được gì từ tương lai. Nhưng đó là một bí mật kỳ lạ, ta chưa tìm ra nó. Ở Ả
Rập và Ai Cập, các phù thủy biết về nó từ hàng thế kỷ qua. Một ngày ta tình cờ
ngẫm nghĩ về con kênh đào cổ - kể từ khi ta đi thuyền trên đó lúc khoảng hai
mươi tuổi, ta cố ý muốn nhìn lại nó. Ta đã nhìn như vậy, rồi ta thấy con thuyền
và ba người các ngươi đang đi trên đó, còn một người, gương mặt ta không thể
thấy, nhưng hình dáng trẻ trung và cao quý, đang ngủ trên thuyền, vì vậy ta đã
gửi thông điệp và cứu các ngươi. Còn bây giờ chia tay thôi. Nhưng ở lại đã, hãy
nói cho ta về người trẻ tuổi – con Sư Tử, như người già kia gọi hắn ta. Ta muốn
gặp hắn, nhưng hắn lại ốm, ngươi đã nói - ốm vì sốt rét, cũng bị thương trong
trận đánh nhau.”
“Cậu
ấy rất yếu,” Tôi trả lời buồn bã; “Người không thể làm gì cho cậu ấy sao, thưa
Nữ Hoàng! Ai biết được nhiều đến vậy chứ?”
“Tất
nhiên ta có thể. Ta có thể chữa cho hắn; nhưng sao ngươi nói chuyện buồn bã đến
thế? Ngươi yêu người trẻ đó sao? Hắn ước chừng là con trai ngươi phải không?”
“Cậu
ấy là con trai nuôi của tôi, thưa Nữ Hoàng! Cậu ấy sẽ bị mang đi trước chúng
tôi sao?”
“Không.
Sốt rét đã tấn công hắn bao lâu rồi?”
“Hôm
nay là ngày thứ ba.”
“Tốt;
thế thì hãy để hắn nằm thêm ngày nữa. Có lẽ hắn sẽ khỏi thôi vì hắn rất khỏe,
tốt hơn so với để ta cứu, vì thuốc của ta thuộc loại sẽ làm rung chuyển thành
lũy của sự sống. Tuy nhiên nếu đêm mai, vào giờ này sốt rét vẫn thống trị hắn,
hắn sẽ không thể tự hồi phục, khi đó ta sẽ đến cứu hắn. Ngừng lại, ai đang chăm
sóc hắn?”
“Người
đầy tớ da trắng của chúng tôi, Billali đặt tên anh ta là Con Lợn;” tôi do dự
một chút, “còn cả một phụ nữ tên Ustane, một phụ nữ rất đẹp của đất nước này,
cô ấy đã tới ôm cậu ấy khi lần đầu tiên thấy cậu, và luôn bên cạnh cậu ấy từ đó
đến giờ, theo tôi hiểu đó là phong cách người dân của người, thưa Nữ Hoàng.”
“Người
dân của ta! Đừng nói với ta về người dân của ta,” bà ấy vội vã trả lời; “Những
kẻ nô lệ đó không phải người dân của ta, chúng chỉ là lũ chó bắt ta phải trả
giá tới khi ngày giải thoát của ta đến; vì đó là phong tục của họ, ta chả có gì
để làm cả. Cũng đừng gọi ta là Nữ Hoàng – Ta mệt với trò tâng bốc và các chức
danh rồi – hãy gọi ta là Ayesha, tên đó nghe thật ngọt ngào êm tai, như tiếng
vang từ quá khứ. Đối với Ustane này, ta không biết. Ta băn khoăn không biết đó
có phải là người chống đối mà ta được cảnh báo không, và đã đến lượt ta cảnh
báo người đó? Dừng lại, ta sẽ xem đã;” rồi gập người về phía trước, bà ấy giơ
tay về phía mặt nước và nhìn chăm chú vào đó. “Xem này,” Bà ấy lặng lẽ nói, “Đó
là cô ta ư?”
Tôi
nhìn vào nước, ở đó, phản chiếu trên bề mặt yên ả của nó là hình bóng khuôn mặt
nghiêm trang của Ustane. Cô ấy cúi người về phía trước, với cái nhìn dịu dàng
vô hạn trên từng đường nét, đang xem gì đó bên dưới, những chiếc khóa hạt dẻ
rơi trên vai phải của cô.
“Đó
là cô ấy,” Tôi thấp giọng nói, một lần nữa tôi cảm thấy rất nhiều lo lắng trong
cái nhìn bất thường này. “Cô ấy đang trông Leo ngủ.”
“Leo!”
Ayesha nói bằng giọng lơ đãng; “tại sao, đó là từ ‘lion’ (sư tử) trong tiếng
Latin mà. Người già kia lần này đặt tên rất hay. Thật là lạ,” bà ấy tự nói với
chính mình, “rất lạ. Giống đến vậy – nhưng không thể nào!” Với một cử chỉ thiếu kiên nhẫn, bà ấy đưa tay
trên nước một lần nữa. Nó tối lại, hình ảnh im lặng biến mất và thật thần bí
như khi nó hiện ra, một lần nữa ánh đèn, chỉ có ánh đèn, chiếu sáng bề mặt yên
ả của chiếc gương sống động trong veo đó.
“Ngươi
có muốn hỏi gì ta trước khi đi không, Holly?” bà ta nói, sau khi nghĩ một lúc.
“Thật là một cuộc sống thô sơ khiến ngươi phải chịu đựng ở đây, vì những người
này rất hoang dã, không biết cách canh tác. Ta không gặp rắc rối vì điều đó,
đây là thức ăn của ta,” bà ấy chỉ vào hoa quả trên bàn nhỏ. “Không gì ngoài hoa
quả từng đi qua miệng ta – hoa quả và bánh bột mì, cùng một ít nước. Ta mời
chào các cô gái tới đợi các ngươi. Họ câm, ngươi thấy đấy, vừa câm vừa điếc,
nên là những người đày tớ an toàn nhất, thật tiết kiệm với những ai có thể đọc
được gương mặt và ký hiệu của họ. Ta nuôi dưỡng họ - mất rất nhiều thế kỷ và
nhiều rắc rối; nhưng cuối cùng ta đã thành công. Ta đã từng thành công trước
đó, nhưng chủng loại đó quá xấu xí, vì thế ta đã để cho nó chết đi; nhưng giờ,
như ngươi thấy, họ hoàn toàn khác. Ta cũng từng nuôi một chủng loại khổng lồ,
nhưng Mẹ Tự Nhiên không muốn nữa, và nó chết đi. Ngươi có muốn hỏi gì ta không?
“Vâng,
một điều thôi, Ayesha,” Tôi mạnh dạn nói; nhưng cảm thấy không có cách nào để
mạnh dạn như tôi tin tưởng. “Tôi muốn nhìn thấy mặt của người.”
Bà
ấy cười vang như chuông. “Ngươi nghĩ xem, Holly,” bà ấy trả lời; “ngươi nghĩ
xem. Dường như ngươi biết những huyền thoại xa xưa về các vị thần Hy Lạp. Không
có một Actæon bị chết khốn khổ vì anh ta nhìn vào một nhan sắc quá lộng lẫy đó
sao? Nếu ta cho ngươi xem mặt, không chừng ngươi cũng có thể chết một cách khốn
khổ; không chừng ngươi có thể ăn mất cả trái tim mình trong ham muốn bất lực;
vì ta không phải dành cho ngươi – ta không dành cho ai hết, trừ một người, đã
từng dành cho một người, nhưng giờ thì chưa.”
“Như
người mong muốn, Ayesha,” Tôi nói. “Tôi không sợ vẻ đẹp của người. Tôi đã để
trái tim cách xa khỏi thứ hư không như nhan sắc phụ nữ, thứ đó chỉ như một bông
hoa.”
“Không,
ngươi sẽ bị giam lại,” bà ta nói; “không vượt qua được. Vẻ đẹp của ta trường
tồn cũng như chính ta; nếu ngươi vẫn còn muốn vậy, ôi con người dại dột, ngươi
sẽ thế; nhưng đừng đổ lỗi cho ta nếu đam mê đó gắn vào lý do của ngươi, như
những kẻ phạm tội người Ai Cập từng trèo lên chú lừa con, rồi dẫn đi đâu ngươi
không biết. Chưa bao giờ có người đàn ông nào đứng trước vẻ đẹp của ta lại có
thể bỏ nó ra khỏi tâm trí, vì thế đối với đám người hoang dã này, ta phải che
mặt, để họ ít làm phiền ta hơn, nếu không ta sẽ giết họ. Hãy nói đi, ngươi vẫn
muốn nhìn ư?”
“Tôi
muốn,” Tôi trả lời, trí tò mò lấn át tôi.
Bà
ta nâng cánh tay tròn trịa trắng tinh lên – chưa bao giờ tôi thấy cánh tay như
vậy trước đây – và chậm rãi, rất chậm rãi, rút từng thứ buộc bên dưới mái tóc.
Rồi khi tất cả lớp vải bao bọc dài và như xác chết đột ngột rơi từ trên người
bà ấy xuống đất, đôi mắt tôi lướt lên hình hài của bà ấy, giờ chỉ còn khoác bộ y
phục hơi trắng làm hiện ra vóc dáng hoàn hảo và tôn quí, mang bản năng của sự
sống, thậm chí còn hơn cả sự sống, kiều diễm như loài rắn chứ không phải con
người. Trên đôi chân nhỏ là đôi dép gắn đinh tán vàng. Rồi đến mắt cá chân hoàn
hảo hơn cả những gì nhà điêu khắc từng mơ tưởng. Trên eo, chiếc váy dài trắng
của bà gắn con rắn hai đầu bằng vàng ròng, khiến thân thể duyên dáng uốn theo
những đường tinh tế dễ thương, cho đến khi chiếc váy dài kết thúc bằng miếng
bạc trắng tuyết trên ngực, nơi cánh tay đang gập lại. Tôi nhìn vào gương mặt bà
ấy – Tôi không nói quá – co lại như bị mờ đi và kinh ngạc. Tôi từng nghe nói về
vẻ đẹp của tiên nhân, giờ tôi đã thấy; chỉ là vẻ đẹp này, với vẻ diễm lệ và
tinh khiết khủng khiếp, lại trở thành ma quỉ - ít nhất lúc này, tôi thấy như ma
quỉ. Tôi biết mô tả nó thế nào đây? Tôi không thể - đơn giản tôi không thể! Người
không sống cùng cây bút có lẽ sẽ truyền đạt được cảm giác về những gì tôi thấy.
Tôi có thể nói, đôi mắt trở nên to hơn, đen sâu thẳm và mềm mại, trên gương mặt
tô màu nhẹ, vầng trán rộng cao quí, trên đó tóc rủ xuống thẳng và tinh tế.
Nhưng tất cả đều đẹp, quá đẹp, vẻ đẹp của bà ấy không nằm trong đó. Nếu có thể
được cho là có một nơi cố định, vẻ đẹp đó nằm trong vẻ uy nghiêm toát ra, trong
vẻ kiều diễm hoàng tộc, trong dấu vết thần thánh của quyền lực mềm, thứ đang
tỏa sáng trên gương mặt rạng rỡ như vầng hào quang sống động. Trước đây chưa
bao giờ tôi đoán được có vẻ đẹp cao cả đến vậy – nhưng cao cả là một thứ đen
tối – hào quang không hẳn là thiên đường – dù không gì vinh quang hơn nó. Dù
gương mặt trước mắt tôi là của một phụ nữ trẻ không quá ba mươi tuổi, sức khỏe
hoàn hảo, thoạt tiên chói lọi bởi vẻ chín muồi, nhưng đóng dấu lên đó vẻ từng
trải khôn tả, vẻ quen thuộc sâu sắc với nỗi đau và đam mê. Ngay cả nụ cười đáng
yêu len giữa núm đồng tiền trên miệng cũng có thể che đi bóng tối của tội lỗi
và nỗi buồn. Nó chiếu sáng cả đôi mắt lộng lẫy, hiện ra vẻ uy nghiêm, dường như
đang nói: “Hãy nhìn ta đi, đáng yêu đến mức không phụ nữ nào bằng, bất tử và
thần thánh; ký ức ám ảnh ta từ đời này sang đời khác, đam mê dắt tay ta – ta đã
là ma quỉ, từ đời này sang đời khác, ta sẽ là ma quỉ, ta sẽ buồn bã tới khi sự
cứu rỗi tới.”
Bị
thu hút bởi lực từ mà tôi không thể cưỡng lại được, tôi để mắt nghỉ ngơi trên
quả cầu uy quyền sáng lấp lánh của bà ấy, cảm thấy con đường hiện tại từ đó đến
chỗ tôi gây hoang mang và bị che khuất.
Bà
ấy cười – a, như tiếng nhạc! và gật cái đầu nhỏ bé với tôi bằng điệu bộ làm
dáng như thăng hoa có thể gây tác động tới tượng thần Vệ Nữ.
“Con
người dại dột!” bà ta nói; “Giống như Actæon, ngươi đã có lý trí; cẩn thận đấy,
giống như Actæon, ngươi cũng có thể bị chết một cách khốn khổ, bị xé thành từng
mảnh bởi bầy chó săn mê muội của chính ngươi. Ta cũng vậy, Holly, là một nữ
thần đồng trinh, không đến được với bất kỳ đàn ông nào, trừ một người, và đó
không phải ngươi. Lại nói, ngươi đã nhìn đủ rồi chứ!”
“Tôi
đã nhìn vào vẻ đẹp này, tôi bị mù rồi,” Tôi nói giọng khàn khàn, nâng tay lên
che mắt.
“Vậy
sao! Ta đã nói với ngươi gì nhỉ? Vẻ đẹp như tỏa sáng; nó đáng yêu nhưng nó sẽ
tàn phá – đặc biệt với cây cối, ôi, Holly!” Bà ta lại gật đầu lần nữa và mỉm
cười.
Bỗng
nhiên bà ta dừng lại, xuyên qua ngón tay mình, tôi thấy một thay đổi khủng
khiếp trên vẻ mặt bà ấy. Đôi mắt to của bà ấy bỗng gắn chặt trong biểu cảm
khiếp sợ như vật lộn với hy vọng to lớn đang tăng lên trong sâu thẳm tâm hồn
tăm tối của bà. Gương mặt xinh xắn trở nên cứng ngắc, dáng vẻ yểu điệu duyên
dáng dường như thẳng đứng.
“Con
người kia,” bà ta nửa thì thầm, nửa rít lên, quay đầu lại như một con rắn sắp
ra trận – “Con người kia, ngươi có con bọ hung phân scarab trên tay từ đâu?
Nói, hoặc ta sẽ giết chết ngươi bằng Linh Hồn của Sự Sống ngay tại chỗ ngươi
đứng!” và bà ta bước một bước nhẹ về phía tôi, từ đôi mắt bà ta chiếu ra ánh
sáng khủng khiếp – với tôi, nó như ngọn lửa – rồi tôi ngã xuống đó, trên mặt
đất trước bà ta, bập bẹ lúng túng trong nỗi sợ hãi.
“Bình
tĩnh,” Bà ta nói, bất ngờ thay đổi cách thức, với giọng mềm mại như cũ. “Ta đã
làm ngươi sợ! Hãy tha thứ cho ta! Nhưng lúc này, ôi Holly, tâm trí gần như vô
hạn trở nên mất kiên nhẫn vì sự chậm chạp của thứ rất hữu hạn, ta bị kích thích
sử dụng tới sức mạnh phiền toái – người gần như suýt chết đấy, nhưng ta nhớ
rằng – con bọ hung phân scarab – về scarabæus ấy!”
“Tôi
đã nhặt được nó,” Tôi ú ớ một cách yếu ớt, khi tôi nhận ra chân mình lần nữa,
một thực tế nghiêm trọng là lúc này đầu óc tôi đã bị rối loạn, tôi không nhớ gì
về chiếc nhẫn nữa trừ việc tôi nhặt nó lên trong động của Leo.
“Thật
kỳ lạ,” bà ta nói bằng giọng đột ngột run rẩy kích động đầy nữ tính, dường như
không phải người phụ nữ khủng khiếp lúc nãy – “nhưng ta từng biết một con bọ
hung phân scarab như thế. Nó – treo vòng qua cổ - của người ta yêu.” Bà ấy phát
ra một tiếng khó nhọc nức nở, cuối cùng tôi thấy bà ấy vẫn chỉ là một phụ nữ,
dù có lẽ đã rất già.
“Cái
này,” bà ta tiếp tục, “nó đúng là rất giống cái đó, ta chưa bao giờ từng thấy
vật nào giống cái đó đến thế, hơn nữa vì từng gắn với một câu chuyện, chàng đeo
nó và rất quí trọng nó. [*] Nhưng con bọ hung scarab mà ta biết không được đặt
trong khung của một chiếc nhẫn thế này. Giờ hãy đi đi, Holly, đi đi, và nếu có
thể, cố quên đi việc ngươi đã ngu ngốc nhìn thấy vẻ đẹp của Ayesha,” rồi quay người
về phía tôi, bà ta quăng mình lên giường, vùi mặt vào gối.
[*] Tôi được một nhà Ai Cập học uyên bác và nổi tiếng -
người tôi trình lên con bọ hung phân scarab nguyên vẹn rất thú vị và đẹp đẽ
này, “suten se Ra” – thông báo rằng ông ta chưa bao giờ thấy vật nào giống như
thế. Dù nó mang một danh hiệu thường gắn cho hoàng gia Ai Cập, nhưng ông ấy cho
rằng nó không nhất thiết là vỏ đạn của một Pharaoh, mà cũng có thể là ngai vàng
hay tên cá nhân của một vương triều đã được ghi lại nào đó. Câu chuyện về con
bọ hung scarab cụ thể này là gì, thật không may, giờ chúng ta có thể không bao
giờ biết, nhưng tôi hơi nghi ngờ rằng, nó đóng vai trò nào đó trong câu chuyện
bi thảm của Công chúa Amenartas và người yêu bà ấy Kallikrates, vị linh mục
không giữ lời thề của Isis. – Biên tập viên.
Còn
đối với tôi, loạng choạng sau khi gặp bà ấy, tôi không nhớ đã về động của tôi
bằng cách nào.
CHƯƠNG 14
Linh hồn trong Địa ngục
Đã gần mười giờ
tối, tôi quăng mình xuống giường, và bắt đầu tập hợp những mảnh trí tuệ rải rác
lại, ngẫm nghĩ về những gì tôi đã nhìn và nghe thấy. Nhưng càng suy nghĩ, tôi càng
khó hiểu. Tôi bị điên, say hay đang mơ, hoặc chăng tôi chỉ là nạn nhân của một
trò lừa bịp khổng lồ và công phu nhất? Làm sao mà tôi - một người có lý trí,
không phải không quen thuộc với các sự kiện khoa học hàng đầu trong lịch sử, và
đến giờ vẫn là một người không tin tuyệt đối và hoàn toàn vào những trò lừa phỉnh,
ở châu Âu chúng đến dưới cái tên siêu nhiên – lại có thể tin được trong vài
phút trước, tôi đã tham gia trò chuyện với một phụ nữ hai ngàn năm có lẻ tuổi?
Điều đó đi ngược lại với thực nghiệm về bản chất tự nhiên con người, tuyệt đối
hoàn toàn không thể xảy ra. Đó nhất định là một trò lừa bịp, nhưng nếu là lừa bịp,
tôi nên nghĩ gì về nó? Hình ảnh trong nước, hiểu biết kỳ lạ của người phụ nữ về
quá khứ xa xưa, và sự thiếu hiểu biết, hay sự thiếu hiểu biết rõ ràng của bà ấy
về lịch sử sau này là sao? Vẻ đẹp tuyệt vời và khủng khiếp của bà ấy cũng vậy,
là sao? Dù sao đó là một thực tế rõ ràng, ngoài tầm trải nghiệm của nhân loại.
Không chỉ đơn thuần là một người phụ nữ trần tục có thể tỏa sáng như siêu
nhiên. Về thứ bà ta sở hữu, dù sao về mặt quyền lợi – nó không an toàn cho bất
kỳ ai nhìn vào nhan sắc như vậy. Tôi là một kẻ tàn nhẫn trong những vấn đề như
vậy, ngoại trừ một trải nghiệm đau khổ thời xuân xanh, tôi luôn cho phụ nữ (đôi
khi tôi nghĩ đó là lộn tên) ra ngoài đầu óc. Nhưng giờ đây, với nỗi khiếp sợ
mãnh liệt, tôi biết rằng tôi không bao giờ có thể từ bỏ ảo tưởng về đôi mắt lộng
lẫy đó; than ôi! Ma lực thực sự của người phụ nữ đó, dù nó làm kinh sợ và bài
xích, vẫn lôi cuốn ở mức độ lớn hơn nhiều. Một người trải qua hai nghìn năm
trên lưng, chỉ huy những sức mạnh to lớn như vậy, có kiến thức về một bí ẩn
giúp thoát khỏi cái chết, chắc chắn đáng giá để yêu, dù đó là bất kỳ phụ nữ
nào. Nhưng than ôi! Không phải câu hỏi bà ta có đáng hay không, đến giờ tôi có
thể nhận ra, không thành thạo trong những vấn đề này, tôi, một nghiên cứu sinh
đại học, được ghi nhận từ thành tích bản thân gọi là ghét phụ nữ, một người đàn
ông đáng kính đang tuổi trung niên, đã hoàn toàn rơi vào tình yêu vô vọng với nữ
phù thủy da trắng này. Vớ vẩn; thật vớ vẩn! Bà ta rõ ràng đã cảnh báo tôi, còn
tôi từ chối tuân theo cảnh báo. Nguyền rủa tính tò mò chết người xui khiến đàn
ông lật tấm màn che của phụ nữ, nguyền rủa những kích động tự nhiên gây ra điều
đó! Nguyên nhân phân nửa – có lẽ nhiều hơn phân nửa – là bất hạnh của chúng ta.
Tại sao đàn ông không thể hài lòng với cuộc sống đơn độc vui vẻ, và cũng để phụ
nữ sống đơn độc vui vẻ như thế? Có lẽ họ có thể hạnh phúc, nhưng tôi không chắc
chúng ta nên thế. Đây là một trạng thái yêu đương đẹp đẽ. Ở tuổi này, tôi lại
trở thành nạn nhân của Nữ Phù Thủy hiện đại này! Nhưng bà ấy không phải người hiện
đại, ít nhất bà ấy nói vậy. Bà ấy cổ xưa như Nữ Phù Thủy chính hiệu vậy.
Tôi vò tóc, nhảy
khỏi giường, cảm thấy nếu không làm gì đó, tôi sẽ điên đầu mất. Bà ta có ý gì với
con bọ hung phân scarabæus? Đó là scarabæus
của Leo, lấy ra từ chiếc rương cũ mà Vincey đã để lại phòng tôi gần hai mươi mốt
năm trước. Cuối cùng có thể toàn bộ câu chuyện này là thật, và bản văn tự trên
mảnh gốm không phải đồ giả mạo hay một phát minh của bộ óc gàn dở đã bị quên
lãng từ lâu nào đó? Nếu vậy, có thể Leo là người đàn ông Bà ấy đang chờ đợi – người đàn ông đã chết được tái sinh lại! Không
thể nào! Toàn bộ chuyện này thật nhảm nhí! Ai đã từng nghe nói về một người được
sinh ra lần nữa chưa?
Nhưng nếu một phụ
nữ có thể tồn tại hai nghìn năm, thì điều đó cũng có thể - bất kỳ điều gì cũng
có thể xảy ra. Theo những gì tôi suy diễn, bản thân tôi lại có thể là hóa thân
của ai đó đã bị lãng quên, hoặc có lẽ là bản mới nhất của chuỗi dài các tổ tiên
của một bản thể nào đó. Phải, vive la
guerre! Tại sao không chứ? Chỉ là không may, tôi không có hồi ức về các trạng
thái kiếp trước đó. Ý tưởng này vô lý đến mức khiến tôi phá lên cười, nhìn vào
bức tranh điêu khắc vẽ một chiến binh dữ tợn trên tường động, hét to với anh
ta, “Ai biết được, phải không, nhà nghiên cứu sinh già? – có lẽ tôi là bản hiện
đại của anh đấy. Lạy Chúa! Có lẽ tôi là anh và anh là tôi đấy.” Tôi cười nhạo
chính sự điên rồ của mình, tiếng cười buồn thảm rung động cả mái vòm, như thể hồn
ma người chiến binh làm vang vọng lại hồn ma của tiếng cười.
Sau đó tôi nghĩ
rằng tôi chưa xem Leo thế nào, vì thế, cầm một trong những cây đèn đang cháy
bên cạnh giường, tôi cởi giày và rón rén đi xuống lối đi nhỏ dẫn vào động cậu ấy
đang ngủ. Luồng khí đêm nâng rèm đu đưa nhẹ nhàng, như thể bàn tay có lý trí đang
đưa đẩy nó. Tôi luồn vào căn phòng như cái hầm và nhìn quanh. Có chút ánh sáng
để tôi có thể nhận ra Leo đang nằm trên giường, lăn lộn không ngừng trong cơn sốt
rét, nhưng đã ngủ. Cạnh cậu ấy, nửa nằm trên sàn, nửa dựa vào chiếc giường đá,
là Ustane. Cô đang cầm tay cậu ấy, nhưng cũng lơ mơ ngủ, cả hai tạo thành một bức
tranh khá thảm hại. Leo khốn khổ! Má cậu ấy bừng đỏ, dưới mắt thâm quầng, hơi
thở nặng nề. Cậu đang rất, rất ốm yếu; nỗi sợ hãi khủng khiếp lại xâm chiếm lấy
tôi, rằng cậu ấy sắp chết, tôi sẽ bị bỏ lại cô độc trên đời. Còn nếu cậu ấy sống,
cậu ấy có lẽ sẽ là đối thủ của tôi trước Ayesha; thậm chí nếu cậu ấy không phải
đàn ông, thì có cơ hội nào cho tôi không, một người trung niên xấu xí, đối lập
với sự trẻ trung và vẻ đẹp ngời sáng của cậu ấy? Đúng vậy, cảm ơn Thượng Đế! Cảm
giác đúng đắn của tôi đã không bị chết đi. Bà
ấy vẫn chưa giết được nó; và tôi đứng đó, cầu nguyện Thượng Đế chân thành,
xin ngài để con trai tôi, còn hơn cả con trai, sống sót – dù ngài chứng minh được
ngài là đàn ông hay không.
Rồi tôi nhẹ
nhàng quay về, nhưng tôi vẫn không ngủ được; nhìn và nghĩ về Leo thân yêu ốm yếu
nằm đó đã tiếp thêm dầu vào ngọn lửa lo âu trong lòng tôi. Thân thể mệt mỏi và
tâm trí quá căng thẳng đánh thức tất cả trí tưởng tượng của tôi một cách vô thức
và tự nhiên. Những ý tưởng, cách nhìn, cảm hứng trôi nổi một cách sống động
đáng ngạc nhiên. Hầu hết chúng đều kì cục, một số kinh khủng, vài hồi tưởng và
cảm giác từ bao nhiêu năm đã bị chôn vùi trong đổ nát của đời tôi. Nhưng, sau
và trên tất cả, lượn lờ hình ảnh người phụ nữ kinh khủng đó, lấp lánh ký ức về
vẻ đẹp mê hoặc của bà ta. Tôi cứ sải bước lên xuống trong động – lên rồi lại xuống.
Bỗng nhiên tôi
quan sát thấy những gì không nhận ra trước đó, có một khe hở hẹp trên tường đá.
Tôi cầm đèn kiểm tra nó; khe hở dẫn tới một lối đi nhỏ. Giờ tôi vẫn đủ nhạy cảm
để ghi nhớ rằng, chuyện này không hề dễ chịu, giống như một tình huống chúng
tôi đã từng rơi vào, có những lối nhỏ chạy tới căn phòng ngủ của người nào đó
mà không ai biết là ở đâu. Nếu có những lối nhỏ này, người ta có thể đi theo; họ
có thể tới khi người đó đang ngủ. Một phần xem nó dẫn đến đâu, một phần xuất
phát từ mong muốn không ngừng thôi thúc làm một điều gì đó, tôi đi theo lối nhỏ
đó. Nó dẫn tới một cầu thang đá, tôi đi xuống; cầu thang kết thúc bằng một lối
nhỏ khác, hay đúng hơn là một đường hầm, cũng được đào vào khối đá đang nằm,
theo tôi thấy, nó chạy đúng chính xác dưới phòng trưng bày dẫn đến lối vào các
phòng của chúng tôi, và đi qua hang lớn ở trung tâm. Tôi đi xuống đó: yên lặng
như mồ, nhưng vẫn có cảm giác lôi kéo thu hút mà tôi không thể định nghĩa được,
đôi chân mang tất của tôi rơi xuống không tiếng động trên nền đá nhẵn mịn. Khi
tôi đi qua khoảng năm mươi thước, tôi tới một lối đi khác chạy tới góc phải, ở
đó một điều khủng khiếp xảy ra với tôi: làn gió sắc bén vây lấy và thổi tắt
đèn, để tôi lại trong bóng tối hoàn toàn giữa lòng nơi bí ẩn này. Tôi đi vài bước
tới đường hầm bị chia đôi, sợ hãi vô cùng bị lạc đường khi đi men theo nó trong
bóng tối, rồi dừng lại suy nghĩ. Tôi nên làm gì đây? Tôi không có lựa chọn; cố
quay lại con đường dài trong bóng tối hoàn toàn dường như là việc đáng sợ,
nhưng tôi không thể đứng đây suốt đêm, nếu làm thế, có lẽ cũng không giúp gì
cho tôi nhiều lắm, vì trong lòng đá, buổi trưa cũng tối như nửa đêm thôi. Tôi
nhìn qua vai – không có dấu hiệu hay âm thanh nào. Tôi chăm chú nhìn vào phía
trước trong bóng tối: chắc chắn phía xa tôi thấy gì đó như ánh lửa yếu ớt. Có lẽ
đó là động tôi có thể nhận được ánh sáng – dù sao, cũng đáng để điều tra. Tôi
rón rén đi dọc đường hầm một cách chậm rãi và đau đớn, giữ tay bám vào tường, cảm
thấy mỗi bước chân đặt xuống, nỗi sợ rơi xuống hố lại ít đi. Ba mươi bước – có ánh
sáng, ánh sáng rộng đến và đi, chiếu xuyên rèm! Năm mươi bước – nó gần trong tầm
tay! Sáu mươi bước – ôi, thiên đường tuyệt vời!
Tôi đứng chỗ tấm
rèm, chúng không treo gần, nên tôi có thể thấy rõ cái hang nhỏ bên ngoài. Có vẻ
là một ngôi mộ, được chiếu sáng bởi một ngọn lửa ở giữa trung tâm, ánh sáng trắng
không khói. Quả thật, ở đó phía bên trái, là một thềm đá có gờ cao khoảng ba
inch, trên thềm một thứ đang nằm, tôi nghĩ là xác chết; dù sao cũng giống thế,
còn có gì đó màu trắng phủ trên nó. Bên phải cũng tương tự, đặt một số tấm
thêu. Trên ngọn lửa, cong cong một hình ảnh phụ nữ; người đó ở phía bên tôi và
đối mặt với cái xác, khoác một áo choàng đen để giấu mình như áo choàng của nữ
tu. Dường như người đó đang nhìn vào ánh lửa bập bùng. Đột nhiên, khi tôi đang
cố nghĩ xem phải làm gì, bằng cơn co giật gây cảm giác khí lực tuyệt vọng, người
phụ nữ đứng dậy và bỏ chiếc áo choàng đen khỏi người.
Đó chính là Bà ấy!
Bà ấy mặc chiếc
váy dài trắng bó sát như khi tôi thấy lúc bà ấy bỏ che mặt, chiếc váy cắt thấp
ngực, buộc con rắn hai đầu bên thắt lưng, và giống như trước đó, mái tóc đen gợn
sóng dày nặng nề đổ xuống lưng. Nhưng gương mặt bà ấy – từng hút lấy mắt tôi,
giữ chặt tôi – nhưng lúc này không phải bằng sức mạnh của nhan sắc, mà là sức mạnh
của vẻ khủng bố lôi cuốn. Vẻ đẹp vẫn thế, thực vậy, nhưng nỗi thống khổ, niềm
đam mê mù quáng và thù hận dữ dội bùng lên run rẩy, trong cái nhìn như tra tấn
của đôi mắt hếch, vượt quá khả năng mô tả của tôi.
Bà ấy vẫn đứng
đó một lúc, tay giơ cao lên đầu, chiếc váy trắng trượt xuống tới thắt lưng
vàng, lộ ra vẻ đẹp chói mắt của thân thể. Bà ấy đứng đó, ngón tay nắm chặt, cái
nhìn oán ghét khủng khiếp tụ tập và hằn sâu trên gương mặt.
Tôi chợt nghĩ về
những gì có thể xảy đến nếu bà ta phát hiện ra tôi, suy nghĩ đó khiến tôi phát ốm
và xỉu mất. Nhưng ngay cả khi biết sẽ phải chết nếu dừng lại, tôi cũng không
tin mình có thể cử động được nữa, vì tôi đã hoàn toàn bị mê hoặc. Tôi vẫn biết
điều nguy hiểm đó. Giả sử bà ta nghe thấy hay nhìn thấy tôi qua tấm rèm, giả sử
tôi hắt hơi, hay phép thuật nói cho bà ta biết bà ta đang bị theo dõi – thực sự
ngày tàn của tôi đã chóng đến.
Hạ bàn tay nắm
chặt xuống bên sườn, rồi lại đưa lên đầu, như tôi là một người đàn ông còn sống
và đáng kính, ánh lửa trắng nhảy lên tới mái, ném ánh sáng dữ dội khủng khiếp
lên Bà ấy, thân ảnh da trắng dưới lớp
phủ, từng cuộn từng cuộn trên tác phẩm bằng đá.
Lại đưa cánh tay
trắng ngà xuống, bà ấy nói như rít lên, bằng tiếng Ả Rập, với những lời làm máu
tôi đông lại, khiến tim tôi như ngừng đập giây lát.
“Hãy nguyền rủa
cô ta, cô ta đáng bị nguyền rủa vĩnh viễn.”
Cánh tay rơi xuống
và ánh lửa chìm dần. Rồi chúng lại đi lên, và lưỡi lửa rộng lớn lại bắn lên
theo đó; rồi lại rơi xuống.
“Hãy nguyền rủa
ký ức của cô ta – ký ức người Ai Cập đáng bị nguyền rủa.”
Lại lên rồi lại
xuống.
“Hãy nguyền rủa
cô ta, con gái sông Nile, vì vẻ đẹp của cô ta.”
“Hãy nguyền rủa
cô ta, vì phép thuật của cô ta đã thắng ta.”
“Hãy nguyền rủa
cô ta, vì cô ta đã dành mất người ta yêu.”
Ngọn lửa lại đi
xuống và co lại.
Bà ta đưa tay
trước mắt, bỏ giọng điệu xì xèo, kêu lớn lên:
“Nguyền rủa để
làm gì chứ? – Cô ta đã thắng, cô ta đã biến mất.”
Rồi bà ta lại bắt
đầu lại với sức lực đáng sợ hơn:
“Hãy nguyền rủa
cô ta, dù cô ta ở đâu. Hãy để những lời nguyền rủa của ta tới nơi cô ta ở và
tàn phá sự yên nghỉ của cô ta.”
“Hãy nguyền rủa
cô ta xuyên qua mọi trời sao. Hãy để hình bóng cô ta cũng bị nguyền rủa.”
“Hãy để sức mạnh
của ta tìm ra cô ta ở đó.”
“Hãy để cô ta
nghe thấy ta ở đó. Hãy để cô ta tự trốn trong bóng tối.”
“Hãy để cô ta
rơi xuống tận cùng tuyệt vọng, vì một ngày nào đó ta sẽ tìm ra cô ta.”
Ngọn lửa lại đi
xuống, bà ta lại dùng tay che mắt.
“Vô dụng – vô dụng,”
Bà ta rền rĩ; “Ai có thể chạm tới kẻ đang ngủ chứ? Ta vẫn không thể chạm tới họ.”
Rồi bà ta lại bắt
đầu nghi thức xấu xa kia một lần nữa.
“Hãy nguyền rủa
cô ta khi cô ta tái sinh. Hãy để cô ta sinh ra trong nguyền rủa.”
“Hãy để cô ta bị
nguyền rủa hoàn toàn từ giờ phút sinh ra tới tận khi giấc ngủ tìm đến cô ta.”
“Đúng thế, rồi
hãy để cô ta bị nguyền rủa; vì sau đó ta sẽ dùng sự trả thù vượt qua cô ta, phá
hủy hoàn toàn cô ta.”
Rồi cứ tiếp tục
thế. Ngọn lửa lên rồi xuống, phản chiếu chính nó trong đôi mắt đau đớn của bà
ta; âm thanh rền rĩ của lời nguyền đáng sợ, tôi không có lời nào để truyền tải
nỗi khủng khiếp của chúng, chúng chạy quanh các bức tường rồi tan biến trong những
vang vọng nhỏ, ngọn lửa gay gắt và bóng tối sâu thẳm luân phiên dưới hình hài
màu trắng kinh hãi kéo ra trên chiếc quan tài đá.
Nhưng cuối cùng
bà ta dường như mệt mỏi rồi dừng lại. Bà ta ngồi xuống nền đá, lắc đám tóc dày
đẹp đẽ trên mặt và ngực, bắt đầu khóc nức nở khủng khiếp trong sự tra tấn của nỗi
tuyệt vọng đến đau lòng.
“Hai nghìn năm,”
bà ta rên rỉ - “hai nghìn năm ta đã khao khát và chịu đựng; nhưng dù thế kỷ lê
lết qua thế kỷ, thời gian nhường chỗ thời gian, vết thương trong ký ức không hề
giảm đi, ánh sáng hy vọng cũng không rực rỡ hơn. Ôi! Sống hai nghìn năm, toàn bộ
đam mê đã ăn mòn trái tim ta, tội lỗi còn hiện diện trước cả ta. Ôi, đối với ta,
sự sống không mang theo quên lãng! Ôi, những năm tháng mệt mỏi đã và đang tới,
vĩnh viễn sẽ tới, vô tận và không có kết thúc!”
“Tình yêu của
ta! Tình yêu của ta! Tình yêu của ta! Tại sao người lạ mang ngươi trở lại cho
ta theo cách này? Năm trăm năm qua ta đã không đau khổ như vậy. Ôi, nếu ta lại
phạm tội chống lại ngươi, ta sẽ không thể xóa sạch tội lỗi ư? Khi nào ngươi trở
lại bên ta, ngươi có tất cả, chứ không phải không có gì? Ta có thể làm gì đây?
Làm gì? Làm gì? Làm gì? Không chừng cô ta – không chừng người Ai Cập đó đang ở
bên ngươi, và thử thách trí nhớ của ta. Ôi, tại sao ta không thể chết với
ngươi, ta đã giết ngươi ư? Than ôi, ta không thể chết! Than ôi! Than ôi!” Bà ấy
ném mình lên mặt đất, nức nở khóc tới khi tôi nghĩ trái tim bà ấy phải nổ tan.
Đột nhiên bà ấy
dừng lại, đứng dậy, xếp lại chiếc váy, sốt ruột hất những ổ khóa dài, quét qua
nơi một thân hình nằm trên đá.
“Ôi,
Kallikrates,” bà ta kêu khóc, còn tôi run lên trước cái tên đó, “Ta phải nhìn lại
gương mặt ngươi, dù đau đớn. Một thế hệ trôi qua kể từ khi ta nhìn thấy ngươi,
người ta đã giết – giết bằng chính tay ta,” với ngón tay run rẩy, bà ấy co người
nắm lấy góc tấm phủ từ thân thể trên quan tài đá, rồi dừng lại. Khi bà ấy nói lại
lần nữa, trong tiếng thì thầm kinh ngạc, như thể ý tưởng của bà ấy cũng kinh khủng
với chính bà ta.
“Ta sẽ nâng
ngươi dậy,” bà ta nói, dường như với cái xác, “để ngươi đứng trước ta như cũ chứ?
Ta có thể làm điều đó,” bà ta giữ tay vào người chết, trong khi toàn bộ thân
hình bà ta trở nên cứng ngắc, trông thật khủng khiếp, còn đôi mắt trở nên bất động
và trì độn. Tôi khiếp đảm sau tấm rèm, tóc tôi dựng đứng trên đầu, đó là tưởng
tượng hay thực tế, tôi không thể nói, nhưng tôi nghĩ thân thể im lặng trong tấm
phủ bắt đầu rung, tấm cuộn nâng lên như thể nó nằm trên ngực một người đang ngủ.
Bỗng nhiên bà ta rút tay lại, chuyển động của xác chết dường như ngừng lại.
“Để làm gì chứ?”
Bà ta ủ rũ nói. “Có gì hay đâu khi khơi lại những tháng ngày quen thuộc trong đời
khi ta không thể triệu hồi được linh hồn? Thậm chí ngươi đứng trước ta, ngươi
cũng không thể biết ta, nhưng có thể làm những gì ta bảo ngươi. Sự sống của
ngươi sẽ là sự sống của ta, đó không phải là cuộc đời của ngươi, Kallikrates.”
Bà ta đứng đó
suy nghĩ một lúc, rồi ngồi xuống bằng đầu gối bên cạnh cơ thể đó, bắt đầu ấn
đôi môi vào thân hình kia và khóc. Có gì đó thật khủng khiếp về cảnh người phụ
nữ đang gây cảm giác ghê sợ này nới lỏng đam mê bên người chết – khủng khiếp
hơn bất kỳ điều gì từng xảy đến trước đây – tôi không thể nhìn nổi nữa, quay
đi, tôi bắt đầu bò run rẩy từng bước, chậm chạp theo lối nhỏ tối tăm, cảm thấy
trái tim run rẩy như thể tôi đã nhìn thấy một cảnh tượng của Linh Hồn trong Địa
Ngục.
Tôi hầu như
không biết làm sao tôi bị vấp. Lần thứ hai tôi ngã, khi rẽ sang đoạn đường đôi,
nhưng may mắn phát hiện sai lầm đúng lúc. Sau hai mươi phút bò dọc theo đó, cuối
cùng tôi đã tới cầu thang nhỏ mà tôi đã trèo xuống. Vì vậy, hoàn toàn kiệt sức
và sợ gần chết, cuối cùng tôi lún người xuống sàn đá, chìm vào quên lãng.
Khi tỉnh lại, tôi nhận thấy một tia sáng mờ nhạt
trong lối đi ngay sau tôi. Tôi bò về phía đó, thấy đó là cầu thang nhỏ đi xuống
mà bình minh yếu ớt đang lấy trộm đi. Đi qua đó, tôi trở về phòng tôi an toàn,
ném mình lên giường, ngay sau đó chìm trong giấc ngủ, hay đúng hơn là trạng
thái mê man.