Thứ Bảy, 9 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 13+14



CHƯƠNG 13

Ayesha lộ diện
“Thế đấy,” Bà ấy nói, “hắn ta đã đi rồi, kẻ đần độn già nua râu trắng! À, tên đó cũng thu được chút ít tri thức trong đời. Hắn ta đã thu nó lại như nước, nhưng giống như nước, nó lại chảy qua ngón tay, nếu bàn tay hắn ta ướt dù là bởi sương, thế hệ những kẻ ngu ngốc đó vẫn gào lên ‘Thấy chưa, ông ấy là người thông thái!’ Không phải vậy sao? Nhưng họ gọi ngươi thế nào? Hắn ta gọi ‘Khỉ Đầu Chó’,” bà ta cười; “nhưng đó là kiểu cách của đám người hoang dã thiếu trí tưởng tượng đó, những con thú bay tới, họ sẽ gán cho một cái tên tương tự nhau. Họ gọi ngươi thế nào ở đất nước của ngươi, người lạ?”
“Họ gọi tôi là Holly, thưa Nữ Hoàng,” Tôi trả lời.
“Holly,” bà ấy nói từ đó một cách khó khăn, nhưng bằng giọng duyên dáng nhất; “Holly là gì?”
“Holly là một cái cây có gai,” Tôi nói.
“Vậy à. Phải, ngươi trông giống một cái cây có gai. Khỏe mạnh, xấu xí, nhưng nếu trí tuệ ta không sai lầm, ngươi là một người trung thực tận xương tủy, một người đáng để dựa vào. Ta nghĩ vậy. Nhưng hãy ở đây, Holly, đừng đứng đó, vào với ta và ngồi bên ta. Ta không muốn thấy ngươi bò trước mặt ta như đám nô lệ kia. Ta sợ sự sùng bái và khủng bố của họ; đôi khi họ làm phiền ta, ta chỉ có thể hủy diệt họ để vui đùa, để thấy đám còn lại chuyển sang trắng bệch, thậm chí tận tim phổi.” Rồi bà ấy giữ tấm rèm bên cạnh bằng đôi tay trắng ngà để tôi đi qua vào trong.
Tôi bước vào, run rẩy. Người phụ nữ này rất khủng khiếp. Khi tấm rèm dừng lại, khoảng mười hai feet mười, trong chỗ nghỉ là một cái giường và một cái bàn trên đó đặt trái cây và nước lấp lánh. Cuối phòng là một chiếc bình như tranh vẽ trên đá trạm khắc, cũng đầy nước tinh khiết. Nơi này được chiếu sáng nhẹ nhàng bởi những cây đèn hình lọ tuyệt đẹp mà tôi đã nói, không khí và rèm treo đầy mùi nước hoa tinh tế. Nước hoa dường như tỏa ra từ mái tóc tráng lệ và trang phục trắng bó sát người của chính Bà ấy. Tôi đi vào phòng nhỏ rồi nghi ngại đứng đó.
“Ngồi đi,” Bà ấy nói, chỉ vào cái giường. “Ngươi không có lý do gì để sợ hãi ta. Nếu có, ngươi sẽ không sợ nữa, vì ta sẽ giết ngươi. Vì thế hãy để trái tim ngươi được soi sáng.”
Tôi ngồi xuống chân giường gần bồn nước trông như cái bình, còn Bà ấy nhẹ nhàng ngồi xuống bên kia.
“Nào bây giờ, Holly,” bà ta nói, “Làm thế nào ngươi nói được tiếng Ả Rập? Đó là ngôn ngữ thân yêu của ta, vì ta là một người Ả Rập từ khi sinh ra, thậm chí ‘al Arab al Ariba’ (một người Ả Rập của những người Ả Rập), đó là chủng tộc của cha chúng ta Yárab, con trai của Kâhtan, vì ta sinh ra ở thành Ozal xinh đẹp và cổ kính của vùng Yaman Hạnh Phúc. Nhưng ngươi không nói ngôn ngữ đó giống như chúng ta từng nói. Ngươi nói thiếu nhạc điệu của thứ ngôn ngữ ngọt ngào của các bộ tộc ở Hamyar mà ta chưa bao giờ nghe thấy. Vài từ dường như đã thay đổi, thậm chí giống người Amahagger kia, những kẻ đã làm mất giá trị và làm ô uế sự tinh khiết của nó, vì thế ta phải nói chuyện với chúng bằng ngôn ngữ khác.” [*]
[*] Yárab con trai của Kâhtan, người sống vào những thế kỷ trước thời đại của Abraham, là cha đẻ của người Ả Rập cổ, đã đặt tên Ả Rập cho đất nước này. Trong cách nói của chính bà ấy ‘al Arab al Ariba’, Bà ấy chắc chắn muốn truyền đạt rằng, Bà ấy mang dòng máu Ả Rập chính thống để phân biệt với những người Ả Rập nhập tịch, hậu duệ của Ismael, con trai của Abraham và Hagar, những người được biết đến như ‘al Arab al mostáraba’. Phương ngữ của bộ lạc cổ Koreish thường được gọi là tiếng Ả Rập rõ ràng hay “dễ hiểu”, nhưng phương ngữ Hamaritic lại gần với nguyên bản tiếng Syria mẹ đẻ hơn. – L.H.H.
“Tôi đã nghiên cứu nó,” Tôi trả lời, “suốt nhiều năm. Ngôn ngữ này cũng được nói ở Ai Cập và nơi khác nữa.”
“Vậy là nó vẫn được nói, và ở cả tận Ai Cập ư? Vị Pharaoh nào đang ngồi trên ngai vàng? Vẫn là một con cháu của nhà Ochús người Ba Tư chứ, hay nhà Achæmenians đã ra đi rồi, vì thời của Ochús đã xa lâu rồi mà.”
“Người Ba Tư đã ra đi khỏi Ai Cập vào hai nghìn năm trước, từ đó là gia tộc Ptolemy, người La Mã, và nhiều thế hệ khác nữa đã phát triển mạnh mẽ và thống trị bên sông Nile, rồi sụp đổ khi thời đại của họ đã suy tàn,” tôi kinh ngạc nói. “Người biết gì về nhà Artaxerxes người Ba Tư?”
Bà ấy cười, không trả lời, lại một cơn ớn lạnh xuyên qua tôi. “Còn Hy Lạp,” bà ấy nói; “Hy Lạp vẫn còn đó chứ? Ôi, ta yêu người Hy Lạp. Họ đẹp như ban ngày, và thông minh nữa, nhưng trái tim khốc liệt và hay thay đổi.”
“Vâng,” Tôi nói, “Có một Hy Lạp; chỉ là bây giờ, nó lại một lần nữa là một dân tộc. Nhưng người Hy Lạp ngày nay không phải là người Hy Lạp thời xưa, nước Hy Lạp giờ là một sự nhạo báng cho Hy Lạp trước kia.”
“Vậy à! Người Do Thái vẫn ở Jerusalem chứ? Ngôi Đền nhà vua thông thái xây dựng vẫn còn chứ, và nếu thế thì Thiên Chúa mà họ thờ phụng trong đó là ai? Đấng Cứu Thế của họ đến rồi chứ, họ rao giảng nhiều đến thế và tiên tri lớn tiếng đến thế về vị đó, Người đó đã thống trị trái đất rồi chứ?”
“Người Do Thái đã bị tan vỡ và biến mất, những mảnh vỡ của dân tộc họ trải khắp thế giới, Jerusalem không còn gì nữa. Đối với ngôi đền mà Herod đã xây dựng,”
“Herod!” bà ấy nói. “Ta không biết Herod. Nhưng tiếp tục đi.”
“Người La Mã đã đốt nó, và những con đại bàng La Mã bay qua đống đổ nát của nó, giờ Judæa là một sa mạc.”
“Vậy à, vậy à! Họ là một dân tộc vĩ đại, người La Mã ấy, và đi thẳng đến chấm hết – ôi, họ đã lao đến đó như định mệnh, hay giống những con đại bàng của họ lao vào con mồi! – và để yên bình lại phía sau.”
"Solitudinem faciunt, pacem appellant," Tôi đề nghị.
“A, ngươi cũng có thể nói tiếng Latin nữa!” Bà ngạc nhiên nói. “Thật là một âm thanh kì lạ trong tai ta sau bao ngày qua, dường như với ta giọng nói của ngươi không trầm xuống như người La Mã nói chuyện. Ai đã viết lời đó? Ta không biết câu đó, nhưng chắc là người của dân tộc vĩ đại đó. Có vẻ như ta đã tìm thấy một người rất uyên bác – người mà đôi tay giữ được dòng nước trí tuệ của nhân loại. Ngươi cùng biết tiếng Hy Lạp chứ?”
“Vâng, thưa Nữ Hoàng, và một chút tiếng Do Thái, nhưng không nói tốt lắm. Giờ chúng đều là những ngôn ngữ đã chết.”
Bà ấy vỗ tay trong niềm vui sướng rất trẻ con. “Đúng thế thật, ngươi là một cái cây xấu xí, ngươi sinh trưởng những hoa trái khôn ngoan, ôi Holly,” bà ấy nói; “nhưng ta ghét người Do Thái, vì họ gọi ta là ‘ngoại đạo’ khi ta muốn dạy họ triết lý của ta – Đấng Cứu Thế của họ đã đến rồi chứ, Ngài ấy đã thống trị thế giới ư?”
“Đấng Cứu Thế của họ đã đến,” Tôi trả lời với sự tôn kính; “nhưng Ngài nghèo khổ và thấp hèn, còn họ chẳng muốn gì từ Ngài. Họ đánh đòn Ngài, đóng đinh Ngài trên cây, nhưng lời của Ngài và những tác phẩm của Ngài còn sống, vì Ngài là Con Trai của Thiên Chúa, giờ đây sự thật là Ngài đã thống trị một nửa thế giới, nhưng không phải là Hoàng Đế của Thế Giới.”
“A, những con sói lòng dạ tàn nhẫn,” bà nói, “những kẻ đi theo Cảm Giác và thần thánh – tham lợi và bè phái. Ta có thể thấy gương mặt tối tăm của họ. Vậy họ đã đóng đinh Đấng Cứu Thế của họ ư? Thật không thể tin được. Ngài ấy là Con Trai của Sinh Thần, chuyện này không là gì với họ, nếu thực sự Ngài là như vậy, chúng ta sẽ nói sau. Họ không thể quan tâm tới bất kỳ vị Thần nào nếu Ngài đến mà không phô bầy cùng sức mạnh. Họ, dân tộc được lựa chọn, con tàu của Ngài họ gọi là Jehovah, ôi, còn con tàu của Baal, con tàu của Astoreth, con tàu của các thần linh của người Ai Cập – dân tộc có dạ dày lớn, tham lam đã mang tới cho họ của cải và sức mạnh. Vậy nên, họ đóng đinh Đấng Cứu Thế của mình vì Ngài đến trong bề ngoài thấp hèn – còn giờ bọn họ đã bị phân tán rải rác khắp trái đất ư? Tại sao, nếu ta nhớ được, không có lời tiên tri nào của họ nói vậy. Phải, hãy để họ đi – họ đã làm tan nát trái tim ta, những người Do Thái đó, làm ta nhìn thế giới bằng đôi mắt xấu xa, chao ôi, và đưa ta tới nơi hoang dã này, nơi của một dân tộc còn tồn tại trước cả họ. Khi ta muốn dạy họ sự thông thái ở Jerusalem, họ đã ném đá ta, ngay tại cổng Đền Thờ, những kẻ đạo đức giả râu trắng và các giáo sĩ xua người dân tới ném đá ta! Nhìn này, dấu vết chuyện đó giờ vẫn còn đây!” Bất ngờ bà ấy kéo tấm vải phủ như sương khói trên cánh tay tròn trịa lên, chỉ vào một vết sẹo nhỏ màu đỏ đối lập với vẻ đẹp trắng trong ngọt ngào đó.
Tôi co người lại kinh hoàng.
“Xin lỗi, thưa Nữ Hoàng,” Tôi nói, “Nhưng tôi rất hoang mang. Màn đêm hai nghìn năm đã trôi qua trên trái đất kể từ khi Đấng Cứu Thế của người Do Thái bị treo trên cây thập tự giá tại Golgotha. Thế thì làm thế nào người có thể dạy giáo lý cho người Do Thái trước cả Ngài tồn tại? Người là một phụ nữ và không có linh hồn. Làm thế nào một phụ nữ có thể sống hai nghìn năm? Tại sao người lừa gạt tôi, thưa Nữ Hoàng?”
Bà ấy ngả lưng trên giường, một lần nữa tôi lại cảm thấy đôi mắt ẩn sau đang trêu đùa tôi, nhìn ra lòng tôi.
“Ôi con người này!” cuối cùng bà ấy nói rất chậm rãi và thong thả, “dường như vẫn có những thứ trên trái đất mà ngươi không biết. Ngươi vẫn tin rằng mọi thứ đều chết đi, thậm chí cả những người Do Thái kia cũng vậy ư? Ta nói cho ngươi không có gì chết đi cả. Không có những thứ như Tử Thần, chỉ có một thứ gọi là Thay Đổi. Xem này,” và bà ấy chỉ vào vài bức điêu khắc trên tường đá. “Ba lần hai nghìn năm đã qua đi kể từ lúc người cuối cùng của chủng tộc vĩ đại khắc ra những bức tranh này ngã xuống khi bệnh dịch hạch bùng nổ tiêu diệt họ, nhưng họ vẫn chưa chết. Thậm chí giờ họ vẫn sống; không chừng linh hồn họ đang bị thu hút về phía chúng ta ngay giờ phút này,” rồi bà ấy nhìn quanh. “Chắc chắn đôi khi dường như mắt ta có thể thấy họ.”
“Vâng, nhưng với thế giới, họ đã chết.”
“À, một lúc thôi; nhưng thậm chí với thế giới, họ sẽ lại ra đời lần nữa, và cứ thế tiếp diễn. Ta, phải, ta, Ayesha [*] – người lạ, đó là tên ta – Ta nói cho ngươi, ta chờ đợi đến giờ vì người ta yêu sẽ tái sinh, ta nán lại đây đến lúc chàng tìm thấy ta, biết chắc rằng chàng sẽ đến, ở đây, và chỉ ở đây, chàng sẽ chào đón ta. Tại sao, ngươi có tin không, ta, một người đầy quyền lực, ta, đẹp hơn nhiều vẻ đẹp của nàng Helen người Hy Lạp, ta, người họ từng ngợi ca, sự thông thái của ta rộng hơn, rộng và sâu hơn rất nhiều so với sự thông thái của Solomon Thông Thái – Ta, người biết những bí mật của trái đất và sự giàu có của nó, có thể biến tất cả mọi thứ cho ta dùng – Ta, người từng vượt qua Thay Đổi, mà ngươi gọi là Thần Chết – tại sao, ta nói, ôi người lạ, ngươi nghĩ rằng ta đã hợp thành bầy ở đây với đám người hoang dã thấp kém hơn thú vật này sao?”
[*] Phát âm là Assha – L.H.H.
“Tôi không biết,” Tôi khiêm tốn nói.
“Vì ta đợi chàng, người ta yêu. Đời ta không chừng đã thành quỉ dữ, ta không biết nữa – vì ai có thể nói cái gì là quỉ dữ, cái gì là thánh thiện – vì thế ta sợ chết, thậm chí nếu ta có thể chết, điều ta không thể cho đến khi nào giờ phút của ta tới, để đi và tìm kiếm chàng đang ở đâu; vì giữa chúng ta có một bức tường chắn ta không thể trèo qua, ít ra ta sợ hãi làm điều đó. Chắc cũng dễ lạc lối lúc đang kiếm tìm trong những không gian vĩ đại nơi các hành tinh lang thang vô tận này. Nhưng ngày đó sẽ tới, có thể hơn năm nghìn năm đã trôi qua, lạc lối và tan chảy trong miệng Thời Gian, như thể mây trôi tan dần trong bóng đêm, hay có lẽ là ngày mai, khi chàng – tình yêu của ta – tái sinh lại, rồi theo qui luật mạnh hơn bất kỳ kế hoạch nào của con người, chàng sẽ tìm thấy ta ở đây, nơi chàng từng biết ta, chắc chắn trái tim chàng sẽ mềm đi trước ta, dù ta đã phạm tội chống lại chàng; ôi, thậm chí dù chàng không còn nhớ ta nữa, chàng sẽ vẫn yêu ta, chỉ vì nhan sắc này.”
Một thoáng tôi chết lặng, không thể trả lời. Câu chuyện quá áp đảo khiến trí tuệ của tôi không thể nắm bắt.
“Nhưng dù vậy đi nữa, thưa Nữ Hoàng,” cuối cùng tôi nói, “ngay cả nếu đàn ông chúng tôi tái sinh đi tái sinh lại, thì người cũng không như thế, nếu người nói là thật.” Bà ấy nhìn lên sắc bén, và tôi lại một lần nữa bắt gặp ánh sáng lóe lên từ đôi mắt bị che khuất đó; “người chưa bao giờ chết ư?” Tôi vội vã tiếp tục.
“Đúng vậy,” Bà ấy nói; “vì một phần may mắn, một phần nhờ học hỏi, ta đã giải quyết được một trong những bí mật vĩ đại của thế giới. Hãy nói cho ta, người lạ: sự sống – thế thì tại sao sự sống không nên kéo dài một thời gian chứ? Một cuộc đời mười hay hai mươi hay năm mươi nghìn năm lịch sử có là gì? Tại sao trong mười nghìn năm hiếm hoi mưa bão sẽ bào mỏng đỉnh núi đi một đoạn? Trong hai nghìn năm qua hang động này không thay đổi, không gì thay đổi ngoài thú vật và con người – những kẻ giống như thú vật. Chuyện này không có gì hay cả, nhưng ngươi có thể hiểu. Sự sống rất tuyệt vời, nhưng được kéo dài thêm một chút thì không tuyệt vời đâu. Tự nhiên có linh hồn sống động của nó cũng như con người, là con của Mẹ Tự Nhiên, có linh hồn, có hơi thở, và sống cùng sự sống của Mẹ Tự Nhiên. Con người sẽ không sống vĩnh hằng, vì Mẹ Tự Nhiên không vĩnh hằng, bà ấy sẽ phải chết, như mặt trăng tự nhiên sẽ chết. Bà ấy phải chết, ta muốn nói rằng, đúng hơn là thay đổi và ngủ tới lúc bà ấy sống lại. Nhưng bà ấy sẽ chết khi nào? Chưa, ta tin tưởng , trong khi bà ấy còn đang sống, ai có được bí mật của bà cũng sẽ sống cùng với bà như vậy. Ta không có tất cả bí mật của bà, nhưng ta có một số, chừng như nhiều hơn bất kỳ ai tồn tại trước ta. Giờ đây với ngươi, ta không nghi ngờ gì, điều này sẽ là một bí ẩn vĩ đại, do đó ta sẽ không dùng nó vượt qua ngươi bây giờ. Lúc khác ta sẽ nói cho ngươi nhiều hơn nếu tâm trạng của ta tốt, dù dường như ta chưa bao giờ nói lại điều đó. Ngươi đang tự hỏi làm sao ta biết ngươi đến mảnh đất này ư, rồi cứu đầu các ngươi khỏi cái chậu nung nóng?”
“Vâng, thưa Nữ Hoàng,” Tôi yếu ớt trả lời.
“Thế thì hãy nhìn trên mặt nước,” bà ấy chỉ vào cái bình khắc, sau đó cong người về phía trước, chạm tay vào nó.
Tôi đứng lên nhìn chằm chằm, ngay lập tức nước tối lại. Rồi nó quang đãng trở lại, tôi thấy rõ rệt như đang nhìn thấy bất kỳ việc gì trong đời mình – Tôi thấy con thuyền của chúng tôi trên kênh đào kinh khủng đó. Có Leo nằm ngủ dưới đáy, một cái áo choàng chùm qua cậu ấy để chống muỗi, trong tư thế như che đi khuôn mặt cậu ấy, còn tôi, Job và Mahomed đang kéo trên bờ kênh.
Tôi quay lại kinh ngạc, kêu lên rằng đó là ma thuật, vì tôi nhận ra cảnh đó – đó là những gì thực sự xảy ra.
“Không, không; ôi Holly,” bà ấy trả lời, “Đó không phải là ma thuật, thật là hoang đường dốt nát. Chả có gì là ma thuật cả, dù những thứ thế này là tri thức trong những bí mật của Mẹ Tự Nhiên. Nước là chiếc gương của ta; ta thấy những gì xảy ra trong đó nếu ta muốn triệu hồi những hình ảnh lên, việc này không thường xuyên. Thế là ta có thể thấy các ngươi, những gì các ngươi làm trong quá khứ, nếu có gì đó phải làm cho đất nước này, ta sẽ biết, hay ngươi – người quan sát – cũng sẽ biết. Hãy nghĩ về một gương mặt nếu ngươi là người đó, nó sẽ ánh xạ từ tâm trí ngươi lên mặt nước. Ta chưa biết toàn bộ bí mật này – Ta không thể đọc được gì từ tương lai. Nhưng đó là một bí mật kỳ lạ, ta chưa tìm ra nó. Ở Ả Rập và Ai Cập, các phù thủy biết về nó từ hàng thế kỷ qua. Một ngày ta tình cờ ngẫm nghĩ về con kênh đào cổ - kể từ khi ta đi thuyền trên đó lúc khoảng hai mươi tuổi, ta cố ý muốn nhìn lại nó. Ta đã nhìn như vậy, rồi ta thấy con thuyền và ba người các ngươi đang đi trên đó, còn một người, gương mặt ta không thể thấy, nhưng hình dáng trẻ trung và cao quý, đang ngủ trên thuyền, vì vậy ta đã gửi thông điệp và cứu các ngươi. Còn bây giờ chia tay thôi. Nhưng ở lại đã, hãy nói cho ta về người trẻ tuổi – con Sư Tử, như người già kia gọi hắn ta. Ta muốn gặp hắn, nhưng hắn lại ốm, ngươi đã nói - ốm vì sốt rét, cũng bị thương trong trận đánh nhau.”
“Cậu ấy rất yếu,” Tôi trả lời buồn bã; “Người không thể làm gì cho cậu ấy sao, thưa Nữ Hoàng! Ai biết được nhiều đến vậy chứ?”
“Tất nhiên ta có thể. Ta có thể chữa cho hắn; nhưng sao ngươi nói chuyện buồn bã đến thế? Ngươi yêu người trẻ đó sao? Hắn ước chừng là con trai ngươi phải không?”
“Cậu ấy là con trai nuôi của tôi, thưa Nữ Hoàng! Cậu ấy sẽ bị mang đi trước chúng tôi sao?”
“Không. Sốt rét đã tấn công hắn bao lâu rồi?”
“Hôm nay là ngày thứ ba.”
“Tốt; thế thì hãy để hắn nằm thêm ngày nữa. Có lẽ hắn sẽ khỏi thôi vì hắn rất khỏe, tốt hơn so với để ta cứu, vì thuốc của ta thuộc loại sẽ làm rung chuyển thành lũy của sự sống. Tuy nhiên nếu đêm mai, vào giờ này sốt rét vẫn thống trị hắn, hắn sẽ không thể tự hồi phục, khi đó ta sẽ đến cứu hắn. Ngừng lại, ai đang chăm sóc hắn?”
“Người đầy tớ da trắng của chúng tôi, Billali đặt tên anh ta là Con Lợn;” tôi do dự một chút, “còn cả một phụ nữ tên Ustane, một phụ nữ rất đẹp của đất nước này, cô ấy đã tới ôm cậu ấy khi lần đầu tiên thấy cậu, và luôn bên cạnh cậu ấy từ đó đến giờ, theo tôi hiểu đó là phong cách người dân của người, thưa Nữ Hoàng.”
“Người dân của ta! Đừng nói với ta về người dân của ta,” bà ấy vội vã trả lời; “Những kẻ nô lệ đó không phải người dân của ta, chúng chỉ là lũ chó bắt ta phải trả giá tới khi ngày giải thoát của ta đến; vì đó là phong tục của họ, ta chả có gì để làm cả. Cũng đừng gọi ta là Nữ Hoàng – Ta mệt với trò tâng bốc và các chức danh rồi – hãy gọi ta là Ayesha, tên đó nghe thật ngọt ngào êm tai, như tiếng vang từ quá khứ. Đối với Ustane này, ta không biết. Ta băn khoăn không biết đó có phải là người chống đối mà ta được cảnh báo không, và đã đến lượt ta cảnh báo người đó? Dừng lại, ta sẽ xem đã;” rồi gập người về phía trước, bà ấy giơ tay về phía mặt nước và nhìn chăm chú vào đó. “Xem này,” Bà ấy lặng lẽ nói, “Đó là cô ta ư?”
Tôi nhìn vào nước, ở đó, phản chiếu trên bề mặt yên ả của nó là hình bóng khuôn mặt nghiêm trang của Ustane. Cô ấy cúi người về phía trước, với cái nhìn dịu dàng vô hạn trên từng đường nét, đang xem gì đó bên dưới, những chiếc khóa hạt dẻ rơi trên vai phải của cô.
“Đó là cô ấy,” Tôi thấp giọng nói, một lần nữa tôi cảm thấy rất nhiều lo lắng trong cái nhìn bất thường này. “Cô ấy đang trông Leo ngủ.”
“Leo!” Ayesha nói bằng giọng lơ đãng; “tại sao, đó là từ ‘lion’ (sư tử) trong tiếng Latin mà. Người già kia lần này đặt tên rất hay. Thật là lạ,” bà ấy tự nói với chính mình, “rất lạ. Giống đến vậy – nhưng không thể nào!”  Với một cử chỉ thiếu kiên nhẫn, bà ấy đưa tay trên nước một lần nữa. Nó tối lại, hình ảnh im lặng biến mất và thật thần bí như khi nó hiện ra, một lần nữa ánh đèn, chỉ có ánh đèn, chiếu sáng bề mặt yên ả của chiếc gương sống động trong veo đó.
“Ngươi có muốn hỏi gì ta trước khi đi không, Holly?” bà ta nói, sau khi nghĩ một lúc. “Thật là một cuộc sống thô sơ khiến ngươi phải chịu đựng ở đây, vì những người này rất hoang dã, không biết cách canh tác. Ta không gặp rắc rối vì điều đó, đây là thức ăn của ta,” bà ấy chỉ vào hoa quả trên bàn nhỏ. “Không gì ngoài hoa quả từng đi qua miệng ta – hoa quả và bánh bột mì, cùng một ít nước. Ta mời chào các cô gái tới đợi các ngươi. Họ câm, ngươi thấy đấy, vừa câm vừa điếc, nên là những người đày tớ an toàn nhất, thật tiết kiệm với những ai có thể đọc được gương mặt và ký hiệu của họ. Ta nuôi dưỡng họ - mất rất nhiều thế kỷ và nhiều rắc rối; nhưng cuối cùng ta đã thành công. Ta đã từng thành công trước đó, nhưng chủng loại đó quá xấu xí, vì thế ta đã để cho nó chết đi; nhưng giờ, như ngươi thấy, họ hoàn toàn khác. Ta cũng từng nuôi một chủng loại khổng lồ, nhưng Mẹ Tự Nhiên không muốn nữa, và nó chết đi. Ngươi có muốn hỏi gì ta không?
“Vâng, một điều thôi, Ayesha,” Tôi mạnh dạn nói; nhưng cảm thấy không có cách nào để mạnh dạn như tôi tin tưởng. “Tôi muốn nhìn thấy mặt của người.”
Bà ấy cười vang như chuông. “Ngươi nghĩ xem, Holly,” bà ấy trả lời; “ngươi nghĩ xem. Dường như ngươi biết những huyền thoại xa xưa về các vị thần Hy Lạp. Không có một Actæon bị chết khốn khổ vì anh ta nhìn vào một nhan sắc quá lộng lẫy đó sao? Nếu ta cho ngươi xem mặt, không chừng ngươi cũng có thể chết một cách khốn khổ; không chừng ngươi có thể ăn mất cả trái tim mình trong ham muốn bất lực; vì ta không phải dành cho ngươi – ta không dành cho ai hết, trừ một người, đã từng dành cho một người, nhưng giờ thì chưa.”
“Như người mong muốn, Ayesha,” Tôi nói. “Tôi không sợ vẻ đẹp của người. Tôi đã để trái tim cách xa khỏi thứ hư không như nhan sắc phụ nữ, thứ đó chỉ như một bông hoa.”
“Không, ngươi sẽ bị giam lại,” bà ta nói; “không vượt qua được. Vẻ đẹp của ta trường tồn cũng như chính ta; nếu ngươi vẫn còn muốn vậy, ôi con người dại dột, ngươi sẽ thế; nhưng đừng đổ lỗi cho ta nếu đam mê đó gắn vào lý do của ngươi, như những kẻ phạm tội người Ai Cập từng trèo lên chú lừa con, rồi dẫn đi đâu ngươi không biết. Chưa bao giờ có người đàn ông nào đứng trước vẻ đẹp của ta lại có thể bỏ nó ra khỏi tâm trí, vì thế đối với đám người hoang dã này, ta phải che mặt, để họ ít làm phiền ta hơn, nếu không ta sẽ giết họ. Hãy nói đi, ngươi vẫn muốn nhìn ư?”
“Tôi muốn,” Tôi trả lời, trí tò mò lấn át tôi.
Bà ta nâng cánh tay tròn trịa trắng tinh lên – chưa bao giờ tôi thấy cánh tay như vậy trước đây – và chậm rãi, rất chậm rãi, rút từng thứ buộc bên dưới mái tóc. Rồi khi tất cả lớp vải bao bọc dài và như xác chết đột ngột rơi từ trên người bà ấy xuống đất, đôi mắt tôi lướt lên hình hài của bà ấy, giờ chỉ còn khoác bộ y phục hơi trắng làm hiện ra vóc dáng hoàn hảo và tôn quí, mang bản năng của sự sống, thậm chí còn hơn cả sự sống, kiều diễm như loài rắn chứ không phải con người. Trên đôi chân nhỏ là đôi dép gắn đinh tán vàng. Rồi đến mắt cá chân hoàn hảo hơn cả những gì nhà điêu khắc từng mơ tưởng. Trên eo, chiếc váy dài trắng của bà gắn con rắn hai đầu bằng vàng ròng, khiến thân thể duyên dáng uốn theo những đường tinh tế dễ thương, cho đến khi chiếc váy dài kết thúc bằng miếng bạc trắng tuyết trên ngực, nơi cánh tay đang gập lại. Tôi nhìn vào gương mặt bà ấy – Tôi không nói quá – co lại như bị mờ đi và kinh ngạc. Tôi từng nghe nói về vẻ đẹp của tiên nhân, giờ tôi đã thấy; chỉ là vẻ đẹp này, với vẻ diễm lệ và tinh khiết khủng khiếp, lại trở thành ma quỉ - ít nhất lúc này, tôi thấy như ma quỉ. Tôi biết mô tả nó thế nào đây? Tôi không thể - đơn giản tôi không thể! Người không sống cùng cây bút có lẽ sẽ truyền đạt được cảm giác về những gì tôi thấy. Tôi có thể nói, đôi mắt trở nên to hơn, đen sâu thẳm và mềm mại, trên gương mặt tô màu nhẹ, vầng trán rộng cao quí, trên đó tóc rủ xuống thẳng và tinh tế. Nhưng tất cả đều đẹp, quá đẹp, vẻ đẹp của bà ấy không nằm trong đó. Nếu có thể được cho là có một nơi cố định, vẻ đẹp đó nằm trong vẻ uy nghiêm toát ra, trong vẻ kiều diễm hoàng tộc, trong dấu vết thần thánh của quyền lực mềm, thứ đang tỏa sáng trên gương mặt rạng rỡ như vầng hào quang sống động. Trước đây chưa bao giờ tôi đoán được có vẻ đẹp cao cả đến vậy – nhưng cao cả là một thứ đen tối – hào quang không hẳn là thiên đường – dù không gì vinh quang hơn nó. Dù gương mặt trước mắt tôi là của một phụ nữ trẻ không quá ba mươi tuổi, sức khỏe hoàn hảo, thoạt tiên chói lọi bởi vẻ chín muồi, nhưng đóng dấu lên đó vẻ từng trải khôn tả, vẻ quen thuộc sâu sắc với nỗi đau và đam mê. Ngay cả nụ cười đáng yêu len giữa núm đồng tiền trên miệng cũng có thể che đi bóng tối của tội lỗi và nỗi buồn. Nó chiếu sáng cả đôi mắt lộng lẫy, hiện ra vẻ uy nghiêm, dường như đang nói: “Hãy nhìn ta đi, đáng yêu đến mức không phụ nữ nào bằng, bất tử và thần thánh; ký ức ám ảnh ta từ đời này sang đời khác, đam mê dắt tay ta – ta đã là ma quỉ, từ đời này sang đời khác, ta sẽ là ma quỉ, ta sẽ buồn bã tới khi sự cứu rỗi tới.”
Bị thu hút bởi lực từ mà tôi không thể cưỡng lại được, tôi để mắt nghỉ ngơi trên quả cầu uy quyền sáng lấp lánh của bà ấy, cảm thấy con đường hiện tại từ đó đến chỗ tôi gây hoang mang và bị che khuất.
Bà ấy cười – a, như tiếng nhạc! và gật cái đầu nhỏ bé với tôi bằng điệu bộ làm dáng như thăng hoa có thể gây tác động tới tượng thần Vệ Nữ.
“Con người dại dột!” bà ta nói; “Giống như Actæon, ngươi đã có lý trí; cẩn thận đấy, giống như Actæon, ngươi cũng có thể bị chết một cách khốn khổ, bị xé thành từng mảnh bởi bầy chó săn mê muội của chính ngươi. Ta cũng vậy, Holly, là một nữ thần đồng trinh, không đến được với bất kỳ đàn ông nào, trừ một người, và đó không phải ngươi. Lại nói, ngươi đã nhìn đủ rồi chứ!”
“Tôi đã nhìn vào vẻ đẹp này, tôi bị mù rồi,” Tôi nói giọng khàn khàn, nâng tay lên che mắt.
“Vậy sao! Ta đã nói với ngươi gì nhỉ? Vẻ đẹp như tỏa sáng; nó đáng yêu nhưng nó sẽ tàn phá – đặc biệt với cây cối, ôi, Holly!” Bà ta lại gật đầu lần nữa và mỉm cười.
Bỗng nhiên bà ta dừng lại, xuyên qua ngón tay mình, tôi thấy một thay đổi khủng khiếp trên vẻ mặt bà ấy. Đôi mắt to của bà ấy bỗng gắn chặt trong biểu cảm khiếp sợ như vật lộn với hy vọng to lớn đang tăng lên trong sâu thẳm tâm hồn tăm tối của bà. Gương mặt xinh xắn trở nên cứng ngắc, dáng vẻ yểu điệu duyên dáng dường như thẳng đứng.
“Con người kia,” bà ta nửa thì thầm, nửa rít lên, quay đầu lại như một con rắn sắp ra trận – “Con người kia, ngươi có con bọ hung phân scarab trên tay từ đâu? Nói, hoặc ta sẽ giết chết ngươi bằng Linh Hồn của Sự Sống ngay tại chỗ ngươi đứng!” và bà ta bước một bước nhẹ về phía tôi, từ đôi mắt bà ta chiếu ra ánh sáng khủng khiếp – với tôi, nó như ngọn lửa – rồi tôi ngã xuống đó, trên mặt đất trước bà ta, bập bẹ lúng túng trong nỗi sợ hãi.
“Bình tĩnh,” Bà ta nói, bất ngờ thay đổi cách thức, với giọng mềm mại như cũ. “Ta đã làm ngươi sợ! Hãy tha thứ cho ta! Nhưng lúc này, ôi Holly, tâm trí gần như vô hạn trở nên mất kiên nhẫn vì sự chậm chạp của thứ rất hữu hạn, ta bị kích thích sử dụng tới sức mạnh phiền toái – người gần như suýt chết đấy, nhưng ta nhớ rằng – con bọ hung phân scarab – về scarabæus ấy!”
“Tôi đã nhặt được nó,” Tôi ú ớ một cách yếu ớt, khi tôi nhận ra chân mình lần nữa, một thực tế nghiêm trọng là lúc này đầu óc tôi đã bị rối loạn, tôi không nhớ gì về chiếc nhẫn nữa trừ việc tôi nhặt nó lên trong động của Leo.
“Thật kỳ lạ,” bà ta nói bằng giọng đột ngột run rẩy kích động đầy nữ tính, dường như không phải người phụ nữ khủng khiếp lúc nãy – “nhưng ta từng biết một con bọ hung phân scarab như thế. Nó – treo vòng qua cổ - của người ta yêu.” Bà ấy phát ra một tiếng khó nhọc nức nở, cuối cùng tôi thấy bà ấy vẫn chỉ là một phụ nữ, dù có lẽ đã rất già.
“Cái này,” bà ta tiếp tục, “nó đúng là rất giống cái đó, ta chưa bao giờ từng thấy vật nào giống cái đó đến thế, hơn nữa vì từng gắn với một câu chuyện, chàng đeo nó và rất quí trọng nó. [*] Nhưng con bọ hung scarab mà ta biết không được đặt trong khung của một chiếc nhẫn thế này. Giờ hãy đi đi, Holly, đi đi, và nếu có thể, cố quên đi việc ngươi đã ngu ngốc nhìn thấy vẻ đẹp của Ayesha,” rồi quay người về phía tôi, bà ta quăng mình lên giường, vùi mặt vào gối.
[*] Tôi được một nhà Ai Cập học uyên bác và nổi tiếng - người tôi trình lên con bọ hung phân scarab nguyên vẹn rất thú vị và đẹp đẽ này, “suten se Ra” – thông báo rằng ông ta chưa bao giờ thấy vật nào giống như thế. Dù nó mang một danh hiệu thường gắn cho hoàng gia Ai Cập, nhưng ông ấy cho rằng nó không nhất thiết là vỏ đạn của một Pharaoh, mà cũng có thể là ngai vàng hay tên cá nhân của một vương triều đã được ghi lại nào đó. Câu chuyện về con bọ hung scarab cụ thể này là gì, thật không may, giờ chúng ta có thể không bao giờ biết, nhưng tôi hơi nghi ngờ rằng, nó đóng vai trò nào đó trong câu chuyện bi thảm của Công chúa Amenartas và người yêu bà ấy Kallikrates, vị linh mục không giữ lời thề của Isis. – Biên tập viên.
Còn đối với tôi, loạng choạng sau khi gặp bà ấy, tôi không nhớ đã về động của tôi bằng cách nào.

CHƯƠNG 14

Linh hồn trong Địa ngục
Đã gần mười giờ tối, tôi quăng mình xuống giường, và bắt đầu tập hợp những mảnh trí tuệ rải rác lại, ngẫm nghĩ về những gì tôi đã nhìn và nghe thấy. Nhưng càng suy nghĩ, tôi càng khó hiểu. Tôi bị điên, say hay đang mơ, hoặc chăng tôi chỉ là nạn nhân của một trò lừa bịp khổng lồ và công phu nhất? Làm sao mà tôi - một người có lý trí, không phải không quen thuộc với các sự kiện khoa học hàng đầu trong lịch sử, và đến giờ vẫn là một người không tin tuyệt đối và hoàn toàn vào những trò lừa phỉnh, ở châu Âu chúng đến dưới cái tên siêu nhiên – lại có thể tin được trong vài phút trước, tôi đã tham gia trò chuyện với một phụ nữ hai ngàn năm có lẻ tuổi? Điều đó đi ngược lại với thực nghiệm về bản chất tự nhiên con người, tuyệt đối hoàn toàn không thể xảy ra. Đó nhất định là một trò lừa bịp, nhưng nếu là lừa bịp, tôi nên nghĩ gì về nó? Hình ảnh trong nước, hiểu biết kỳ lạ của người phụ nữ về quá khứ xa xưa, và sự thiếu hiểu biết, hay sự thiếu hiểu biết rõ ràng của bà ấy về lịch sử sau này là sao? Vẻ đẹp tuyệt vời và khủng khiếp của bà ấy cũng vậy, là sao? Dù sao đó là một thực tế rõ ràng, ngoài tầm trải nghiệm của nhân loại. Không chỉ đơn thuần là một người phụ nữ trần tục có thể tỏa sáng như siêu nhiên. Về thứ bà ta sở hữu, dù sao về mặt quyền lợi – nó không an toàn cho bất kỳ ai nhìn vào nhan sắc như vậy. Tôi là một kẻ tàn nhẫn trong những vấn đề như vậy, ngoại trừ một trải nghiệm đau khổ thời xuân xanh, tôi luôn cho phụ nữ (đôi khi tôi nghĩ đó là lộn tên) ra ngoài đầu óc. Nhưng giờ đây, với nỗi khiếp sợ mãnh liệt, tôi biết rằng tôi không bao giờ có thể từ bỏ ảo tưởng về đôi mắt lộng lẫy đó; than ôi! Ma lực thực sự của người phụ nữ đó, dù nó làm kinh sợ và bài xích, vẫn lôi cuốn ở mức độ lớn hơn nhiều. Một người trải qua hai nghìn năm trên lưng, chỉ huy những sức mạnh to lớn như vậy, có kiến thức về một bí ẩn giúp thoát khỏi cái chết, chắc chắn đáng giá để yêu, dù đó là bất kỳ phụ nữ nào. Nhưng than ôi! Không phải câu hỏi bà ta có đáng hay không, đến giờ tôi có thể nhận ra, không thành thạo trong những vấn đề này, tôi, một nghiên cứu sinh đại học, được ghi nhận từ thành tích bản thân gọi là ghét phụ nữ, một người đàn ông đáng kính đang tuổi trung niên, đã hoàn toàn rơi vào tình yêu vô vọng với nữ phù thủy da trắng này. Vớ vẩn; thật vớ vẩn! Bà ta rõ ràng đã cảnh báo tôi, còn tôi từ chối tuân theo cảnh báo. Nguyền rủa tính tò mò chết người xui khiến đàn ông lật tấm màn che của phụ nữ, nguyền rủa những kích động tự nhiên gây ra điều đó! Nguyên nhân phân nửa – có lẽ nhiều hơn phân nửa – là bất hạnh của chúng ta. Tại sao đàn ông không thể hài lòng với cuộc sống đơn độc vui vẻ, và cũng để phụ nữ sống đơn độc vui vẻ như thế? Có lẽ họ có thể hạnh phúc, nhưng tôi không chắc chúng ta nên thế. Đây là một trạng thái yêu đương đẹp đẽ. Ở tuổi này, tôi lại trở thành nạn nhân của Nữ Phù Thủy hiện đại này! Nhưng bà ấy không phải người hiện đại, ít nhất bà ấy nói vậy. Bà ấy cổ xưa như Nữ Phù Thủy chính hiệu vậy.
Tôi vò tóc, nhảy khỏi giường, cảm thấy nếu không làm gì đó, tôi sẽ điên đầu mất. Bà ta có ý gì với con bọ hung phân scarabæus?  Đó là scarabæus của Leo, lấy ra từ chiếc rương cũ mà Vincey đã để lại phòng tôi gần hai mươi mốt năm trước. Cuối cùng có thể toàn bộ câu chuyện này là thật, và bản văn tự trên mảnh gốm không phải đồ giả mạo hay một phát minh của bộ óc gàn dở đã bị quên lãng từ lâu nào đó? Nếu vậy, có thể Leo là người đàn ông Bà ấy đang chờ đợi – người đàn ông đã chết được tái sinh lại! Không thể nào! Toàn bộ chuyện này thật nhảm nhí! Ai đã từng nghe nói về một người được sinh ra lần nữa chưa?
Nhưng nếu một phụ nữ có thể tồn tại hai nghìn năm, thì điều đó cũng có thể - bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra. Theo những gì tôi suy diễn, bản thân tôi lại có thể là hóa thân của ai đó đã bị lãng quên, hoặc có lẽ là bản mới nhất của chuỗi dài các tổ tiên của một bản thể nào đó. Phải, vive la guerre! Tại sao không chứ? Chỉ là không may, tôi không có hồi ức về các trạng thái kiếp trước đó. Ý tưởng này vô lý đến mức khiến tôi phá lên cười, nhìn vào bức tranh điêu khắc vẽ một chiến binh dữ tợn trên tường động, hét to với anh ta, “Ai biết được, phải không, nhà nghiên cứu sinh già? – có lẽ tôi là bản hiện đại của anh đấy. Lạy Chúa! Có lẽ tôi là anh và anh là tôi đấy.” Tôi cười nhạo chính sự điên rồ của mình, tiếng cười buồn thảm rung động cả mái vòm, như thể hồn ma người chiến binh làm vang vọng lại hồn ma của tiếng cười.
Sau đó tôi nghĩ rằng tôi chưa xem Leo thế nào, vì thế, cầm một trong những cây đèn đang cháy bên cạnh giường, tôi cởi giày và rón rén đi xuống lối đi nhỏ dẫn vào động cậu ấy đang ngủ. Luồng khí đêm nâng rèm đu đưa nhẹ nhàng, như thể bàn tay có lý trí đang đưa đẩy nó. Tôi luồn vào căn phòng như cái hầm và nhìn quanh. Có chút ánh sáng để tôi có thể nhận ra Leo đang nằm trên giường, lăn lộn không ngừng trong cơn sốt rét, nhưng đã ngủ. Cạnh cậu ấy, nửa nằm trên sàn, nửa dựa vào chiếc giường đá, là Ustane. Cô đang cầm tay cậu ấy, nhưng cũng lơ mơ ngủ, cả hai tạo thành một bức tranh khá thảm hại. Leo khốn khổ! Má cậu ấy bừng đỏ, dưới mắt thâm quầng, hơi thở nặng nề. Cậu đang rất, rất ốm yếu; nỗi sợ hãi khủng khiếp lại xâm chiếm lấy tôi, rằng cậu ấy sắp chết, tôi sẽ bị bỏ lại cô độc trên đời. Còn nếu cậu ấy sống, cậu ấy có lẽ sẽ là đối thủ của tôi trước Ayesha; thậm chí nếu cậu ấy không phải đàn ông, thì có cơ hội nào cho tôi không, một người trung niên xấu xí, đối lập với sự trẻ trung và vẻ đẹp ngời sáng của cậu ấy? Đúng vậy, cảm ơn Thượng Đế! Cảm giác đúng đắn của tôi đã không bị chết đi. Bà ấy vẫn chưa giết được nó; và tôi đứng đó, cầu nguyện Thượng Đế chân thành, xin ngài để con trai tôi, còn hơn cả con trai, sống sót – dù ngài chứng minh được ngài là đàn ông hay không.
Rồi tôi nhẹ nhàng quay về, nhưng tôi vẫn không ngủ được; nhìn và nghĩ về Leo thân yêu ốm yếu nằm đó đã tiếp thêm dầu vào ngọn lửa lo âu trong lòng tôi. Thân thể mệt mỏi và tâm trí quá căng thẳng đánh thức tất cả trí tưởng tượng của tôi một cách vô thức và tự nhiên. Những ý tưởng, cách nhìn, cảm hứng trôi nổi một cách sống động đáng ngạc nhiên. Hầu hết chúng đều kì cục, một số kinh khủng, vài hồi tưởng và cảm giác từ bao nhiêu năm đã bị chôn vùi trong đổ nát của đời tôi. Nhưng, sau và trên tất cả, lượn lờ hình ảnh người phụ nữ kinh khủng đó, lấp lánh ký ức về vẻ đẹp mê hoặc của bà ta. Tôi cứ sải bước lên xuống trong động – lên rồi lại xuống.
Bỗng nhiên tôi quan sát thấy những gì không nhận ra trước đó, có một khe hở hẹp trên tường đá. Tôi cầm đèn kiểm tra nó; khe hở dẫn tới một lối đi nhỏ. Giờ tôi vẫn đủ nhạy cảm để ghi nhớ rằng, chuyện này không hề dễ chịu, giống như một tình huống chúng tôi đã từng rơi vào, có những lối nhỏ chạy tới căn phòng ngủ của người nào đó mà không ai biết là ở đâu. Nếu có những lối nhỏ này, người ta có thể đi theo; họ có thể tới khi người đó đang ngủ. Một phần xem nó dẫn đến đâu, một phần xuất phát từ mong muốn không ngừng thôi thúc làm một điều gì đó, tôi đi theo lối nhỏ đó. Nó dẫn tới một cầu thang đá, tôi đi xuống; cầu thang kết thúc bằng một lối nhỏ khác, hay đúng hơn là một đường hầm, cũng được đào vào khối đá đang nằm, theo tôi thấy, nó chạy đúng chính xác dưới phòng trưng bày dẫn đến lối vào các phòng của chúng tôi, và đi qua hang lớn ở trung tâm. Tôi đi xuống đó: yên lặng như mồ, nhưng vẫn có cảm giác lôi kéo thu hút mà tôi không thể định nghĩa được, đôi chân mang tất của tôi rơi xuống không tiếng động trên nền đá nhẵn mịn. Khi tôi đi qua khoảng năm mươi thước, tôi tới một lối đi khác chạy tới góc phải, ở đó một điều khủng khiếp xảy ra với tôi: làn gió sắc bén vây lấy và thổi tắt đèn, để tôi lại trong bóng tối hoàn toàn giữa lòng nơi bí ẩn này. Tôi đi vài bước tới đường hầm bị chia đôi, sợ hãi vô cùng bị lạc đường khi đi men theo nó trong bóng tối, rồi dừng lại suy nghĩ. Tôi nên làm gì đây? Tôi không có lựa chọn; cố quay lại con đường dài trong bóng tối hoàn toàn dường như là việc đáng sợ, nhưng tôi không thể đứng đây suốt đêm, nếu làm thế, có lẽ cũng không giúp gì cho tôi nhiều lắm, vì trong lòng đá, buổi trưa cũng tối như nửa đêm thôi. Tôi nhìn qua vai – không có dấu hiệu hay âm thanh nào. Tôi chăm chú nhìn vào phía trước trong bóng tối: chắc chắn phía xa tôi thấy gì đó như ánh lửa yếu ớt. Có lẽ đó là động tôi có thể nhận được ánh sáng – dù sao, cũng đáng để điều tra. Tôi rón rén đi dọc đường hầm một cách chậm rãi và đau đớn, giữ tay bám vào tường, cảm thấy mỗi bước chân đặt xuống, nỗi sợ rơi xuống hố lại ít đi. Ba mươi bước – có ánh sáng, ánh sáng rộng đến và đi, chiếu xuyên rèm! Năm mươi bước – nó gần trong tầm tay! Sáu mươi bước – ôi, thiên đường tuyệt vời!
Tôi đứng chỗ tấm rèm, chúng không treo gần, nên tôi có thể thấy rõ cái hang nhỏ bên ngoài. Có vẻ là một ngôi mộ, được chiếu sáng bởi một ngọn lửa ở giữa trung tâm, ánh sáng trắng không khói. Quả thật, ở đó phía bên trái, là một thềm đá có gờ cao khoảng ba inch, trên thềm một thứ đang nằm, tôi nghĩ là xác chết; dù sao cũng giống thế, còn có gì đó màu trắng phủ trên nó. Bên phải cũng tương tự, đặt một số tấm thêu. Trên ngọn lửa, cong cong một hình ảnh phụ nữ; người đó ở phía bên tôi và đối mặt với cái xác, khoác một áo choàng đen để giấu mình như áo choàng của nữ tu. Dường như người đó đang nhìn vào ánh lửa bập bùng. Đột nhiên, khi tôi đang cố nghĩ xem phải làm gì, bằng cơn co giật gây cảm giác khí lực tuyệt vọng, người phụ nữ đứng dậy và bỏ chiếc áo choàng đen khỏi người.
Đó chính là Bà ấy!
Bà ấy mặc chiếc váy dài trắng bó sát như khi tôi thấy lúc bà ấy bỏ che mặt, chiếc váy cắt thấp ngực, buộc con rắn hai đầu bên thắt lưng, và giống như trước đó, mái tóc đen gợn sóng dày nặng nề đổ xuống lưng. Nhưng gương mặt bà ấy – từng hút lấy mắt tôi, giữ chặt tôi – nhưng lúc này không phải bằng sức mạnh của nhan sắc, mà là sức mạnh của vẻ khủng bố lôi cuốn. Vẻ đẹp vẫn thế, thực vậy, nhưng nỗi thống khổ, niềm đam mê mù quáng và thù hận dữ dội bùng lên run rẩy, trong cái nhìn như tra tấn của đôi mắt hếch, vượt quá khả năng mô tả của tôi.
Bà ấy vẫn đứng đó một lúc, tay giơ cao lên đầu, chiếc váy trắng trượt xuống tới thắt lưng vàng, lộ ra vẻ đẹp chói mắt của thân thể. Bà ấy đứng đó, ngón tay nắm chặt, cái nhìn oán ghét khủng khiếp tụ tập và hằn sâu trên gương mặt.
Tôi chợt nghĩ về những gì có thể xảy đến nếu bà ta phát hiện ra tôi, suy nghĩ đó khiến tôi phát ốm và xỉu mất. Nhưng ngay cả khi biết sẽ phải chết nếu dừng lại, tôi cũng không tin mình có thể cử động được nữa, vì tôi đã hoàn toàn bị mê hoặc. Tôi vẫn biết điều nguy hiểm đó. Giả sử bà ta nghe thấy hay nhìn thấy tôi qua tấm rèm, giả sử tôi hắt hơi, hay phép thuật nói cho bà ta biết bà ta đang bị theo dõi – thực sự ngày tàn của tôi đã chóng đến.
Hạ bàn tay nắm chặt xuống bên sườn, rồi lại đưa lên đầu, như tôi là một người đàn ông còn sống và đáng kính, ánh lửa trắng nhảy lên tới mái, ném ánh sáng dữ dội khủng khiếp lên Bà ấy, thân ảnh da trắng dưới lớp phủ, từng cuộn từng cuộn trên tác phẩm bằng đá.
Lại đưa cánh tay trắng ngà xuống, bà ấy nói như rít lên, bằng tiếng Ả Rập, với những lời làm máu tôi đông lại, khiến tim tôi như ngừng đập giây lát.
“Hãy nguyền rủa cô ta, cô ta đáng bị nguyền rủa vĩnh viễn.”
Cánh tay rơi xuống và ánh lửa chìm dần. Rồi chúng lại đi lên, và lưỡi lửa rộng lớn lại bắn lên theo đó; rồi lại rơi xuống.
“Hãy nguyền rủa ký ức của cô ta – ký ức người Ai Cập đáng bị nguyền rủa.”
Lại lên rồi lại xuống.
“Hãy nguyền rủa cô ta, con gái sông Nile, vì vẻ đẹp của cô ta.”
“Hãy nguyền rủa cô ta, vì phép thuật của cô ta đã thắng ta.”
“Hãy nguyền rủa cô ta, vì cô ta đã dành mất người ta yêu.”
Ngọn lửa lại đi xuống và co lại.
Bà ta đưa tay trước mắt, bỏ giọng điệu xì xèo, kêu lớn lên:
“Nguyền rủa để làm gì chứ? – Cô ta đã thắng, cô ta đã biến mất.”
Rồi bà ta lại bắt đầu lại với sức lực đáng sợ hơn:
“Hãy nguyền rủa cô ta, dù cô ta ở đâu. Hãy để những lời nguyền rủa của ta tới nơi cô ta ở và tàn phá sự yên nghỉ của cô ta.”
“Hãy nguyền rủa cô ta xuyên qua mọi trời sao. Hãy để hình bóng cô ta cũng bị nguyền rủa.”
“Hãy để sức mạnh của ta tìm ra cô ta ở đó.”
“Hãy để cô ta nghe thấy ta ở đó. Hãy để cô ta tự trốn trong bóng tối.”
“Hãy để cô ta rơi xuống tận cùng tuyệt vọng, vì một ngày nào đó ta sẽ tìm ra cô ta.”
Ngọn lửa lại đi xuống, bà ta lại dùng tay che mắt.
“Vô dụng – vô dụng,” Bà ta rền rĩ; “Ai có thể chạm tới kẻ đang ngủ chứ? Ta vẫn không thể chạm tới họ.”
Rồi bà ta lại bắt đầu nghi thức xấu xa kia một lần nữa.
“Hãy nguyền rủa cô ta khi cô ta tái sinh. Hãy để cô ta sinh ra trong nguyền rủa.”
“Hãy để cô ta bị nguyền rủa hoàn toàn từ giờ phút sinh ra tới tận khi giấc ngủ tìm đến cô ta.”
“Đúng thế, rồi hãy để cô ta bị nguyền rủa; vì sau đó ta sẽ dùng sự trả thù vượt qua cô ta, phá hủy hoàn toàn cô ta.”
Rồi cứ tiếp tục thế. Ngọn lửa lên rồi xuống, phản chiếu chính nó trong đôi mắt đau đớn của bà ta; âm thanh rền rĩ của lời nguyền đáng sợ, tôi không có lời nào để truyền tải nỗi khủng khiếp của chúng, chúng chạy quanh các bức tường rồi tan biến trong những vang vọng nhỏ, ngọn lửa gay gắt và bóng tối sâu thẳm luân phiên dưới hình hài màu trắng kinh hãi kéo ra trên chiếc quan tài đá.
Nhưng cuối cùng bà ta dường như mệt mỏi rồi dừng lại. Bà ta ngồi xuống nền đá, lắc đám tóc dày đẹp đẽ trên mặt và ngực, bắt đầu khóc nức nở khủng khiếp trong sự tra tấn của nỗi tuyệt vọng đến đau lòng.
“Hai nghìn năm,” bà ta rên rỉ - “hai nghìn năm ta đã khao khát và chịu đựng; nhưng dù thế kỷ lê lết qua thế kỷ, thời gian nhường chỗ thời gian, vết thương trong ký ức không hề giảm đi, ánh sáng hy vọng cũng không rực rỡ hơn. Ôi! Sống hai nghìn năm, toàn bộ đam mê đã ăn mòn trái tim ta, tội lỗi còn hiện diện trước cả ta. Ôi, đối với ta, sự sống không mang theo quên lãng! Ôi, những năm tháng mệt mỏi đã và đang tới, vĩnh viễn sẽ tới, vô tận và không có kết thúc!”
“Tình yêu của ta! Tình yêu của ta! Tình yêu của ta! Tại sao người lạ mang ngươi trở lại cho ta theo cách này? Năm trăm năm qua ta đã không đau khổ như vậy. Ôi, nếu ta lại phạm tội chống lại ngươi, ta sẽ không thể xóa sạch tội lỗi ư? Khi nào ngươi trở lại bên ta, ngươi có tất cả, chứ không phải không có gì? Ta có thể làm gì đây? Làm gì? Làm gì? Làm gì? Không chừng cô ta – không chừng người Ai Cập đó đang ở bên ngươi, và thử thách trí nhớ của ta. Ôi, tại sao ta không thể chết với ngươi, ta đã giết ngươi ư? Than ôi, ta không thể chết! Than ôi! Than ôi!” Bà ấy ném mình lên mặt đất, nức nở khóc tới khi tôi nghĩ trái tim bà ấy phải nổ tan.
Đột nhiên bà ấy dừng lại, đứng dậy, xếp lại chiếc váy, sốt ruột hất những ổ khóa dài, quét qua nơi một thân hình nằm trên đá.
“Ôi, Kallikrates,” bà ta kêu khóc, còn tôi run lên trước cái tên đó, “Ta phải nhìn lại gương mặt ngươi, dù đau đớn. Một thế hệ trôi qua kể từ khi ta nhìn thấy ngươi, người ta đã giết – giết bằng chính tay ta,” với ngón tay run rẩy, bà ấy co người nắm lấy góc tấm phủ từ thân thể trên quan tài đá, rồi dừng lại. Khi bà ấy nói lại lần nữa, trong tiếng thì thầm kinh ngạc, như thể ý tưởng của bà ấy cũng kinh khủng với chính bà ta.
“Ta sẽ nâng ngươi dậy,” bà ta nói, dường như với cái xác, “để ngươi đứng trước ta như cũ chứ? Ta có thể làm điều đó,” bà ta giữ tay vào người chết, trong khi toàn bộ thân hình bà ta trở nên cứng ngắc, trông thật khủng khiếp, còn đôi mắt trở nên bất động và trì độn. Tôi khiếp đảm sau tấm rèm, tóc tôi dựng đứng trên đầu, đó là tưởng tượng hay thực tế, tôi không thể nói, nhưng tôi nghĩ thân thể im lặng trong tấm phủ bắt đầu rung, tấm cuộn nâng lên như thể nó nằm trên ngực một người đang ngủ. Bỗng nhiên bà ta rút tay lại, chuyển động của xác chết dường như ngừng lại.
“Để làm gì chứ?” Bà ta ủ rũ nói. “Có gì hay đâu khi khơi lại những tháng ngày quen thuộc trong đời khi ta không thể triệu hồi được linh hồn? Thậm chí ngươi đứng trước ta, ngươi cũng không thể biết ta, nhưng có thể làm những gì ta bảo ngươi. Sự sống của ngươi sẽ là sự sống của ta, đó không phải là cuộc đời của ngươi, Kallikrates.”
Bà ta đứng đó suy nghĩ một lúc, rồi ngồi xuống bằng đầu gối bên cạnh cơ thể đó, bắt đầu ấn đôi môi vào thân hình kia và khóc. Có gì đó thật khủng khiếp về cảnh người phụ nữ đang gây cảm giác ghê sợ này nới lỏng đam mê bên người chết – khủng khiếp hơn bất kỳ điều gì từng xảy đến trước đây – tôi không thể nhìn nổi nữa, quay đi, tôi bắt đầu bò run rẩy từng bước, chậm chạp theo lối nhỏ tối tăm, cảm thấy trái tim run rẩy như thể tôi đã nhìn thấy một cảnh tượng của Linh Hồn trong Địa Ngục.
Tôi hầu như không biết làm sao tôi bị vấp. Lần thứ hai tôi ngã, khi rẽ sang đoạn đường đôi, nhưng may mắn phát hiện sai lầm đúng lúc. Sau hai mươi phút bò dọc theo đó, cuối cùng tôi đã tới cầu thang nhỏ mà tôi đã trèo xuống. Vì vậy, hoàn toàn kiệt sức và sợ gần chết, cuối cùng tôi lún người xuống sàn đá, chìm vào quên lãng.
Khi tỉnh lại, tôi nhận thấy một tia sáng mờ nhạt trong lối đi ngay sau tôi. Tôi bò về phía đó, thấy đó là cầu thang nhỏ đi xuống mà bình minh yếu ớt đang lấy trộm đi. Đi qua đó, tôi trở về phòng tôi an toàn, ném mình lên giường, ngay sau đó chìm trong giấc ngủ, hay đúng hơn là trạng thái mê man.

Thứ Ba, 5 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 11+12



CHƯƠNG 11

Đồng bằng Kôr
Khoảng một giờ trước khi mặt trời lặn, để tỏ lòng biết ơn vô bờ của tôi, cuối cùng chúng tôi cũng tới vành đai lớn của đầm lầy, khu đất đó phồng lên theo một chuỗi lượn sóng. Ở mặt bên này của đỉnh sóng đầu tiên, chúng tôi dừng lại nghỉ đêm. Hành động đầu tiên của tôi là kiểm tra tình hình của Leo. Tệ hơn buổi sáng, có đặc điểm mới và đau đớn, nôn mửa phát sinh, rồi tiếp tục như thế tới tận sáng. Tôi không chớp mắt được cái nào đêm đó, vì tôi chuyển sang hỗ trợ Ustane, người đang làm một trong những y tá nhẹ nhàng và không biết mệt mỏi nhất tôi từng thấy, chăm sóc Leo và Job. Tuy nhiên không khí ở đây ấm và ôn hòa, không quá nóng, không có muỗi. Chúng tôi cũng ở trên mực sương mù đầm lầy, thứ đang trải dài bên dưới chúng tôi như tấm áo choàng mờ mịt khói trong thành phố, lóe sáng lên đây đó những quả cầu lửa lang thang của đầm lầy. Tương đối mà nói, chúng tôi đang khá thoải mái.
Vào bình minh buổi sáng hôm sau, Leo hoàn toàn choáng váng và tưởng tượng rằng đang bị chia thành hai. Tôi đau khổ kinh hãi, rồi bắt đầu tự hỏi bệnh này sẽ kết thúc bằng loại sợ hãi nào. Than ôi! Tôi đã từng nghe quá nhiều về kết cục nói chung của nó. Khi tôi đang tự dằn vặt, Billali đã tới và nói chúng tôi phải xoay xở, đặc biệt hơn theo ý kiến của ông ta, nếu Leo không tới được nơi để cậu ấy tĩnh dưỡng và điều trị phù hợp, trong vòng mười hai giờ tới, mạng sống của cậu ấy chỉ là vấn đề ngày một ngày hai. Tôi không thể làm gì khác ngoài đồng ý với ông ta, vì vậy chúng tôi đưa Leo lên ổ, và bắt đầu đi tiếp, Ustane đi bộ bên cạnh cậu ấy, không cho ruồi đậu vào, và trông chừng để cậu không rơi xuống đất.
Sau nửa giờ mặt trời lên, chúng tôi đã tới đỉnh gò đất tôi đã kể, và khung cảnh rất đẹp phá vỡ cái nhìn của chúng tôi. Bên dưới chúng tôi trải rộng một miền trù phú, xanh mướt cỏ cây, đáng yêu hoa lá. Trên nền phía xa như tôi có thể thấy, khoảng mười tám dặm từ nơi chúng tôi đứng, một ngọn núi lớn bất thường đột ngột mọc lên trên đồng bằng. Chân của ngọn núi to lớn này như một sườn cỏ dốc, nhưng mọc trên đó, tôi nên nói là dựa vào quan sát tiếp theo, ở độ cao khoảng năm trăm feet trên mặt đồng bằng, là một bức tường đá trọc cực kỳ lớn và dốc, cao khoảng 1200 hay 1500 feet. Hình dáng ngọn núi có nguồn gốc núi lửa này khá tròn, tất nhiên, chỉ một đoạn của vòng tròn nhìn thấy được, thật khó ước lượng kích thước chính xác của nó, vì nó thật khổng lồ. Sau đó tôi phát hiện ra nó bao phủ một vùng đất ít hơn năm mươi dặm vuông. Bất kỳ thứ gì to lớn hơn, oai nghiêm hơn khung cảnh tòa lâu đài tự nhiên hùng vĩ này đang thể hiện, tôi đều chưa bao giờ thấy, và tôi cho là tôi sẽ không bao giờ thấy. Vẻ cô đơn đi cùng sự uy nghi của nó, với những vách đá cao chót vót như hôn lên bầu trời. Thực sự phải nói rằng, chúng đang khoác áo mây, như nằm trong hàng đống xốp xếp thành hàng lũy rộng lớn tầng tầng lớp lớp.
Tôi ngồi trong võng và nhìn ra khắp vùng đồng bằng, trước khung cảnh li kỳ và hùng vĩ này, tôi cho rằng Billali nhận ra điều đó, vì ông ta mang ổ tới kế bên.
“Để ý thấy không, đó là ngôi nhà của ‘Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh’!” ông ta nói. “Có nữ hoàng nào từng có ngai vàng như vậy trước đây không?”
“Thật tuyệt vời, thưa cha,” Tôi trả lời. “Nhưng làm sao chúng ta đi vào được? Những vách đá kia rất khó vượt qua.”
“Ngươi sẽ thấy thôi, Khỉ Đầu Chó à. Giờ hãy nhìn con đường bên dưới chúng ta. Ngươi nghĩ đó là gì? Ngươi là một người thông thái. Nào, hãy nói cho ta đi.”
Tôi nhìn, và thấy thứ dường như là một đường chạy thẳng tới chân núi, dù nó được cỏ bao phủ. Có những bờ cao mỗi bên, bị phá vỡ đây đó, nhưng vẫn khá liên tục, ý nghĩa của nó tôi không hiểu. Có vẻ thật kỳ cục khi ai đó lại đi kè một con đường.
“Vâng, thưa cha,” Tôi trả lời, “Tôi cho rằng đó là một con đường, nói cách khác tôi đang ám chỉ rằng đó là một lòng sông, hay đúng hơn,” tôi nói thêm, quan sát hướng kỳ lạ của đường cắt, “một kênh đào.”
Billali – người giờ đây không còn chút tồi tệ nào vì ngâm mình hôm trước – gật đầu khôn khéo đáp lại.
“Đúng rồi, con trai. Đó là một kênh đào lớn bị cắt ra bởi những người sống trước thời chúng ta ở nơi này để mang nước đi. Ta chắc chắn điều này: trong vòng tròn bằng đá của ngọn núi mà chúng ta sẽ tới kia là một cái hồ lớn. Nhưng những người đã sống trước chúng ta kia, bằng nghệ thuật tuyệt vời mà ta không biết gì về nó nữa, đã đục một con đường cho nước chảy qua đá rắn của ngọn núi, xuyên tới tận lòng hồ. Thoạt tiên họ cắt con kênh đào mà ngươi thấy trên đồng bằng. Sau đó, khi nước cuối cùng đã vỡ ra, nó chạy hối hả xuống con kênh được làm để nhận nước, và chảy qua đồng bằng này tới khi nó đến được vùng đất thấp phía sau sườn dốc, ở đó, không chừng nó đã tạo ra khu đầm lầy mà chúng ta vừa vượt qua. Khi cái hồ cạn nước, những người mà ta nói đã xây một thành phố hùng mạnh trong lòng nó, nơi đó giờ chả còn gì ngoài tro tàn và cái tên Kôr còn lưu lại, từ đời này qua đời khác gọt giũa những hang động và những con đường nhỏ ngươi đang thấy.”
“Có thể,” Tôi trả lời; “nhưng nếu vậy, làm sao cái hồ lại không đầy nước trở lại khi mưa và nước suối đổ xuống?”
“Không, con trai, tộc người đó rất thông thái, họ để một cái cống để giữ nó sạch. Ngươi có nhìn thấy con sông bên phải không?” và ông ấy chỉ về phía dòng suối có kích thước vừa phải uốn như vết thương trên đồng bằng này, cách chúng tôi chừng bốn dặm. “Đó là cái cống, nó đi ra từ vách núi cắt qua. Có lẽ thoạt tiên nước chảy xuống kênh đào này, nhưng sau đó, tộc người đó đã xoay dòng chảy của nó, dùng để cắt thành một con đường.”
“Thế không còn chỗ nào người ta có thể đi vào ngọn núi lớn kia,” tôi hỏi, “ngoại trừ đi qua cái cống đó ư?”
“Có một chỗ,” ông ta trả lời, “nơi gia súc và người đi bộ có thể đi qua mất nhiều sức hơn, nhưng bí mật. Ngươi có tìm cả năm cũng không bao giờ thấy nó. Nó chỉ sử dụng một lần mỗi năm, khi những đàn gia súc đã được vỗ béo trên các sườn núi và trên đồng bằng này, được điều khiển để quay lại không gian bên trong đó.”
Bà ấy luôn luôn sống trong đó ư?” Tôi hỏi, “hay bà ấy tới đây khi chưa có ngọn núi?”
“Không, con trai, nơi bà ấy ở, chính là nơi đây.”
Giờ chúng tôi đang ở trên vùng đồng bằng hùng vĩ, tôi thỏa thích khảo sát vẻ đẹp đa dạng của các loài hoa và cây cối bán nhiệt đới, loài sau sinh trưởng đơn lẻ, hoặc hầu hết đều thành cụm ba hay bốn cây, nhiều cây gỗ có kích thước lớn, thuộc họ sồi luôn tươi xanh. Cũng có rất nhiều cọ, một số cao hơn một trăm feet, những cây dương xỉ lớn nhất và đẹp nhất tôi từng thấy, treo lơ lửng trên mây những con chim hút mật nạm ngọc và bướm cánh lớn. Lang thang giữa cây cối hay thu mình trên thảm cỏ dài như nệm lông là vô số trò chơi của đám tê giác. Tôi nhìn thấy tê giác, bò (một đàn lớn), linh dương châu Phi, lừa vằn, sơn dương đen, loài đẹp nhất trong tất cả các loại sơn dương, không bàn đến nhiều loài giải trí nhỏ hơn, ba con đà điểu tiếp cận phía chúng tôi như vật thể màu trắng trôi dạt trước cơn gió mạnh. Trò chơi phong phú đến mức tôi không thể chịu đựng lâu hơn nữa. Tôi có một khẩu Martini nòng đơn thể thao để trong cái ổ - con “Tàu tốc hành” quá cồng kềnh đó - và thoáng thấy một con linh dương châu Phi béo đẹp đang cọ mình dưới một cây như cây sồi, tôi nhảy ra khỏi cái ổ, bò tới gần nó như tôi có thể. Nó cách tôi khoảng tám mươi thước, quay đầu nhìn tôi, chuẩn bị chạy trốn. Tôi nâng khẩu súng trường, đưa xuống giữa vai, vì con linh dương ở một bên của tôi, rồi bắn. Trong toàn bộ những trải nghiệm nhỏ của mình, tôi chưa bao giờ làm một phát gọn gàng hơn thế hay một cú giết thú đẹp hơn thế, vì con linh dương to lớn nhảy ngay lên không trung và rơi chết. Những người khiêng ổ đang dừng lại xem màn trình diễn, thì thầm kinh ngạc, một lời khen bất thường từ đám người đang ủ rũ, những kẻ dường như không bao giờ ngạc nhiên vì bất kỳ thứ gì, một đám hộ tống ngay sau đó chạy tới xẻ thịt con vật. Với tôi, dù mong muốn nhìn thấy nó, tôi vẫn ung dung bước lại cái ổ như thể tôi đã quen giết linh dương trong đời vậy, cảm thấy bản thân nâng lên vài cấp độ trong ước đoán của người Amahagger, những kẻ nhìn toàn bộ sự việc như một biểu hiện cấp cao của phù thủy. Tuy nhiên thực tế, tôi chưa bao giờ thấy một con linh dương châu Phi trong trạng thái hoang dã trước đây. Billali nhiệt tình đón nhận tôi.
“Tuyệt vời, con trai, Khỉ Đầu Chó à,” ông ta kêu lên; “Thật tuyệt vời! Ngươi là một người rất vĩ đại, dù thật xấu xí. Nếu ta chưa bao giờ thấy, chắc chắn ta không bao giờ có thể tin nổi. Mà ngươi đã nói ngươi sẽ dạy ta cách giết kiểu này đúng không?”
“Chắc chắn rồi, thưa cha,” Tôi nhẹ nhàng nói; “không có gì cả.”
Nhưng cùng lúc đó tôi chắc chắn rằng khi “cha tôi” Billali bắt đầu bắn, tôi sẽ không phải nằm xuống hay trốn sau một cái cây.
Sau chuyện nhỏ đó, không có gì xảy ra cho tới khoảng một giờ rưỡi trước khi mặt trời lặn, khi chúng tôi tới dưới bóng của khối núi lửa cao chót vót mà tôi đã mô tả. Thật khó với tôi để mô tả lại vẻ hùng vĩ nghiệt ngã của nó, trong khi những người kiên nhẫn khiêng tôi đang làm việc vất vả dưới lòng sông cổ, đi về phía chỗ vách đá mang sắc nâu phong phú phi lên từ vực thẳm cho tới khi vương miện của nó mất hút trong mây. Tôi có thể nói nó hầu như làm tôi kinh ngạc vì sức mạnh đơn độc và sự vĩ đại trang trọng của nó. Khi chúng tôi tới bên sườn núi sáng và đầy nắng, rồi bóng tối bò lan dần nuốt chửng vùng tươi sáng từ trên xuống dưới, giờ chúng tôi bắt đầu đi xuyên qua một mảnh cắt đã được đẽo gọt của khối đá sống. Tác phẩm tuyệt vời này càng được đẽo sâu hơn, thì nó phải sử dụng hàng nghìn người làm trong nhiều năm. Quả thật ngày nay tôi không thể tưởng tượng được việc đó từng được làm thế nào khi không có trợ giúp của mìn hay thuốc nổ. Phải có điều gì huyền bí lưu lại trên vùng đất hoang dã này. Tôi chỉ có thể giả định rằng những đường cắt và các hang động to lớn này đã được làm rỗng từ đá là quyết định quốc gia của dân tộc Kôr, những người từng sống ở đây trong thời đại đã biến mất không rõ, giống như các di tích Ai Cập, được thực hiện bởi công sức lao động cưỡng bức từ hàng chục nghìn tù nhân trải qua vô số thế kỷ. Nhưng dân tộc đó là ai?
Cuối cùng chúng tôi đã lên đến bề mặt của vách đá dựng đứng, thấy bản thân đang nhìn vào cửa hầm tối đen, nó nhắc nhở tôi mạnh mẽ về công việc xây dựng đường sắt của các kỹ sư thế kỷ mười chín. Ra khỏi đường hầm là một dòng suối đáng kể đang tuôn chảy. Thực ra, dù tôi không nghĩ tôi đã đề cập đến nó, chúng tôi vẫn đi theo dòng suối này, nó cuối cùng trở thành con sông mà tôi đã mô tả là uốn quanh co phía bên phải, khởi đầu từ nơi đường cắt trong khối đá cứng. Một nửa đường cắt này tạo thành kênh đào cho con suối, và một nửa ở trên cao hơn một chút – có lẽ khoảng tám feet – dành để làm đường. Tuy nhiên cuối đường cắt, dòng suối biến mất trên đồng bằng và đi theo con kênh của chính nó. Tại cửa hang, đoàn người đã dừng lại, trong khi đám đàn ông làm việc trong ánh đèn đất nung họ mang theo, Billali, đi xuống từ cái ổ, lịch sự nhưng kiên quyết thông báo với tôi mệnh lệnh của Bà ấy rằng, bây giờ chúng tôi sẽ bị bịp mắt, để chúng tôi không thể biết được bí mật những con đường xuyên qua lòng núi. Tất nhiên điều đó tôi vui vẻ bằng lòng, nhưng Job giờ đã khá lên nhiều, dù suốt cuộc hành trình không hoàn toàn thích thú, đang tưởng tượng đây là bước đầu tiên để bị đặt chậu nung nóng, tôi nghĩ thế. Tuy nhiên anh ta đã được an ủi một chút khi tôi chỉ ra cho anh ta rằng, không có cái chậu nung nóng nào ở đây, hơn nữa theo tôi biết, không có đống lửa nào để nung nóng chúng. Đối với Leo khốn khổ, sau khi di chuyển không ngừng trong nhiều giờ, với lòng biết ơn sâu sắc của tôi, cậu ấy đã rơi vào giấc ngủ hay đã mê man, tôi cũng không biết nữa, nên không cần phải bịp mắt cậu ấy. Việc bịp mắt được thực hiện bằng cách che một miếng vải lanh vàng mà vài người Amahagger hạ mình mặc đặc biệt trên trang phục của họ, buộc chặt vòng quanh mắt. Sau đó tôi phát hiện ra loại vải lanh này được lấy từ các ngôi mộ, chứ không phải như tôi nghĩ ban đầu, được sản xuất tự nhiên. Chiếc băng sau đó được thắt nút sau đầu, cuối cùng kéo xuống một lần nữa và kết thúc buộc dưới cằm để chống trơn. Ustane cũng bị bịp mắt, tôi không biết tại sao, trừ khi lo sợ cô ấy sẽ truyền những bí mật các con đường cho chúng tôi
Hành động đó đã làm xong, chúng tôi lại bắt đầu đi tiếp, ngay sau đó, theo âm thanh vọng lại của bước chân những người khiêng ổ và tiếng ồn lớn dần của nước dội lại trong không gian kín, tôi biết chúng tôi đang đi trong lòng ngọn núi lớn. Đó là một cảm giác kỳ lạ, sinh ra từ trái tim chết chóc của đá, chúng tôi không biết đi đâu nhưng tôi đã từng có cảm giác kỳ lạ kiểu này, nên giờ cũng chuẩn bị thật tốt cho một điều gì đó. Tôi vẫn nằm im như vậy, lắng nghe tiếng bước chân, bước chân của những người khiêng và mang vác, cùng sự hối hả của nước, cố tin tôi đang giải trí. Hiện giờ đám người đang hát một điệu ca nhỏ u sầu mà tôi từng nghe đêm đầu tiên bị bắt ở thuyền cá voi, hiệu ứng sinh ra từ chất giọng của họ rất gây tò mò và khó tả. Một lúc sau, không khí bắt đầu trở nên cực kỳ dày và nặng, thực vậy, tôi cảm thấy như thể tôi sắp nghẹt thở, tới khi cái ổ quay đột ngột, rồi lại rẽ một lần nữa và một lần nữa, âm thanh nước chảy đã ngừng lại. Sau đó không khí tươi mới trở lại, nhưng các ngã rẽ vẫn tiếp tục, với tôi, bị bịp mắt nhưng lại thật ngạc nhiên. Tôi cố giữ bản đồ về chúng trong đầu để khi cần thiết chúng tôi có thể thử trốn thoát bằng con đường này, nhưng không cần nói, đã hoàn toàn thất bại. Sau nửa giờ nữa trôi qua như vậy, bỗng nhiên tôi nhận ra chúng tôi lại ở trong không khí thông thoáng một lần nữa. Tôi có thể thấy ánh sáng xuyên qua dải băng và cảm nhận được sự tươi mát của nó trên mặt. Vài phút sau, đoàn người dừng lại, tôi nghe thấy Billali ra lệnh Ustane gỡ bỏ băng của cô ấy và tới làm thế cho chúng tôi. Không đợi cô ấy, tôi tháo lỏng nút thắt của mình và nhìn ra ngoài.
Như tôi dự đoán, chúng tôi đã đi xuyên qua vách núi, giờ đang ở sườn núi xa hơn, ngay dưới mặt xiên đứng của nó. Thứ đầu tiên tôi nhận ra là vách núi gần như không quá cao ở đây, không quá cao mà tôi nói là khoảng năm trăm feet, cho thấy đó là lòng hồ, hay đúng hơn là miệng núi lửa cổ xưa rộng lớn mà chúng tôi đang đứng, được nhiều lớp đồng bằng bao quanh. Phần còn lại, chúng tôi tự thấy đang trong cái bát cực lớn bao bằng đá, không giống nơi đầu tiên chúng tôi lưu trú, kích thước lớn hơn khoảng mười lần. Thực vậy, tôi chỉ có thể cau mày trước những vách đá đối diện. Phần lớn của mảnh đồng bằng này được thiên nhiên bao bọc lại để canh tác, có hàng rào với những bức tường đá để giữ hàng đàn lớn gia súc và dê không đột nhập phá vườn cây. Đây đó những gò cỏ lớn nhô lên, vài dặm về phía trung tâm, tôi nghĩ tôi có thể thấy đại cương tình trạng các phế tích khổng lồ. Tôi không có thời gian quan sát thêm nữa lúc này, vì chúng tôi ngay lập tức bị những đám đông người Amahagger bao quanh, tương tự như những gì đặc biệt với họ mà chúng tôi đã quen thuộc, dù họ nói một chút, ép quanh chúng tôi để vào gần hơn như che đi tầm nhìn một người đang nằm trên võng. Rồi đột ngột một số người có vũ trang bố trí trong đám người, do các quan chức cầm đôi đũa ngà trong tay sắp đặt, chạy nhanh về phía chúng tôi, thật khó có thể tưởng tượng ra, trên bề mặt vách núi, như kiến chui ra khỏi hang. Những người đàn ông này cũng như các quan chức kia, đều mặc áo choàng da báo như thường lệ, theo tôi thấy, tạo thành đội vệ sĩ của Bà ấy.
Thủ lĩnh của họ đi tới chỗ Billali, chào ông ta bằng cách đặt cây đũa ngà ngang trên trán ông ấy, rồi hỏi câu gì đó tôi không nghe thấy, Billali trả lời anh ta, toàn bộ đội quân quay lại và đi dọc theo vách đá, đoàn người của chúng tôi cùng những chiếc ổ đi theo họ. Sau khi đi cùng khoảng nửa dặm, chúng tôi dừng trước cửa một hang động cực lớn, cao khoảng sáu mươi feet rộng tám mươi, ở đó Billali cuối cùng cũng đi xuống, yêu cầu Job và tôi làm theo. Leo tất nhiên quá ốm yếu để có thể làm bất kỳ việc gì. Tôi làm vậy, rồi chúng tôi đi vào trong cái hang to lớn này, nơi ánh sáng mặt trời thâm nhập được vào một đoạn dài, khi vượt ra ngoài tầm của ánh sáng ban ngày, nó được chiếu sáng yếu ớt bằng đèn, với tôi điều đó có vẻ nhằm trải ra khoảng cách gần như vô hạn, giống những chiếc đèn khí trên đường phố London trống trải. Thứ đầu tiên tôi thấy là những bức tường phủ đầy trạm trổ bức phù điêu, một dạng kể chuyện bằng tranh, tương tự như những gì tôi đã mô tả trên những chiếc bình và lọ; chủ yếu là cảnh yêu đương, rồi tranh săn bắn, tranh các vụ hành quyết, và tra tấn tội phạm có lẽ bằng cách đặt cái chậu nóng đỏ lên đầu, cho thấy chủ nhân của chúng tôi đã trích dẫn từ thực tiễn thú vị. Có rất ít cảnh chiến đấu, dù nhiều người trong cuộc đấu, đàn ông chạy và đấu vật, từ đó dẫn đến việc tôi tin rằng dân tộc này không chịu nhiều tấn công từ kẻ thù bên ngoài, có lẽ do sự cô lập về vị trí của họ hoặc vì sức khỏe phi thường của họ. Giữa những bức tranh là các cột ký tự bằng đá theo tạo hình hoàn toàn mới mẻ với tôi; chúng không phải là tiếng Hy Lạp cũng không phải tiếng Ai Cập, không phải Do Thái, không phải Assyria – tôi chắc chắn vậy. Chúng trông giống văn tự Trung Hoa hơn bất kỳ ngôn ngữ nào tôi quen biết. Gần lối vào hang, cả tranh vẽ và văn tự đều đã mòn đi nhưng nhiều trường hợp vẫn hoàn toàn tươi mới và hoàn hảo như ngày nhà điêu khắc dừng làm việc đó.
Đội lính canh không đi xa quá lối vào hang, nơi họ tạo hình để chúng tôi đi qua. Tuy nhiên lúc vào trong nơi đó, chúng tôi gặp một người đàn ông mặc áo choàng trắng, cúi đầu khiêm tốn, nhưng không nói gì, vì có lẽ anh ta là người câm điếc, không phải chuyện quá thú vị.
Chạy vuông góc với hang động lớn, ở khoảng cách chừng hai mươi feet từ lối vào, là một cái hang nhỏ hơn hay một phòng trưng bày rộng rãi, khoét vào hai bên khối đá, cả trái và phải của hang chính. Trước phòng trưng bày bên trái chúng tôi có hai người canh gác đang đứng, với hoàn cảnh này tôi cho rằng đó là lối vào các phòng của chính Bà ấy. Cửa phòng trưng bày bên tay phải không ai canh giữ, dọc theo nó người câm ra hiệu chúng tôi đi. Đi bộ chừng vài thước theo lối này, với những ngọn đèn chiếu sáng, chúng tôi tới lối vào của một căn phòng có màn cỏ, bề ngoài không khác cái chiếu Zanzibar, đang treo lơ lửng trên cửa ra vào. Lúc này người câm đi giật lùi với sự tôn kính sâu sắc, dẫn ra con đường vào một căn phòng cỡ vừa, tất nhiên được đục sâu vào đá vững chắc, nhưng theo quan điểm của tôi, đó là một trục đào sâu vào mặt vách đá. Trong phòng là một chiếc giường đá, các chậu đầy nước để gội rửa, và những tấm da báo rám nắng đẹp đẽ làm chăn.
Chúng tôi đã để lại Leo ở đó, cậu vẫn đang ngủ nặng nhọc, Ustane dừng ở đó với cậu ấy. Tôi thấy người câm nhìn cô ấy sắc bén, như thể đang nói, “Cô là ai, cô tới đây theo lệnh của ai?” Rồi anh ta dẫn chúng tôi tới căn phòng khác tương tự nơi Job ở, rồi tới hai phòng nữa tương đương dành cho Billali và tôi.

CHƯƠNG 12

“Bà ấy”
Mối quan tâm đầu tiên của Job và tôi, sau khi đi thăm Leo, là tắm rửa và làm sạch quần áo, vì những gì chúng tôi đang mặc không đổi kể từ khi mất con tàu lớn. Thật may mắn, như tôi đã nói, phần lớn hành lý cá nhân của chúng tôi đã được đóng gói lên thuyền cá voi, do đó đều được cứu vớt – được những người khiêng ổ mang theo - dù toàn bộ đồ dự trữ đặt tại chỗ chúng tôi để trao đổi và làm quà tặng cho người bản xứ đã mất hết. Gần như tất cả quần áo của chúng tôi đều làm từ chất liệu nỉ mỏng xám đậm, co dãn tốt và tôi thấy thật tuyệt hảo khi dùng để du hành tới những nơi thế này, vì dù là chiếc jacket Norfolk, áo sơ mi hay quần dài chỉ nặng khoảng bốn pound, một điều vô cùng đáng cân nhắc ở đất nước nhiệt đới nơi mỗi ounce phát sinh thêm đều tiết lộ với người mặc, chất liệu này ấm áp và cung cấp sức đề kháng chống lại tia mặt trời rất tốt, tính năng tốt nhất là khi trời lạnh, nó có xu hướng điều chỉnh để thích nghi với thay đổi nhiệt độ đột ngột.
Tôi sẽ không bao giờ quên được sự thoải mái của chiếc bàn chải “cọ và rửa” cùng những đồ bằng nỉ sạch sẽ. Thứ duy nhất tôi muốn để hoàn thành trọn vẹn niềm vui của mình là một bánh xà phòng, nhưng chúng tôi đã không có cái nào.
Sau đó tôi phát hiện ra rằng người Amahagger, những người không tin có bụi bẩn – một trong nhiều phẩm chất khó chịu của họ - sử dụng một loại đất nung cháy để tắm rửa, dù không vui vẻ để có thể quen thuộc với nó, nhưng nó đã thành công thay thế xà phòng.
Lúc tôi đã mặc quần áo, chải đầu, tỉa bớt bộ lông đen, hoàn cảnh trước đây chắn chắn đủ bù xù khiến Billali gọi tôi là “Khỉ Đầu Chó”, tôi bắt đầu cảm thấy đói bất thường. Thế là không có cách nào, tôi hối hận khi không cất lời cảnh báo hay âm thanh chuẩn bị dù nhỏ nhất, tấm màn trước cửa ra vào hang của tôi đã bị vén lên một bên, một người câm khác, lúc này là một cô gái trẻ, thông báo cho tôi bằng những dấu ra hiệu mà tôi không thể hiểu sai được – bằng cách mở miệng và chỉ xuống đó, rằng – có thứ để ăn. Theo đó tôi đi cùng cô ấy tới căn phòng kế tiếp mà chúng tôi chưa được đi vào, nơi đó tôi thấy Job, người cũng đang rất xấu hổ, được một người câm xinh đẹp dẫn đường. Job không bao giờ vượt qua được những hành vi tiến bộ mà người phụ nữ trước đã làm với anh ta, nên nghi ngờ mọi cô gái đến gần mình với kiểu cách tương tự.
“Những đương sự trẻ tuổi này có cách nhìn người, thưa ngài,” anh ta nói với vẻ xin lỗi, “mà tôi không thể gọi là đáng kính.”
Phòng này gấp đôi kích thước những hang để ngủ, tôi thấy ngay rằng nó vốn ban đầu là một phòng ăn, cũng có thể là một phòng ướp xác cho Các Linh Mục của Thần Chết; vì tôi có thể nói ngay rằng những cái hang rỗng ruột này không có gì hơn kém các hầm mộ rộng lớn, nơi này hàng chục thế kỉ qua hài cốt còn lưu lại dấu vết chủng tộc vĩ đại bị tuyệt chủng, di tích của họ còn bao quanh chúng tôi thoạt tiên đã được giữ gìn bằng nghệ thuật và sự trọn vẹn không bao giờ so sánh được, rồi bị che dấu đi theo năm tháng. Mỗi bên của căn phòng đá đặc biệt này là một bàn đá dài vững chắc, rộng khoảng ba feet cao ba feet sáu, đục sâu vào khối đá sống – thứ đã hình thành nên một phần và vẫn gắn vào kiến trúc chung. Những cái bàn này hơi rỗng và cong vào trong, khiến cho đầu gối của bất kỳ ai ngồi trên phiến đá cắt thành băng ghế dọc theo cạnh hang đều ở cách khoảng hai feet so với bàn. Mỗi chiếc bàn cũng được sắp xếp để nằm ngay dưới trục đâm vào vách đá để hứng ánh sáng và không khí. Tuy nhiên khi quan sát chúng tỷ mỉ, tôi thấy có sự khác biệt giữa chúng – điều thoạt tiên đã thoát được khỏi sự chú ý của tôi – tức là, một trong những cái bàn phía bên trái khi chúng tôi đi vào động, rõ ràng đã từng được sử dụng, không phải để ăn, mà để ướp xác. Câu hỏi cho trường hợp này đến từ năm vết lõm không sâu lắm trên mặt đá của chiếc bàn, giống hình người, có nơi riêng để đầu nằm vào, một cầu nhỏ trợ lực cho cổ, mỗi vết lõm có kích thước khác nhau, đều phù hợp với những cơ quan khác nhau mang tầm vóc từ một người trưởng thành tới một trẻ nhỏ, có những hố nhỏ được khoan thành nhịp để lấy dịch. Thực vậy, nếu cần thêm những xác nhận khác nữa, chúng tôi sẽ phải nhìn lên tường hang động để tìm kiếm. Nơi đó, được trạm trổ quanh căn phòng, trông tươi mới như lúc nó vừa làm xong, là cách diễn tả bằng tranh về cái chết, ướp xác, chôn cất của một ông già với bộ râu dài, có lẽ là một vị vua cổ xưa hoặc một quí tộc của đất nước này.
Bức tranh đầu tiên mô tả cái chết của ông ta. Ông ta nằm trên một chiếc giường có bốn cột ngắn cong ở góc dẫn tới một gò ở cuối, hiện ra thứ giống như ghi chú văn tự âm nhạc, rõ ràng đang lúc tắt thở. Tập trung xung quanh giường là phụ nữ và trẻ em đang khóc lóc, những người già hơn có mái tóc treo xuống lưng. Cảnh tiếp theo mô tả việc ướp xác cơ thể kia, nó nằm ngay đơ trên một cái bàn có những vết lõm, tương tự như cái trước mặt chúng tôi; quả thực có lẽ đó là bức tranh về cùng một cái bàn. Ba người đàn ông làm việc này – một người giám thị, một người cầm cái phễu giống như bộ lọc rượu porto mà phần cuối hẹp được cố định vào vết mổ ở ngực, không nghi ngờ gì đó chính là động mạnh lớn ở ngực; còn người thứ ba, được miêu tả như đang đứng dang hai chân trên cái xác, cầm một loại bình lớn giơ cao trong tay, và rót ra từ đó một chất lỏng bốc khói chính xác vào cái phễu. Phần tò mò nhất của tác phẩm điêu khắc này là cả hai người đàn ông – người cầm phễu và người rót chất lỏng – đều bịp mũi họ, tôi cũng cho là vì mùi hôi thối sinh ra từ cái xác, hoặc chắc chắn hơn cả là để tránh hương thơm của chất lỏng nóng đang bị cưỡng chế đưa vào tĩnh mạch người chết. Thứ gây tò mò khác mà tôi không thể giải thích là cả ba người đàn ông đều có một băng vải lanh buộc chặt quanh khuôn mặt với hai cái lỗ cho đôi mắt.
Bức điêu khắc thứ ba là hình vẽ lễ chôn cất của người chết. Ông ta ở đó, cứng và lạnh, mặc áo choàng bằng vải lanh, nằm trên một phiến đá như tôi ngủ ở chỗ lưu trú đầu tiên. Tại đầu và chân ông ta những cây đèn được thắp sáng, bên cạnh ông ta đặt vài bình vẽ rất đẹp như tôi đã mô tả, có lẽ đó là qui định đầy đủ. Căn phòng nhỏ đông đúc người đưa tang, các nghệ sĩ chơi nhạc cụ giống như đàn lyre, trong khi đó gần chân xác chết một người đàn ông đang đứng cầm tờ giấy và đang chuẩn bị nhìn vào nó.
Những tác phẩm điêu khắc này, nhìn chỉ như những tác phẩm nghệ thuật, đáng chú ý tôi cảm thấy tiếc là mô tả không đầy đủ. Chúng thu hút tôi nhờ sự quan tâm quá mức việc miêu tả, có lẽ với độ chính xác đáng học hỏi, những nghi lễ cuối cùng của người chết thực tế từ một dân tộc đã hoàn toàn biến mất, thậm chí sau đó tôi đã nghĩ vài người bạn sưu tầm đồ cổ ở Cambridge có lẽ sẽ ghen tị biết bao nếu tôi có cơ hội mô tả những di tích tuyệt vời này cho họ. Có lẽ họ sẽ nói rằng tôi phóng đại, dù cho mỗi trang sử này phải chịu làm chứng nội bộ quá nhiều cho sự thật của nó, đó là những thứ mà tôi hoàn toàn không thể sáng tạo ra.
Quay trở lại. Ngay khi tôi vội vã khảo sát những tác phẩm điêu khắc - mà tôi cho là đã quên đề cập đến, chúng đều được chạm nổi - chúng tôi cũng ngồi xuống với một bữa ăn rất tuyệt gồm thịt dê luộc, sữa tươi, bánh từ bột xay thô, toàn bộ được phục vụ bằng những đĩa gỗ sạch sẽ.
Ăn xong, chúng tôi trở lại xem Leo thế nào, Billali nói rằng ông ta giờ phải đợi Bà ấy, để nghe lệnh của bà ấy. Tới phòng Leo, chúng tôi thấy chàng trai khốn khổ trong tình trạng rất tệ. Cậu ấy đã tỉnh dậy sau khi hôn mê, đang phát điên, lảm nhảm về cuộc đua thuyền trên khu Cam, và có xu hướng bạo lực. Thực tế, khi chúng tôi đi vào phòng, Ustane đang giữ cậu ấy bình tĩnh. Tôi nói chuyện với cậu, giọng của tôi dường như xoa dịu cậu; cậu trở nên yên tĩnh hơn nhiều, và bị thuyết phục nuốt một liều ký ninh.
Tôi ngồi với cậu ấy có lẽ khoảng một giờ - tôi biết mọi chuyện đang trở nên tăm tối tới mức tôi chỉ có thể nhận ra cái đầu của cậu ấy đang nằm như tia sáng vàng lóe lên trên gối, chúng tôi đã nói chuyện với một cái túi phủ chăn – đột nhiên Billali đến với khí thế rất quan trọng, thông báo với tôi rằng Bà ấy đã chiếu cố tới và bày tỏ mong muốn gặp tôi – một vinh dự, ông ta nói thêm, dành cho rất ít người. Tôi nghĩ ông ấy hơi kinh hoảng với cách lấy danh dự điềm tĩnh của tôi, nhưng thực tế tôi không cảm thấy choáng ngợp cùng biết ơn trước viễn cảnh sẽ gặp một nữ hoàng man rợ, tối tăm nào đó, dù bà ta có lẽ là người chuyên chế và bí ẩn, đặc biệt khi tâm trí tôi đầy hình ảnh của Leo thân yêu, vì tôi bắt đầu cực kỳ sợ hãi lo lắng cho sinh mệnh cậu ấy. Tuy vậy, tôi vẫn đứng lên đi theo ông ấy, khi đi tôi bắt gặp vật gì đó sáng lên trên sàn, tôi nhặt lấy. Có lẽ độc giả sẽ nhớ ra, cùng với mảnh gốm trong quan tài là một hợp chất từ con bọ hung phân scarab được đánh dấu bằng một chữ O tròn, con ngỗng cái, và chữ tượng hình gây tò mò khác có nghĩa là “Suten se Ra” hay “Con Trai Thần Mặt Trời”. Con bọ hung phân scarab là một vật rất nhỏ, Leo đã nài nỉ bỏ nó vào trong một chiếc nhẫn vàng lớn, nói chung dùng để đóng dấu, thực ra đó là chiếc nhẫn tôi vừa nhặt lên. Cậu ấy mang theo nó trong thời gian bộc phát bệnh sốt rét, tôi cho là thế, rồi ném nó xuống sàn đá. Nghĩ là nếu tôi bỏ lại có thể nó sẽ bị mất, tôi nhét nó vào ngón tay nhỏ của tôi, rồi đi theo Billali, để Job và Ustane lại với Leo.
Chúng tôi đi theo con đường nhỏ, băng qua hang động lớn như lối đi, rồi tới đoạn đường tương ứng bên kia, ở cửa người gác đứng như hai pho tượng. Khi chúng tôi đến, họ cúi đầu chào, rồi nâng cây giáo dài lên ngang trán, giống các thủ lĩnh đội quân gặp chúng tôi trước đó đã làm vậy bằng những cây đũa ngà. Chúng tôi bước theo họ, và thấy chính mình trong căn phòng trưng bày tương tự dẫn tới các phòng của chúng tôi, chỉ có đoạn này là sáng rực rỡ, tương đối mà nói là vậy. Vài bước đi xuống chúng tôi gặp bốn người câm – hai đàn ông và hai phụ nữ - đang cúi thấp đầu và rồi sắp xếp trật tự, phụ nữ đi trước còn đàn ông đi sau chúng tôi, theo thứ tự này chúng tôi tiếp tục đi qua vài cửa treo rèm giống như đang tới chỗ của chính chúng tôi, sau đó tôi thấy mở ra những căn phòng người câm chăm sóc Bà ấy đang chiếm giữ. Thêm vài bước nữa, chúng tôi đi đến một cái cửa khác đối diện, không để chúng tôi lại như những người khác, nó dường như đánh dấu đoạn đường đã kết thúc. Ở đây có hai người canh gác mặc áo choàng trắng hơn, hay đúng ra là vàng, đang đứng, họ cũng cúi đầu, rồi để chúng tôi đi qua những tấm rèm nặng nề vào trong một tiền sảnh rất lớn, dài khoảng bốn mươi feet và rất rộng, trong đó khoảng tám đến mười phụ nữ, hầu hết đều trẻ trung xinh đẹp với mái tóc vàng, ngồi trên đệm làm việc với kim ngà voi trên một thứ có vẻ bề ngoài như những khung thêu. Những phụ nữ này cũng câm điếc. Phía cuối xa hơn của căn phòng thắp đèn sáng rực rỡ này là một cái cửa khác đóng kín bằng những tấm rèm phương Đông nặng nề, hoàn toàn không giống những tấm rèm treo cửa của những căn phòng chúng tôi ở, ở đó hai cô gái câm đặc biệt xinh đẹp đang đứng, đầu cúi xuống tới ngực và tay đưa ra với thái độ khiêm tốn. Khi chúng tôi tiến đến, mỗi người họ đều dang tay vén rèm. Liền sau đó Billali làm một việc rất gây tò mò. Ông ta cúi xuống, quí ông đáng kính đó – vì Billali cuối cùng cũng là một quí ông – đi xuống bằng tay và đầu gối, trong tư thế không đàng hoàng này, bộ râu trắng dài của ông kéo lết trên mặt đất, ông ta bắt đầu bò vào trong căn phòng. Tôi đi theo ông ta, vẫn đứng trên đôi chân mình trong bộ dáng bình thường. Nhìn qua vai, ông ta cảm nhận ra điều đó.
“Quì xuống, con trai; quì xuống, Khỉ Đầu Chó; hãy đi bằng tay và đầu gối ngươi. Chúng ta đang đi vào nơi hiện diện của Bà ấy, và nếu ngươi không khiêm tốn, chắc chắn bà ta sẽ làm tan nát cái ngươi dùng để đứng.”
Tôi dừng lại và thấy sợ hãi. Thực vậy, đầu gối tôi bắt đầu đưa ra cách chuyển động của riêng chúng; nhưng lời khiển trách lại tới giúp tôi. Tôi là một người Anh, tôi tự hỏi, tại sao tôi lại phải bò vào nơi hiện diện của một phụ nữ hoang dã nào đó như thể tôi là một con khỉ trong thực tế cũng như trong cái tên? Tôi không muốn và cũng không thể làm vậy, trừ khi tôi hoàn toàn chắc chắn mạng sống của tôi hay tiện nghi của tôi đang phụ thuộc vào điều đó. Nếu một khi tôi đã bò bằng đầu gối, tôi sẽ luôn luôn phải làm vậy, đó là thừa nhận công khai sự thấp kém. Vì thế, kiên định với thành kiến hẹp hòi chống lại “khúm núm quì lạy”, cách thức đối xử nói chung chúng tôi cho là thành kiến, tôi mạnh dạn bước theo sau Billali. Tôi thấy trong một căn phòng khác, tương đối nhỏ hơn đại sảnh, trên tường treo những tấm rèm rất phong phú cùng kiểu với rèm trên cửa ra vào, như tôi sau đó phát hiện ra, là tác phẩm của những người câm ngồi ở đại sảnh thêu trên các tấm vải, sau đó được khâu lại với nhau. Đây đó trong phòng, là những chiếc trường kỷ bằng gỗ đen đẹp đẽ thuộc họ gỗ mun, khảm ngà voi, khắp nơi trên sàn là những tấm thảm trang trí, hay tấm mền. Ở góc cuối căn phòng dường như là một chỗ lõm, cũng được phủ rèm, ánh sáng xuyên qua đó. Không có ai chỗ này ngoài chúng tôi.
Ông già Billali bò lên theo chiều dài hang một cách khổ sở và chậm chạp, cùng với sải chân nghiêm trang nhất mà tôi có thể ra lệnh đi theo sau ông ấy. Nhưng tôi cảm thấy ít nhiều thất bại. Ban đầu, không thể trang nghiêm khi bạn đang đi theo sau nghi lễ tiến cung của một ông già đang quằn quại cái bụng như con rắn, rồi để đi đủ chậm rãi, tôi cũng phải giữ chân vài giây trên không trung mỗi bước, hoặc nếu không, phải đi lên bằng cách dừng lại một chút giữa mỗi sải bước, giống Nữ Hoàng Mary của Scotland trong vở kịch. Billali không bò giỏi lắm. Tôi cho rằng tuổi tác của ông chỉ chịu được như vậy, và việc đi tới căn phòng kia là một chuyện rất dài. Tôi ngay lập tức ở phía sau ông ấy, vài lần tôi kích động muốn giúp ông ấy bằng cách đá cho một cú. Thật không hợp lệ khi tiến vào nơi hiện diện của hoàng gia hoang dã theo kiểu một người Ailen kéo con lợn ra chợ, vì chúng tôi trông giống như vậy, ý tưởng này gần như làm tôi bật cười sau đó. Tôi phải tránh đi nguy hiểm từ kiểu vui vẻ khó coi cho mình bằng cách thổi cái mũi, hành động đó khiến Billali già nua kinh sợ, ông ấy nhìn qua vai và giương gương mặt như ma quỉ nhìn tôi, tôi nghe ông ta lẩm bẩm, “Ôi, Khỉ Đầu Chó khốn khổ của ta!”
Cuối cùng chúng tôi đã đến chỗ tấm rèm, ở đó Billali sụp xuống thẳng bụng, hai tay giang rộng phía trước như thể đã chết, còn tôi, không biết phải làm gì, bắt đầu nhìn chằm chằm vào nơi đó. Nhưng hiện tai tôi rõ ràng cảm thấy ai đó đang nhìn tôi từ sau rèm. Tôi không thể nhìn thấy người, nhưng có thể cảm nhận rõ rệt cái nhìn của ông ta hay bà ta, và hơn thế, nó sinh ra một tác động kỳ lạ lên thần kinh của tôi. Tôi sợ hãi, tôi không biết tại sao. Nơi này thật kỳ lạ, thực thế, trông đơn độc, dù màn treo phong phú và ánh đèn mềm mại – quả thật, những phụ kiện thêm vào chỉ càng làm xấu thêm sự cô độc của nó, giống con phố sáng đèn trong đêm tối luôn có vẻ cô đơn hơn con phố tối om. Thật im lặng, Billali nằm đó như người chết trước tấm rèm nặng nề, dù mùi nước hoa dường như đang tỏa vào bóng tối mái vòm phía trên. Từng phút lại từng phút trôi qua, vẫn không có dấu hiệu nào của sự sống, rèm cũng không động; nhưng tôi cảm thấy cái nhìn vô danh kia vẫn thấm xuyên qua tôi, làm tôi tràn ngập nỗi sợ hãi không tên, cho tới khi mồ hôi thành hạt trên trán tôi.
Cuối cùng rèm bắt đầu chuyển động. Ai phía sau đó? – Một nữ hoàng hoang dã ở trần, một vẻ đẹp phương Đông đang héo mòn, hay một phụ nữ trẻ của thế kỷ mười chín, đang uống trà chiều? Tôi không có ý tưởng nhỏ nhất nào, không ngạc nhiên nếu thấy một trong ba kiểu đó. Tôi đã ngạc nhiên nhiều rồi. Tấm rèm đu đưa một chút, rồi bỗng nhiên giữa những nếp gấp của nó xuất hiện bàn tay trắng tuyệt đẹp (trắng như tuyết), với những ngón thon dài, kết thúc trong những móng hồng hào. Bàn tay nắm lấy rèm, kéo nó sang một bên, và tôi nghe thấy một giọng nói, tôi nghĩ đó là giọng nói mềm mại nhất và lóng lánh như bạc mà tôi từng nghe. Nó gợi tôi nghĩ về lời thì thầm của dòng suối nhỏ.
“Người lạ,” giọng nói bằng tiếng Ả Rập cất lên, nhưng đó là thứ tiếng Ả Rập trong hơn và cổ xưa hơn rất nhiều so với người Amahagger nói – “người lạ, sao ngươi sợ hãi vậy?”
Giờ tôi phải tự nịnh hót bản thân bất chấp nỗi sợ hãi bên trong, tôi ra lệnh rất hài hòa cho vẻ mặt mình, thế nên, hơi ngạc nhiên trước câu hỏi này. Trước khi tôi quyết định phải trả lời thế nào, tấm rèm đã vén hẳn lên, một bóng dáng cao cao đứng trước mặt chúng tôi. Tôi nói một bóng dáng, vì không chỉ cơ thể, mà cả gương mặt cũng được bọc trong vật chất màu trắng mỏng mềm mại theo cách này, lần đầu tiên nhìn thấy gợi tôi buộc phải liên tưởng tới một xác chết trong tấm vải liệm. Tôi không biết tại sao tôi có ý tưởng này, khi thấy những tấm vải bọc mỏng tới mức ai cũng có thể nhìn rõ màu thịt hồng hào bên dưới chúng. Tôi cho rằng đó là cách chúng được sắp xếp, thật ngẫu nhiên, hay đúng hơn là được thiết kế. Dù sao đi nữa, tôi cảm thấy sợ hãi kiểu xuất hiện như ma này hơn bao giờ hết, tóc tôi bắt đầu dựng ngược trên da đầu, khi một cảm giác len lỏi trong tôi, rằng thật không khôn ngoan khi tôi đang hiện diện ở đây, trước một thứ gì đó. Tuy nhiên, tôi rõ ràng có thể phân biệt hình dáng như xác ướp quấn đầy khăn trước mắt tôi là của một phụ nữ cao ráo đáng yêu, bản năng với vẻ đẹp tới từng phân tấc, duyên dáng yểu điệu như rắn, mà tôi trước đây chưa bao giờ thấy thứ gì có thể sánh được. Khi bà ấy đưa tay chân, toàn bộ khung người bà ấy như uốn lượn, cổ không bị gập, nó cong cong.
“Tại sao ngươi sợ hãi đến vậy, người lạ?” giọng nói ngọt ngào lại hỏi lại – giọng nói như chạm vào tận tim gan, giống như suối nhạc êm đềm nhất. “Có phải chính ta làm ngươi sợ hãi? Thế thì chắc chắn con người đều đã thay đổi so với những gì họ từng tồn tại!” Với hành động làm dáng một chút, bà ấy quay đi, giơ một tay lên, như cho thấy toàn bộ vẻ đẹp của bà và mái tóc dày đen nhánh tuôn xuống thành gợn sóng mềm mại trên áo choàng trắng như tuyết, gần tới bàn chân đi dép của bà.
“Chính vẻ đẹp của người khiến tôi sợ hãi, thưa Nữ Hoàng,” tôi khiêm tốn trả lời, hầu như không biết nói gì, tôi nghĩ tôi cũng từng thế khi nghe ông già Billali, người vẫn đang nằm phủ phục trên sàn nhà lẩm bẩm, “Tốt, Khỉ Đầu Chó à, tốt.”
“Ta thấy đàn ông vẫn biết cách lừa gạt phụ nữ chúng ta bằng cách dùng từ sai. Ôi, người lạ,” bà ta trả lời, với một nụ cười như chuông bạc xa xăm, “ngươi sợ hãi vì mắt ta đã nhìn ra lòng ngươi, vì thế ngươi sợ hãi. Tuy nhiên là một phụ nữ, ta tha thứ cho lời nói dối đó, vì nó được nói một cách lịch thiệp. Giờ hãy nói cho ta, làm thế nào các ngươi đến được mảnh đất của cư dân trong hang động này – mảnh đất toàn đầm lầy, những thứ ma quỉ và bóng dáng già cỗi chết chóc của tử thần? Ngươi đến để thấy điều gì? Làm sao ngươi giữ được mạng sống rẻ mạt như khi đặt nó vào bàn tay trống rỗng của Hiya, trong tay của ‘Bà ấy – người các ngươi phải tuân lệnh’? Cũng nói cả cho ta làm sao ngươi biết ngôn ngữ ta đang nói. Đó là một ngôn ngữ cổ xưa, đứa con ngọt ngào của tiếng Syria cổ. Nó vẫn còn tồn tại trên đời này sao? Ngươi thấy đấy ta sống giữa các hang động và người chết, ta không biết gì về việc của con người cả, ta cũng không quan tâm đến việc phải biết thứ gì. Ta vẫn sống, người lạ ạ, bằng ký ức của ta, ký ức của ta đang trong nấm mồ chính tay ta đào xới, vì sự thật người ta nói rằng đứa con của loài người đã tự biến mình thành ác quỉ;” giọng nói đẹp đẽ của bà ấy run rẩy, phá vỡ chú ý nhẹ nhàng như một chú chim rừng. Đột nhiên mắt bà ấy rơi trên khung người rực rỡ của Billali, và bà dường như hồi tưởng lại chính mình.
“À! Ngươi lại đây, người già. Hãy nói cho ta chuyện xảy ra thế nào trong hộ gia đình của ngươi. Đúng ra, dường như các vị khách của ta đã tạo ra những chuyện đó. Ôi, một đêm bị giết bằng chậu nung nóng và bị đám súc vật ăn thịt, các con của ngươi, không chiến đấu anh dũng họ cũng bị giết, ta không thể gọi sự sống trở lại khi nó đã thoát ra khỏi cơ thể. Điều đó có ý nghĩa gì, người già? Những gì ngươi phải nói là ta không nên trao cho ngươi những kẻ ta muốn báo thù ư?”
Giọng bà ta vút lên giận dữ, nó vang lên rõ ràng và lạnh lùng trước những bức tường đá. Tôi nghĩ tôi có thể thấy đôi mắt bà lóe sáng xuyên qua đống băng gạc che dấu chúng. Tôi nhìn Billali khốn khổ, người tôi đã tin là một người không biết sợ hãi, giờ đang run rẩy kinh hoảng trước những lời của bà ấy.
“Ôi ‘Hiya’! Ôi Bà ấy!” ông ta nói, không ngẩng cái đầu bạc trắng khỏi mặt sàn. “Ôi Bà ấy, xin người vĩ đại xót thương, vì ta giờ đây như người đầy tớ tuân lệnh người. Đó không phải là kế hoạch hay lỗi của ta, ôi Bà ấy, đó là những kẻ xấu xa, đám con của ta. Cầm đầu bởi một phụ nữ bị vị khách Con Lợn khinh miệt, họ theo phong tục cổ xưa của vùng đất, ăn thịt người lạ da đen to béo đi cùng những vị khách này, Khỉ Đầu Chó và Sư Tử đang bị ốm, cho rằng không có lời nào từ người về tên Da Đen. Nhưng khi Khỉ Đầu Chó và Sư Tử nhìn thấy những gì họ muốn làm, họ đã giết người phụ nữ, và cũng giết người đầy tớ của họ để cứu anh ta khỏi sự kinh hoàng từ cái chậu. Sau đó những kẻ xấu xa đó, ôi, những đứa con của kẻ Hung Ác sống trong Cái Hố, chúng phát điên vì thèm khát máu, bay về phía cổ họng của Sư Tử, Khỉ Đầu Chó và Lợn. Nhưng họ đã chiến đấu dũng cảm. Ôi, Hiya! Họ đã chiến đấu như những người đàn ông thực sự, giết chết nhiều người, và bảo vệ chính họ, rồi ta trở về và cứu họ, những kẻ làm điều xấu xa kia ta đã gửi tới Kôr để người vĩ đại phán xử, ôi Bà ấy! giờ chúng đang ở đây rồi.”
“Ôi, người già, ta biết, ngày mai ta sẽ ngồi trong khán phòng lớn để xử tội chúng, đừng sợ. Còn với ngươi, ta tha thứ cho ngươi, dù lẽ ra không thể. Hãy trông nom hộ gia đình của ngươi tốt hơn vào. Đi đi.”
Billali nhô đầu gối dậy với vẻ vui mừng ngạc nhiên, cúi đầu ba lần, chòm râu trắng quét đất, và bò xuống căn phòng như khi ông ấy bò lên, cho đến khi ông ta cuối cùng biến mất qua tấm rèm, bỏ lại tôi, không một lời cảnh báo, đơn độc với người khủng khiếp nhưng cực kỳ hấp dẫn này.

(Theo SHE-the history of adventure của H. Rider Haggard
Dịch bởi: Cheryl Pham)

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...