Chủ Nhật, 18 tháng 6, 2017

Giá trị sống (6)



Giá trị của sự sống

Nếu bạn có tiền và muốn cứu rỗi các sinh mạng, tốt hơn hết bạn nên đặt giá cho mỗi sinh mạng. Scott Alexander giải thích điều này tốt hơn tôi.
Nhưng đừng nhầm lẫn giá cả của sự sống với giá trị của sự sống. Tôi thấy việc đó xảy ra quá thường xuyên. Để sửa lỗi này, tôi sẽ kể cho bạn một câu chuyện nhỏ.

*
*   *
Ngày xửa ngày xưa, có một ngôi làng toàn người bất tử sống rất ôn hòa. Họ dường như không bao giờ đi qua tuổi thanh xuân, nhưng vẫn có thể chết vì đói khát hoặc thương tật. Có lẽ vì cuộc sống của họ quá lâu dài và đầy đủ, họ đều đánh giá cao nhau và chung sống hòa bình. Quả thực, không có nơi nào mà dân làng không thể tới để cứu ai đó trong số họ khỏi hủy diệt ngoài mong đợi.

Chí ít đó là cuộc sống trước khi con rồng xuất hiện.

Loài rồng chỉ khao khát hai thứ từ con người, chắc bạn đã biết: vàng và thịt. Khốn khổ thay cho dân làng, con rồng này thực sự vô cùng mạnh – gần như bất khả chiến bại, lại xảo quyệt. Con rồng có khả năng dễ dàng giết toàn bộ dân làng tức thì này đưa ra một tối hậu thư trâng tráo:
Hằng năm, mỗi người dân trong làng phải nộp thuế bằng vàng, lượng vàng này tỷ lệ với số tuổi của người đó. Ai không trả đủ thuế sẽ bị ăn thịt.

Dân làng nài nỉ van cầu, họ khóc lóc rồi giận dữ, nhưng con rồng chẳng nhúc nhích. Nó chỉ cho họ thấy mấy đống đá có vẻ giống những mỏ vàng lớn và bảo họ làm việc.

Dân làng cố hết sức. Họ làm việc thực sự. Họ không phải là thợ mỏ, nhưng họ học rất nhanh. Họ lao động rách rưới, ném đá, đào đất bằng bàn tay trần cho tới khi những ngón tay chảy máu, đi săn bắn hái lượm càng ít càng tốt, để nơi trú ngụ của mình hư hỏng đi – may ra họ có thể không phải nộp thuế cho rồng. Cuối năm, con rồng trở lại, lấy toàn bộ số vàng họ có và mười người dân già nhất (vì từ bỏ những người già nhất là cách để cứu được nhiều người nhất).

Bị dồn vào thế cùng quẫn, dân làng quyết tâm cố gắng chăm chỉ hơn nữa trong thời gian tới. Họ căng mình làm hết khả năng và còn hơn thế nữa. Họ chạy đua với thời gian. Họ trở nên hốc hác và rách rưới. Đôi mắt họ chùng xuống, da họ xám xịt, cánh tay họ gầy nhẳng. Họ tự thúc mình làm việc quá vất vả, cho tới khi họ ngã xuống trong các hầm mỏ. Lần sau, khi con rồng tới, nó lấy đi toàn bộ số vàng và 50 người.

Chiến lược này của họ không hiệu quả.

Nhưng dân làng sinh ra thuộc loài người, mà khéo léo là đặc tính di truyền của loài người. Vì thế vào năm thứ ba, những người làng còn sống sót cảm thấy cay đắng với hoàn cảnh này, bèn quyết định phải đi săn bắn hái lượm và trở nên mạnh hơn, chấp nhận việc họ phải tự chăm sóc mình trước khi có thể chăm sóc bạn bè đồng loại. Họ bắt đầu làm cuốc và xẻng, vì nhận ra không thể tự cứu mình chỉ bằng đôi bàn tay trần.

Cuối năm thứ ba, con rồng tới lấy toàn bộ vàng và 100 người, vì lúc này cơ sở hạ tầng chưa bắt đầu sinh lợi cho họ.

Nhưng vào cuối năm thứ tư, con rồng chỉ còn lấy đi 2 người.

Rất nhanh sau đó, con rồng (rất vui mừng vì sự tiến bộ của họ) đã thông báo với dân làng rằng từ giờ thuế bắt đầu tăng nhanh hơn, theo cấp số nhân.
Lúc này, dân làng chỉ gật đầu, và rèn luyện để cơn nóng giận của mình dần trở nên lạnh lẽo.

Rồi rất nhiều, rất nhiều năm qua đi kể từ khi con rồng đến ngôi làng. Thực ra đó không còn là một ngôi làng nữa: ngôi làng đã phát triển thành một thành phố, rồi thành phố phát triển thành một đất nước văn minh.

Dân số bây giờ trẻ hơn. Người trưởng thành đã khôn ngoan hơn và năng suất hơn, nên có thể thu được nhiều vàng hơn từ đất mỗi giờ, nhưng đơn giản sẽ tới thời điểm năng suất gia tăng này không còn đáng giá bằng chi phí cho sự sống. Khi thời điểm đó đến, những người già sẽ tự nguyện cho đi sinh mạng mình, vì họ không thuộc tuýp người muốn mua sự sống của mình bằng cái giá của hai người khác.

Trên thực tế, việc cân bằng nhọc nhằn như thế rất phổ biến. Từ lâu dân làng đã khám phá ra sự chuyên môn hóa và làm kinh tế, giờ đây hầu hết mọi người không còn làm việc trong các hầm mỏ nữa. Một số dành thời gian nuôi trồng và chuẩn bị thức ăn, số khác dành thời gian bảo trì nơi trú ngụ, số khác nữa dành thời gian sáng tạo những công cụ và phương pháp mới có thể theo kịp tốc độ tăng thuế khủng khiếp của rồng. Một số lại dành cuộc đời cho nghệ thuật và giải trí – vì dân làng đã học được tầm quan trọng của việc duy trì động lực và tinh thần.
(Còn một số dân làng, ở sâu dưới lòng đất, xa tầm mắt con rồng, đang thiết kế vũ khí.)

Vì thế, bạn sẽ thấy trong xã hội văn minh này, có những người cống hiến cuộc đời không phải để đào vàng, mà viết sách – nhưng nếu bạn nhìn gần hơn, bạn sẽ nhận ra việc đó chỉ xảy ra khi vị tác giả kia có thể cứu rỗi được nhiều sinh mạng hơn nếu vị đó làm việc trực tiếp trong hầm mỏ nhờ làm tăng tinh thần và năng suất của mọi người. Do đó, song song với việc cứu rỗi được ngày càng nhiều sinh mạng mỗi năm, nền văn minh này vẫn sản xuất sách vở, sân khấu và phim ảnh.

Điều ấy có nghĩa là trong thời hiện đại, bạn có thể tính ra chi phí chính xác để cứu rỗi thêm một sinh mạng. Nó cho thấy, một sinh mạng có cùng mức giá với một nghìn vé xem phim.

Khi điều đó xảy ra, hai công dân trong thế giới bị rồng áp bức này, Alice và Bob, đã có cuộc trò chuyện về giá trị sống, ngay lúc này. Hãy lắng nghe nào:

Alice: Cậu thấy đấy, giá trị thực sự của một sinh mạng tương đương với khoảng một nghìn lượt xem bộ phim bom tấn mới nhất.
Bob: Vớ vẩn! Một sự sống đáng giá hơn nhiều so với hai ngàn giờ xem phim! Sự sống là vô giá! Cậu không thể đặt giá cho một đời người!
Alice: Rõ ràng thế còn gì! Nếu cậu hành động không nhất quán với việc định giá sự sống, nhất định cậu sẽ bị lẫn lộn tiền bạc nếu muốn cứu rỗi thêm nhiều sinh mạng hơn nữa. Nếu cậu muốn cứu được càng nhiều người càng tốt với chỉ một số lượng tiền hữu hạn, cậu buộc phải đặt giá cho sự sống!
Bob: Nhưng một ngàn lượt xem một bộ phim chỉ đơn giản là không đáng giá bằng một cuộc đời! Nếu tôi phải chọn giữa một ngàn lượt người xem một bộ phim bom tấn và sự sống của mẹ tôi, tất nhiên tôi sẽ chọn sự sống của mẹ tôi dù chỉ một ngày!
Alice: Phải, nhưng trực giác kiểu này không phù hợp. Thị trường sinh mạng ở đây đang hiệu quả, và thị trường nói rằng, một sinh mạng tương đương với khoảng một ngàn lượt xem bộ phim bom tấn mới nhất. Sự sống của mẹ cậu không giá trị hơn niềm vui tích lũy từ một ngàn người trải qua khi xem bộ phim bom tấn mới nhất! Trải nghiệm xem phim và sự sống của mẹ cậu đã trở thành có cùng giá trị, và nếu trực giác của cậu không chấp nhận điều này, cậu sẽ phải sửa nó!

Bạn có nhìn ra sai lầm ở đây không?
Alice và Bob, cả hai vừa đúng, lại vừa sai.

Alice đúng vì dân làng buộc phải đối xử với một sinh mạng tương đương với vài nghìn giờ xem phim. Do toàn bộ dân làng vẫn đang cố cứu nhau, nên một nghìn người này sẽ chỉ đi xem phim nếu việc đó tạo ra thêm động lực và tinh thần để họ tạo thêm lượng của cải đủ để cứu thêm một người nữa. Nếu bạn buộc những người này ngừng đi xem phim, thay vào đó đưa số tiền này của họ vào sản xuất vàng thì toàn bộ lượng vàng được sản xuất ra sẽ ít hơn, vì thế sẽ có nhiều người bị ăn thịt hơn. Bob phải cân bằng giữa hai nghìn giờ xem phim và một sinh mạng, nếu cậu ấy muốn tối đa hóa số lượng sinh mạng được cứu sống.

Nhưng Bob cũng đúng khi nói giá trị một cuộc đời còn lớn hơn nhiều so với hai nghìn giờ xem phim!
Lời của Alice được hiểu là tổng toàn bộ trải nghiệm của hai nghìn giờ xem phim bằng với giá trị thực sự của một đời người. Thị trường đã nói thế, và bạn không được phản đối nếu muốn cứu mạng mọi người.
Nhưng thực tế, lý do Bob phải đối xử với hàng ngàn lượt xem phim giống như với một sinh mạng là vì việc xem phim này làm tăng tinh thần, từ đó thêm một mạng người được cứu. Thực tế này không đánh đồng trải nghiệm của một đời người với niềm vui khi đi xem phim.

Alice đã quên mất việc ngôi làng đang bị con rồng quấy nhiễu.
Nếu không vì con rồng, những người dân làng này có thể làm bất kỳ việc gì để cứu nhau thoát khỏi những cái chết không mong muốn. Có lẽ cũng có lúc họ không thể làm gì được để cứu một người bạn, cái giá mà họ không thể trả nổi tính bằng đau khổ, muộn phiền và chất lượng sống giảm đi trong phần còn lại của dân làng. Nhưng khi không có con rồng, chi phí này còn cao hơn nhiều so với hai nghìn giờ xem phim.
*
*   *
Suy luận hoàn toàn tương tự. Giờ hãy nhìn vào thế giới của chúng ta. Nền kinh tế của chúng ta không hiệu quả - tốn vài triệu đô la để cứu một sinh mạng ở các quốc gia phát triển, và tốn vài nghìn đô la để cứu một sinh mạng ở các quốc gia đang phát triển (nơi việc “cứu mạng” thật ra chỉ có nghĩa là “đẩy cái chết lui lại một chút” trong những thời khắc đen tối). Hơn nữa, nền kinh tế của chúng ta không tối đa hóa vì sự sống của nhân loại: con người dễ phải đương đầu với sự vô cảm và bị xoay vần trong những thành kiến làm nản chí nguyện quan tâm tới việc người khác có chết theo ý nguyện hay không. Hơn thế, không chỉ quan tâm tới những sinh mạng chúng ta cứu được, mà quan trọng là phải quan tâm tới những sinh mạng đang sống.
Bất chấp điều đó, chúng ta không phải hoàn toàn khác những người dân làng kia ở cách chúng ta có thể làm để cứu lẫn nhau nếu cái chết không hẳn là không thể tránh được.

Tôi không biết tương lai sẽ ra sao. Tôi không biết làm thế nào chúng ta cân bằng giữa bảo vệ sự sống, cải thiện sự sống và tạo ra sự sống, nếu chúng ta vượt qua được giai đoạn khan hiếm này. Nhưng tôi có thể nói với bạn điều này: Rồi sẽ tới một ngày loài người có thể phá tan cả nghìn mặt trời chỉ để cứu một cái chết bất hợp lý nào đó.
Đó là giá trị của sự sống.

Bạn vẫn phải đặt giá cho các sinh mạng, cái giá đó vẫn phải nằm đâu đó từ vài ngàn đô đến vài triệu đô.

Hãy tưởng tượng ra một nút bấm, nếu nhấn vào, sẽ chọn ra một số ngẫu nhiên trong khoảng từ 1 tới một triệu. Nếu số đó là 1, nó sẽ giết chết một người được lựa chọn ngẫu nhiên. Ai đó sẽ phải trả cho bạn bao nhiêu tiền để ấn cái nút đó?
Nhiều người phản ứng bằng sự ghê tởm, nói rằng họ sẽ không ấn cái nút kiểu đó dù được trả bất cứ giá nào. Họ bảo rằng giá trị của sự sống lớn không thể tưởng tượng được.
Và trực giác này là chính xác!

Nhưng nếu ai đó đưa bạn 10 đô la để ấn nút, thế thì cứ ấn đi. Hãy ấn đi, và hãy lo lắng – nhưng sự lo lắng này còn ít ỏi hơn nhiều so với việc bạn lo lắng khi lái xe trên đường trong một năm (theo tính toán, xác suất là 1 trên mười nghìn cơ hội để giết chết ai đó mỗi năm đổi lấy thuận tiện khi lái xe). Nếu bạn muốn cứu mạng nhiều người nhất, thế thì bạn cứ ấn cái nút đó với 10 đô la, rồi lấy tiền đó để cứu mạng người khác.

Nhưng đừng nhầm lẫn giữa chi phí cho sự sống và giá trị của sự sống!

Vài nơi trên thế giới, phải mất ít nhất vài ngàn đô để cứu một mạng người. Nếu bạn hành động khiến giá của sinh mạng cao hơn vài ngàn đô kia, nếu bạn thực sự từ chối một triệu đô để ấn cái nút kia hay trả một tỷ đô để cứu một cuộc đời nào đó, thế thì bạn phải làm nhiều thứ khác mới mong cứu được thêm các sinh mạng. Nếu bạn muốn cứu nhiều người nhất, bạn phải định giá cho mỗi sự sống theo chi phí thực tế để cứu được một sinh mạng.

Nhưng bạn đừng có lẫn lộn giữa chi phí hiện tại để cứu một sinh mạng và giá trị thực sự của sinh mạng đó.

Có một khoảng trống ở đây. Khoảng trống giữa một sinh mạng thực sự đáng giá bao nhiêu và cái giá cả mà bạn phải gán cho nó. Khoảng trống không tồn tại nếu trực giác của bạn đang sai lầm. Khoảng trống sẽ ở đó vì ngôi làng của chúng ta đang bị một con rồng xấu xa hành hạ.

Khoảng trống đó là thước đo trực tiếp sự khác biệt giữa thế giới vốn có đang hiện hữu và thế giới mà nó nên hiện hữu.

Chênh lệch giá cả, chênh lệch giữa vài ngàn đô và vài ngàn mặt trời, là thước đo trực tiếp xem mọi thứ đang bị đảo lộn đến mức nào.

Đa số mọi người có trực giác rằng họ nên từ chối ấn nút với bất cứ giá nào, vì sự sống là vô giá. Bạn có thể tới bên những người này, chỉ cho họ thấy muốn cứu được càng nhiều người càng tốt với một số tiền nhất định, thì họ phải đặt giá cho mỗi sinh mạng. Lúc đó, đa số sẽ hành động theo một trong hai cách.

Một số đồng ý logic này và từ bỏ trực giác của họ. Họ thấy rằng để cứu được nhiều người nhất có thể, họ phải cần tới một cái giá. Thật mâu thuẫn khi nói niềm vui của vài triệu người khi uống rượu cũng tương đương với giá trị của một sinh mạng, nhưng (họ nghĩ) lý luận kiểu khiến người ta nghĩ sự sống là vô giá đúng là một quan niệm sai lầm chết người. Vì thế, muốn cứu càng nhiều người trong phạm vi số tiền được phân bổ, họ phải “cắn viên đạn chì” (bite the bullet: nghĩa là can đảm chịu đựng, đối mặt với nghịch cảnh), và đi đến kết luận rằng sự sống không hề có giá trị nhiều như tưởng tượng.

Còn số khác không chấp nhận logic này, và tiếp tục tuyên bố rằng cuộc sống là vô giá, rồi cố sao lưu trực giác của họ thành những phiên bản đạo đức kì lạ, vì cứu được càng nhiều người càng tốt với một số tiền nhất định không phải là việc đúng đắn cần làm, mà lý do thì rất phức tạp.

Nhưng còn một lựa chọn thứ ba nữa! Tất cả mọi người dường như đã quên mất con rồng!
Có thể sống trong thế giới này, dù bạn có thấy (1) sự sống là vô giá, hay (2) con người bị tiêu diệt liên tục, trái với ý muốn của họ, theo những cách thức có thể tránh được nếu biết sử dụng một khoản tiền tương đối nhỏ.
Thế giới vốn không công bằng! Ấn nút với 10 đô la là cách cứu được nhiều sinh mạng nhất, nhưng thực tế này là việc kinh khủng. Mạng sống là vô giá, nhưng bạn phải đối xử với nó như thể nó chỉ đáng giá vài ngàn đô.
Khoảng cách giữa giá cả và giá trị kiểu này là không thể chấp nhận được, nhưng các qui luật vật lý vốn không được viết theo cách chúng ta có thể chấp nhận được. Chúng ta đang sống trong một vũ trụ lạnh lẽo, thiếu lòng trắc ẩn; một vũ trụ nằm ngoài tầm với của Chúa Trời.
Một ngày nào đó, chúng ta có lẽ sẽ giết được lũ rồng đã hành hạ chúng ta. Một ngày nào đó, chúng ta – giống như dân làng thuở ban đầu – có thể thấy xa xỉ khi làm mọi cách để ngăn trí tuệ có tri giác của đồng loại thoát khỏi việc bị kết án là vô cảm một cách không tự nguyện. Nếu chúng ta làm được như vậy, giá trị của sự sống sẽ không được đo bằng đô la, mà bằng những vì sao.

Đó là giá trị sống. Nó sẽ là giá trị sống, và giờ đang là giá trị sống.

Thế nên, khi ai đó đưa 10 đô la để ấn cái nút đó, bạn cứ ấn đi. Bạn cứ ấn cái nút chết tiệt đó. Đó là chiến lược tốt nhất có sẵn ngay cho bạn; đó là cách duy nhất cứu được nhiều người nhất mà bạn có thể làm. Nhưng đừng quên rằng thực tế này lại là một bi kịch khủng khiếp.

Đừng bao giờ quên khoảng cách giữa chi phí cho một sinh mạng nhỏ đến mức nào và giá trị của một sinh mạng lớn đến mức nào. Vì khoảng cách đó là bóng tối trong vũ trụ này, nó là thước đo xem chúng ta đã đi được bao xa.

Tôi không muốn biến vấn đề này thành bài giảng. Nhưng vài người trong số các bạn sẽ thấy vực thẳm khổng lồ giữa chi phí và giá trị ngay từ đầu, họ có lẽ sẽ quyết định ngay rằng khoảng cách này cần phải đóng lại, rằng lũ rồng đáng phải bị tiêu diệt. Một số sẽ băn khoăn, thế thì sao? Chuyện gì tiếp theo đây? Phần cuối câu chuyện là dành cho bạn.

Nhớ rằng vẫn có người trong chúng ta đang chiến đấu.

Một số làm việc trong hầm mỏ để nộp thuế cho con rồng. Một số khác chuẩn bị cho ngày chúng ta phải đối đầu với con rồng – vì vũ khí chúng ta trang bị phải thật mạnh, điều này rõ ràng không hề dễ.

Đó là cuộc chiến mà bạn có thể tham gia. Với vài người, chiến đấu là theo trào lưu thức thời nhất. Nhưng với đa số, chiến đấu có nghĩa là đặt giá thấp cho sinh mạng, rồi tôn vinh nó – bằng cách mua lại sinh mạng ở nơi nó có giá rẻ nhất; bằng cách hy sinh cho những mục tiêu có hiệu quả cao. Nhớ rằng, giống như lòng dũng cảm là làm điều đúng đắn ngay cả khi bạn sợ hãi, sự quan tâm là làm điều đúng đắn ngay cả khi bạn không bị cảm xúc làm cho choáng ngợp.

Nếu đây là cuộc chiến bạn muốn tham gia, thì tôi khuyên bạn hãy ghi nhớ bài học đầu tiên dân làng lĩnh hội được: bạn phải quan tâm tới bản thân trước khi quan tâm tới người khác. Bạn không cần phải trở nên khốn khổ để đấu tranh chống lại bóng tối trong vũ trụ này. Bất cứ số tiền hay công sức nhỏ bé nào bạn dành để cứu rỗi sự sống đều là tiền bạc và công sức được sử dụng tốt đẹp. Cam kết 10% thu nhập cho một mục tiêu hiệu quả đã là một thành tựu khó khăn và rất đáng khen ngợi rồi.

Nếu bạn đứng bên cạnh chúng tôi trong cuộc chiến này, thì tôi luôn chào đón bạn, dù chuyện gì đi chăng nữa – nhưng tôi muốn bạn tham gia với sự giận dữ hoặc cái đầu lạnh lẽo, chứ không phải cảm giác tội lỗi hay xấu hổ.

“Ôi, Thần Chết không bao giờ là kẻ thù của chúng ta!
Chúng ta cười đùa với hắn, chúng ta hợp tác với hắn, ông bạn già.
Không có chiến binh nào bị mua chuộc chống lại quyền năng của hắn.
Chúng ta cười đùa, vì hiểu rằng những người tốt hơn sẽ tới,
Và những cuộc chiến lớn hơn; khi mỗi đấu sĩ tự hào khoe khoang
Những cuộc chiến với Thần Chết, vì sự sống; chứ không phải với con người, vì cờ xí.”
-          Trích đoạn cuối cùng trong The Next War của Wilfred Owen

Nate Soares
Theo mindingourway.com

Thứ Bảy, 17 tháng 6, 2017

Giá trị sống (5)



Phép tính giá trị của sự sống

Giả sử bạn là một EMT (Emergency Medical Technician – Chuyên viên cấp cứu y tế). Bạn tới hiện trường một vụ tai nạn và thấy hai đứa trẻ cần CPR (Cardiopulmonary Resuscitation – Hồi sức tim phổi): bé gái 10 tuổi và em gái 3 tháng tuổi. Bạn chỉ có thể cứu được một trong hai đứa. Bạn sẽ cứu ai?

Có một cách để ra quyết định là sử dụng tiêu chuẩn QALY (Quality – adjusted life year: tiêu chuẩn số năm sống được điều chỉnh theo chất lượng). Nhà kinh tế học Christopher Cundell và Carlos McCartney đã thiết kế ra QALY năm 1956, rồi các hệ thống chăm sóc sức khỏe sử dụng nó ngày càng nhiều kể từ đó để đánh giá chi phí và lợi ích của nhiều biện pháp can thiệp y tế khác nhau. Tiêu chuẩn này lấy số năm còn lại mà một người được kỳ vọng có thể sống được trong điều kiện sức khỏe hoàn hảo và nhân với 1; nhưng nếu người đó có thể bị tàn tật thì phải nhân với một số nhỏ hơn 1. Trong tình huống này, khi những yếu tố khác đều như nhau thì cách tính toán như thế có thể dẫn tới việc bạn cứu mạng em bé 3 tháng tuổi. Nhưng theo Justin Landy, nghiên cứu sinh tại Đại học Pennsylvania, người đã thực hiện nghiên cứu về cách chúng ta đánh giá các sinh mạng khác nhau, tiêu chuẩn QALY có lẽ không nắm bắt chính xác trực giác thông thường của chúng ta.

Kết luận của Landy được đưa ra trong bài trình bày tại hội nghị thường niên của Hiệp Hội Triết học và Tâm Lý học, sau đó xuất hiện trên Tạp chí “Tâm Lý học thực nghiệm: Tổng quát”. Landy và cố vấn Geoffrey Goodwin khám phá ra chúng ta so sánh các giá trị tương đối của sự sống như thế nào – và tại sao chúng ta có thể làm vậy, bất chấp việc thường xuyên bày tỏ rằng mọi sinh mạng đều có giá trị như nhau. Trong những tình huống khẩn cấp, các bác sĩ và nhân viên cứu hộ thường xuyên phải lựa chọn khi chỉ cứu được một số người trong số nhiều người. Nghiên cứu về chứng rối loạn tập trung của người bệnh Alzheimer cho biết các tổ chức cũng thường xuyên chia sẻ kinh phí cho người trẻ hơn là người già. Đặc biệt, Landy và Goodwin tập trung vào cách tuổi tác ảnh hưởng tới đánh giá của chúng ta về sự sống.

Trong ba thí nghiệm đầu tiên, những người Mỹ tham gia phải thực hiện một loạt so sánh giữa hai người ở độ tuổi khác nhau, từ một ngày tuổi tới 80 tuổi. Một số câu hỏi đề cập tới quyền không bị xâm hại, ví dụ, một đứa trẻ hay một người già giết người thì ai sai hơn? Một số câu liên quan tới quyền được điều trị, ví dụ, chỉ còn một nội tạng cứu mạng duy nhất thì ai nên được nhận trong trường hợp khẩn cấp?

Rõ ràng các đối tượng tham gia đều cảm thấy khó chịu khi phải quyết định ai nên chết chứ không phải ai nên sống; trong một nhóm đối tượng, phần lớn đều hoàn toàn từ chối bày tỏ quan điểm về sự sai trái khi giết một người già thay cho một người trẻ hơn. Trong những câu hỏi về trợ giúp y tế, ví dụ, ai nên được nhận thuốc cứu mạng, người tham gia thể hiện sự phân biệt rõ rệt hơn. Họ đề nghị việc điều trị và đối xử ưu đãi nhất cho những ai khoảng 10 tuổi.

Nói cách khác, để tránh gây tổn hại, chúng ta luôn cố gắng đối xử với mọi người một cách bình đẳng, nhưng khi vấn đề là mạng sống, tuổi tác lại đóng vai trò quan trọng. Các tác giả cho rằng chúng ta đối xử phân biệt và khác với tình huống tránh gây tổn hại thông thường vì sự hỗ trợ nói chung chỉ là nguồn tài nguyên hữu hạn.

Bốn thí nghiệm kế tiếp của Goodwin và Landy khám phá ra tại sao thanh thiếu niên có giá trị đặc biệt. Dữ liệu cho thấy đó là vì những người ở độ tuổi này nằm ở vị trí đẹp đẽ án ngữ giữa già và trẻ. Một người già hơn thường có nhiều quan hệ xã hội có ý nghĩa hơn – vì thế cái chết của ông ta có thể gây đau khổ cho nhiều người hơn – và nhiều nguồn lực và tài nguyên đã được đầu tư cho sự sống của ông ấy. Còn một người trẻ hơn (trẻ con) lại có nhiều năm tháng trước mặt hơn, và mới chỉ sống được một thời gian ngắn ngủi; nên có nhiều quan ngại thực tế về tiềm năng sống và cả những quan ngại về sự công bằng.

Nhà nghiên cứu sinh học Peter Singer ở Princeton nói: “Đây thực sự là những dữ liệu thú vị, nó giúp chúng tôi khám phá những gì chúng tôi nên làm. Nhưng bạn đừng trả lời các câu hỏi về những gì chúng ta nên làm bằng cách nói ‘Đó là điều mà hầu hết mọi người nghĩ chúng ta nên làm.’ Trực giác của con người có lẽ không có cơ sở logic.” Những câu hỏi như vậy có lẽ không nên dành cho những người đã tham gia trả lời cuộc điều tra; luân lý đạo đức vẫn hữu ích (trong nhu cầu được sống). Nhưng Goodwin và Landy cho rằng công việc của họ chỉ nhắm tới chính sách y tế và sức khỏe, cùng với việc ra quyết định y tế, bằng cách phát hiện ra những yếu tố quan trọng cho chúng ta. Tiêu chuẩn QALY có lẽ không phải thước đo giá trị tốt nhất khi quyết định phân bổ máu và nội tạng hay xây dựng các quy định an toàn cho người tiêu dùng hay môi trường; tuổi tác không đóng vai trò tuyến tính trong các tính toán đạo đức của chúng ta.

Trở lại ví dụ của nhân viên EMT ở trên. Landy viết qua email: “Tiêu chuẩn QALY ngặt nghèo sẽ ưu tiên đứa trẻ sơ sinh 3 tháng tuổi khỏe mạnh chứ không phải đứa bé 10 tuổi khỏe mạnh trong một tình huống nguy cấp (giả thiết cả hai đều có kỳ vọng tuổi thọ thông thường). Nhưng người bình thường rõ ràng sẽ ưu tiên đứa trẻ 10 tuổi.”

Nhìn vào trường hợp Sarah Murnaghan, em bé Philadelphia mười tuổi đã nhận được lá phổi mới vào tháng sáu năm 2013 sau khi cha mẹ em kêu gọi trên Facebook, Landy nói: “Nếu Sarah 3 tuổi, cô bé có lẽ gần như không nhận được một chương trình hỗ trợ đông đảo tương tự.” Trái tim (và lá phổi) của chúng ta có thể cho đi chỉ vì những nguyên nhân nghèo nàn như thế đấy.

Matthew Hutson
Theo The New Yorker

Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

Self - help có thực sự giúp bạn thành công?



Self – help có thực sự giúp bạn thành công?

Self – help là gì?
Wikipedia cho rằng “Self – help hay self - improvement là một cải tiến bằng nỗ lực tự thân – về kinh tế, trí tuệ, hoặc cảm xúc – thường chủ yếu dựa trên cơ sở tâm lý học.”
Từ điển Merriam-Webster định nghĩa: “Self-help là hành động hoặc quá trình làm ai đó trở nên tốt hơn hoặc vượt qua những vấn đề của họ mà không cần sự giúp đỡ của người khác, đặc biệt: đương đầu với những vấn đề cá nhân hoặc tình cảm mà không cần trợ giúp chuyên nghiệp.”
Một số từ điển Anh – Việt dịch self – help thành “tự lực”, “tự tương trợ”, “tự giúp đỡ”, “tự học”, “tự lo” – không đúng hoàn toàn hoặc một phần với bản chất của từ này. Dựa vào các định nghĩa trên, “tự cải tiến”, “tự cải thiện”, “tự hoàn thiện bản thân” có vẻ gần đúng hơn. Vì vậy trong bài viết này, tôi sẽ dùng từ “tự cải thiện bản thân” thay cho self – help hay self – improvement.

Nói thêm một chút. Các khái niệm và thuật ngữ của trào lưu “tự cải thiện bản thân” dùng đại trà ngày nay đối lập hoàn toàn với lý luận, quan niệm và hoạt động của các nhà kinh doanh và phân phối chuyên nghiệp. Nhưng bạn có biết không, chúng vốn dĩ được sử dụng khá nhiều vào thế kỷ 19 ở Châu Âu, trong các văn bản pháp luật và các tác phẩm chính thống. Một số người cho rằng nó có nguồn gốc từ văn hóa “tự cải thiện bản thân” và phương pháp Mười Hai Bước.
Cái gọi là nền văn hóa “tự cải thiện bản thân” lại có gốc gác từ cuốn sách cùng tên Self – Help, một kiệt tác của Samuel Smiles (1812 - 1904) – nhà cải cách chính quyền và tác gia người Scotland. Cuốn sách xuất bản năm 1859 ở Anh, khiến tác giả của nó nổi tiếng chỉ sau một đêm. Cuốn sách khuyến khích tiết kiệm, cho rằng nghèo đói chủ yếu do thói quen vô trách nhiệm. Nó cũng tấn công vào chủ nghĩa duy vật và chính phủ chủ trương tự do kinh tế. Câu nổi tiếng nhất đến nay người ta vẫn trích dẫn lại: “Chúa chỉ giúp những ai biết tự giúp chính mình.” Đây được coi là cuốn kinh thánh của chủ nghĩa tự do giữa thời Victoria. Smiles nhanh chóng trở thành một hình mẫu nổi tiếng khắp Châu Âu và Mỹ, một Plutarch thời hiện đại, được ngợi ca khi “hành động không cần dựa trên bất kỳ nền tảng công cộng nào”.
Còn phương pháp Mười Hai Bước để cai nghiện rượu của Bill Wilson xuất hiện trong cuốn Alcoholics Anonymous: The Story of How More Than One Hundred Men Have Recovered from Alcoholism (Cho người nghiện rượu: Câu chuyện về cách hơn một trăm người đã cai nghiện rượu thành công) của ông, xuất bản lần đầu năm 1939 ở Mỹ. Cuốn sách dựa trên thực chứng và phân tích tâm lý xã hội học rất cuốn hút, đã đúc kết thành tựu từ thực tiễn thành 12 bước để ai cũng dễ làm theo mà không cần đọc cả cuốn sách hay phải có kiến thức về tâm lý học, y học. Sau đó, phương pháp này được áp dụng rộng rãi không chỉ cho việc cai rượu mà còn cho nhiều việc khác như chữa bệnh, tư vấn tâm lý, giáo dục… Cách công thức hóa kiểu này cũng nhanh chóng được các tác giả sau đó bắt chước. Vì thế chúng ta mới thấy có nhiều tựa sách báo, chương trình, khóa học… có format rưa rứa kiểu như 7 thói quen để thành đạt (The 7 Habits of Highly Effective People) – Stephen R. Covey, Bảy qui luật tinh thần của thành công (The Seven Spiritual Laws of Success) – Deepak Chopra, Bốn thỏa ước (The Four Agreements) – don Miguel Ruiz…

Cho đến giờ, đã có vô số phong trào (chương trình, sách, báo, hội thảo, khóa học…) “tự cải thiện bản thân”, mỗi cái lại có trọng tâm, kỹ thuật, đức tin, người đề xướng và thủ lĩnh riêng. Các phong trào “tự cải thiện bản thân” này có đặc trưng là hay công khai thông tin và các nhóm hỗ trợ trên Internet và trong các cộng đồng nơi những người có hoàn cảnh tương tự hay sinh hoạt cùng nhau. Sinh hoạt trong nhóm theo kiểu ngang hàng. Mỗi trào lưu đều có dấu ấn cá nhân rõ rệt (của người sáng lập hoặc của một vị được mượn danh nghĩa và tư tưởng làm đại diện). Đại đa số đều có khuynh hướng của chủ nghĩa cá nhân và tính tư lợi (trừ một số trào lưu tôn giáo) và có một “đức tin” cụ thể. Vô số phong trào loại này đẻ ra vô số đức tin, đôi khi đối lập nhau chan chát. Nhưng đức tin chủ đạo nổi bật nhất và chung nhất, chính là tư tưởng “your thoughts shape your destiny” (suy nghĩ của bạn sẽ tạo nên số phận của bạn) – còn gọi một cái tên khác nghe khoa học hơn là “tư duy tích cực”, có vẻ như xuất phát từ cuốn sách The Power of the Positive Thinking (Sức mạnh của tư duy tích cực) – Norman Vincent Peale, xuất bản năm 1952.

Các nhà xã hội học cho rằng, việc tái bùng phát hiện tượng “tự cải thiện bản thân” ở cuối thế kỷ 20 là một dấu hiệu cho thấy: bản năng tự nhiên của loài người chúng ta luôn tìm kiếm sự hoàn hảo, đầy đủ đang bị thách thức. “Tính chất chủ quan hậu hiện đại đã xây dựng nên những chủ thể tự phản hồi trong quá trình hoạt động”, “cuộc khủng hoảng chủ thể không được diễn đạt rõ ràng mà tái xuất lại – biểu hiện trong doanh số không ngừng tăng lên khi bán những cuốn sách ‘tự cải thiện bản thân’” cho thấy con người đang bị gia tăng sự cô lập về mặt xã hội. Người ta tìm kiếm các nhóm “tự cải thiện bản thân” để tìm người trong tình trạng giống mình, để có cảm giác an ủi trong nền văn hóa thiếu cảm giác mục đích, dư thừa vật chất mà không đủ tính cộng đồng và không lành mạnh về tinh thần. Bối cảnh các cá nhân đổ xô tìm kiếm cảm giác thuộc về một cộng đồng nào đó còn là triệu chứng khác của sự tâm lý hóa cá nhân. “Việc chiếm giữ trước của cái tôi như một công cụ kiểm soát xã hội vào giai đoạn cuối thế kỷ 20 chỉ nhằm xoa dịu lo âu chính trị… trước những kẻ theo đuổi ý thức hệ tự sáng tạo chính mình (self - invention)”.
Một số nhà tâm lý học ủng hộ lý luận tư duy tích cực kiểu này, chấp nhận hình thức thực nghiệm kiểu “tự cải thiện bản thân”. Họ gọi đây là “tâm lý học tích cực”. “Vai trò của tâm lý học tích cực là trở thành cầu nối giữa tháp ngà khoa học với đường phố, giữa nguyên tắc chính xác nghiêm ngặt của giới hàn lâm và sự vui nhộn của trào lưu ‘tự cải thiện bản thân’”.
Các tác phẩm ‘tự cải thiện bản thân’ đầu thế kỷ 21 mang tính triết lý và dựa trên thực nghiệm nhiều hơn một thập kỷ trước. Chúng được cho là nhằm mục tiêu thanh lọc lĩnh vực này theo chiều hướng gia tăng hàm lượng nghiên cứu ‘nghe có vẻ khoa học’ và những mô hình ‘được thiết kế tốt’.

“Theo từ điển APA chuyên về Tâm lý học, lợi ích tiềm tàng của phong trào “tự cải thiện bản thân” vượt trội so với đội ngũ các chuyên gia có chuyên môn và giàu kinh nghiệm ở chỗ, nó cung cấp tình hữu nghị, những hỗ trợ dựa trên tình cảm, kiến thức dựa trên kinh nghiệm thực tiễn, bản sắc cá nhân, những vai trò có vẻ có ý nghĩa, và cảm giác được thuộc về một cái gì đó hay nơi nào đó.” - Wikipedia

Đầu thế kỷ 19, chỉ có các nhóm tự giúp nhau hiểu và thực hành theo pháp luật và tư vấn chuyện gia đình. Sau đó nó nhanh chóng lan rộng sang nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt trong giáo dục, kinh doanh, tâm lý và chữa bệnh. Cuối thế kỷ 20, nó đột ngột quay trở lại, nhanh chóng thành trào lưu hot ở Mỹ khi hàng loạt sách “tự hoàn thiện bản thân” trong lĩnh vực kinh doanh ra đời và phổ biến tràn lan như dịch bệnh tới mọi tầng lớp xã hội. Với cái đầu thực dụng của mình, người Mỹ ngay lập tức cho ra đời một ngành công nghiệp mới: self – help industry hay ngành công nghiệp chuyên phục vụ nhu cầu “tự hoàn thiện bản thân” của mọi cá nhân và tập thể. Ngành công nghiệp này mỗi năm cho xuất bản hàng triệu cuốn sách, tổ chức hàng trăm tới cả ngàn hội thảo, khóa học, video, audio thậm chí cả kênh truyền hình ở khắp hang cùng ngõ hẻm trên Trái Đất, có giá trị $11 tỷ đô/năm chỉ riêng ở Mỹ. Có thể nói Mỹ là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng nhất của trào lưu này. Trong khi các nhà khoa học còn đang nghiên cứu về tính hiệu quả của nó thì người dân đã không thể đợi kết quả, họ tự mình khám phá bằng cách gia nhập phong trào.

Ngành công nghiệp ‘tự cải thiện bản thân’ hiện nay được chia thành 2 mảng nhỏ dựa trên trọng tâm và phương pháp luận, gồm có: tâm lý học tích cực tổng quát (tập trung vào các hiện tượng và hiệu ứng tâm lý); hiệu suất cá nhân (tập trung vào phân tích, thiết kế và ứng dụng các mô hình phát triển chất lượng cá nhân).
Ngành này được xếp vào là một phần của ngành dịch vụ cá nhân. Một số quốc gia còn xếp nó vào làm nhánh của lĩnh vực phát triển con người, hoặc thú vị hơn, là nhánh của công nghiệp làm đẹp (như cắt tóc, thẩm mỹ,…). Đừng vội cười. Tất cả đều có lý do chính đáng và khoa học.
Ngôn ngữ được sử dụng là công cụ chính trong “tự cải thiện bản thân”. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và chỉ ra, việc tự nói chuyện, tự kỷ ám thị, tự viết ra, tự trình bày, tự thể hiện bằng lời nói… đều có tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh cảm xúc bản thân, tăng khả năng tự kiểm soát, thúc đẩy cảm xúc tích cực và sự hài lòng, tăng khả năng tự định hướng và chống chịu lại áp lực xã hội.
Phần lớn những người “cuồng tín” nhất của phong trào “tự cải thiện bản thân” có hai dạng: hoặc là người có cái tôi áp đảo, khát vọng tự thể hiện lớn lao và tính tư lợi về mặt vật chất do ám ảnh từ vài tổn thương trong quá khứ; hoặc là người “yếu đuối” về tâm thần, dễ bị tác động, thường xuyên thấy lo lắng, căng thẳng, thậm chí bị đe dọa từ các thử thách, tương tác và sự kiện ngoài xã hội.

Đến hôm nay, sức sống của trào lưu “tự cải thiện bản thân” không những không bị giảm nhiệt mà còn lan ra cả thế giới, biến tướng theo một số khuynh hướng không tích cực ở vài nơi - đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển có mật độ dân cư đông đúc và trình độ nhận thức còn thấp như Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan…
Những cuốn best – seller cùng kiểu “tự cải thiện bản thân” nhưng trong các lĩnh vực khác đều không được dân tình những xứ “đang phát triển” chào đón, bất chấp thực tế ở Mỹ và Châu Âu, trào lưu “tự cải thiện bản thân” ở mảng kinh doanh đã giảm nhiệt ngay từ đầu thế kỷ 21 (tức chỉ hot độ khoảng chục năm, giờ chủ yếu hưng thịnh mảng tâm lý học tổng quát và y học).

Nhiều người hẳn đã nhận ra. Đứng về mặt quan niệm và lịch sử, sách có phong cách kiểu “tự cải thiện bản thân” hiển nhiên đã có từ ngày xửa ngày xưa, ở mọi nền văn hóa. Trung Hoa phong kiến có Binh Pháp Tôn Tử với 36 kế, Tứ Thư Ngũ Kinh, … Tiểu Á có cuốn Ars Notoria chả biết từ thời nào, còn gọi là cuốn Notory Art of Solomon (Nghệ thuật của vua Solomon) dạy người ta tự luyện ma thuật gì đó để thành nhân vật siêu phàm, thậm chí có những cuốn cực kì cổ đại như Instructions of Shuruppak (Những lời răn của Shuruppak) trên đất nung từ 2.500 TCN để giáo huấn đạo đức trong thời Sumer cường thịnh ở Lưỡng Hà. Châu Âu có những cuốn sách cổ về cải thiện sức khỏe từ 1.600 năm trước, gần đây hơn có thể kể tới De Principatibus (Quân Vương) – Niccolo Machiavelli… Không biết Kinh Thánh của Ki – tô giáo hay Kinh điển Phật giáo dạy người ta cách tu tập và sống cuộc đời đạo đức hơn có được coi là thuộc loại “tự cải thiện bản thân” không nhỉ? Nếu thế chúng ta đã biết cuốn “tự cải thiện bản thân” được xuất bản nhiều nhất và nhiều người đọc nhất trong lịch sử loài người là cuốn nào rồi!
Tuy nhiên, vì nền công nghiệp “tự cải thiện bản thân” mới chỉ thực sự được điểm mặt gọi tên ở những năm 90 của thế kỷ trước, nên khi nhắc tới chữ “self – help”, ngầm định là chúng ta chỉ bàn tới những quyển sách, hội thảo, chương trình… theo thể loại này được sáng tác ở thời hiện đại hoặc được tái bản nhiều lần ở thời hiện đại. (“thời hiện đại” này tính từ năm 1990 tới nay nhé các bạn!)

Dù bị coi là sản phẩm ăn xổi ở thì, xổ ra tiếm lợi giữa thời đại chuyển giao công nghệ xuất bản (xuất bản trên giấy từ hưng thịnh tới suy giảm trong cuộc chiến với Internet) -  khiến tư duy con người cũng đi từ thâm sâu, tinh tế, cao quí tới chỗ hời hợt, cơ hội, tầm thường – nhưng không thể phủ nhận trào lưu này cũng đem tới một số ít tác phẩm có giá trị và vài lợi ích khác đối với thế giới nói chung và những nước như Việt Nam nói riêng.

Một số tác phẩm “tự cải thiện bản thân” được đánh giá cao trong lịch sử xuất bản bởi giới chuyên môn và độc giả. Có thể kể đến như: Seeking wisdom from Darwin to Munger (Tìm kiếm sự khôn ngoan từ Darwin tới Munger) – Peter Bevelin, Đắc nhân tâm (How to Win Friends and Influence People) – Dale Carnegie, Bí mật (The Secret) – Rhonda Byrne, Những kẻ xuất chúng (Outliers) – Malcom Gladwell…

Thế giới được hưởng lợi gì từ phong trào “tự cải thiện bản thân”?
Tất nhiên là mọi lợi ích của một nền công nghiệp mới, như việc làm cho nhiều người, cơ hội nổi tiếng và giàu có cho một số ít người, tiền có chỗ mới để sinh sôi, nhà đầu tư có thêm một vài mục trong danh sách, chính phủ có thêm nguồn thu thuế, giới nghiên cứu các hiện tượng xã hội và tâm lý có thêm việc để bàn, các chính trị gia có thêm vài mối bận tâm, nhiều thể chế có thêm động lực tích cực, dù chỉ trong ngắn hạn…
Đối với các quốc gia có trình độ dân trí thấp, giới khoa học (tâm lý xã hội học…) không có nhiều tác phẩm có tính đại chúng hoặc nền văn hóa phổ thông chưa có khả năng hấp thụ những tri thức tinh hoa và phân tích sự kiện bằng con mắt khách quan khoa học. Người dân khát thứ tri thức bác học đúng đắn nhưng viết cho riêng họ, nên họ dễ “cảm” cái thứ bình dân mà lại “có vẻ khoa học” gán mác Tây truyền sang. Rõ ràng ở đây, các sản phẩm “tự cải thiện bản thân” cũng có mặt tích cực. Chúng giúp người dân tiếp cận “tắt” với một số tư tưởng tiến bộ từ các xã hội phát triển. Tuy nhiên, khi con người ta chưa đủ tri thức tỏ tường được bản chất vấn đề và nắm bắt cốt lõi các quy luật tâm lý, xã hội và kinh doanh… thì thường bị “qua mặt” – tức bị mặt tiêu cực lấn át nhiều hơn (sẽ trình bày ở phần sau).
Hơn thế nữa, giống sách báo nói chung, tự thân những sản phẩm loại này đã chứa đựng tri thức. Tri thức thì luôn đáng quí, không với người này thì người kia. Mỗi tác giả, dù là chuyên gia hay nhà kinh doanh, dù chuyên nghiệp hay amateur, đều nhìn thế giới theo cách của riêng họ, rồi chia sẻ quan niệm về cuộc đời, thành bại, bệnh tật… qua lăng kính của chính họ cho chúng ta. Chỉ cần bất kì ai trong chúng ta cảm nhận và thấu hiểu được thông điệp của họ, đó đã là một thành công của sản phẩm. Tri thức của “tự cải thiện bản thân” đến giờ thực ra đều ở dưới dạng các lời khuyên, tư vấn (về bản chất chúng cũng chẳng khác với những gì bạn nghĩ) viết theo format khiến người ta học được nhiều hơn trong thời gian ít hơn.
Với cá nhân – trọng tâm của thể loại này – lợi ích khó thấy hơn một chút. Họ sẽ có cơ may củng cố cái tôi thành công, đạt được những ích lợi nào đó về mặt cá nhân khi tự ám thị mình trong những lý luận và hành động ‘có vẻ’ thực sự để cải thiện bản thân, kiểu như: mở rộng thế giới quan và đời sống xã hội, có thêm nhiều mối quan hệ, nhiều nhóm cộng tác, tinh thần lạc quan tích cực, thêm con đường để lựa chọn, thêm giải pháp cho vài khó khăn cá nhân (điều mà dù không có những sản phẩm loại này, người ta vẫn phải đối mặt và có khi còn xử lý hiệu quả hơn). Cuối cùng, “có vẻ” có nhiều cơ hội cải thiện thực sự cuộc sống về mặt vật chất lẫn tinh thần. (Đối với các nước Trung Quốc hay khu Đông Nam Á, người ta có xu hướng coi cải thiện về mặt vật chất là đích đến – tư duy kiểu này chỉ là vấn đề lịch sử, không nên dùng để đánh giá trình độ nhận thức và phẩm chất thực sự của họ - nhưng giới làm ăn phương Tây thường nhắm vào điểm này để trục lợi.)

Với Việt Nam, đến những năm 2005 – 2010 mới bắt đầu có vài cuốn sách bán chạy ở Mỹ được dịch ra tiếng Việt và nhanh chóng thành “hot” như Rich Dad, Poor Dad (Cha giàu cha nghèo) – Robert Kiyosaki, Think and Grow Rich (Suy nghĩ và làm giàu) – Napoleon Hill, Awaken the Giant Within (Đánh thức con người phi thường trong bạn) – Anthony Robbins,… … đi kèm hàng loạt chương trình và khóa học mì ăn liền nhái theo hay do chính mấy vị tác giả kia tự đứng ra tổ chức hoặc cho thuê tên tuổi để tiện làm ăn, kiểu như “Tư duy triệu phú”, “Tay trắng làm nên”, “Thay đổi để thành công”… chủ yếu đánh vào tâm lý muốn đổi đời nhanh chóng của đại bộ phận dân cư vẫn đang chật vật mưu sinh, hoặc khuynh hướng đẩy mạnh thể hiện cái tôi và thành tựu cá nhân qua vỏ bọc của nỗi hoài niệm về một thời khó nhọc, lầm lỡ, bế tắc của những người đã vượt khó thành công.
Bất chấp phong trào bị biến tướng tiêu cực ở Việt Nam và một số nước, các tác phẩm “tự cải thiện bản thân” ăn khách ở các nước phát triển vẫn được nhiều người Việt mến mộ, thậm chí lý tưởng hóa.

Các cuốn “tự cải thiện bản thân” phổ biến nhất mọi thời đại – theo bình chọn trên các tờ báo lớn phương Tây – bạn thử nhìn xem mình đã đọc và thích quyển nào:
1.      Đắc nhân tâm (How to Win Friends and Influence People) – Dale Carnegie, xuất bản lần đầu năm 1936
2.      Bí mật (The Secret) – Rhonda Byrne, 2006
3.      7 thói quen để thành đạt (The 7 Habits of Highly Effective People) – Stephen R. Covey, 1989
4.      Cha giàu cha nghèo (Rich Dad, Poor Dad) – Robert Kiyosaki, 1997
5.      Ai lấy miếng pho mát của tôi? (Who Moved My Cheese?) – Spencer Johnson, 1998
6.      Vùng lỗi (Your Erroneous Zones) – Wayne Dyer, 1976
7.      Chữa lành nỗi đau (You Can Heal Your Life) – Louise L. Hay, 1984
8.      Đàn ông sao Hỏa, Đàn bà sao Kim (Men are from Mars, Women Are from Venus) – John Gray, 1992
9.      Suy nghĩ và làm giàu (Think and Grow Rich) – Napoleon Hill, 1937
10.  Tập truyện Hạt giống tâm hồn (Chicken Soup for the Soul) – Jack Canfield và Mark Victor Hansen, 1993


Không phải ai cũng thích self – help
Về mặt chuyên môn, sản phẩm “tự cải thiện bản thân” được cho là ăn xổi ở thì, không có nhiều tính học thuật và chuyên môn về mặt hàn lâm; một số lượng lớn chạy theo chủ đề “dạy cách kiếm tiền”. Các tác giả của chúng cũng bị đánh đồng là người cơ hội, tức thời, không đủ uy tín, thậm chí tệ hơn: không có học vấn. Không phải ngẫu nhiên khi một số tác phẩm bị phân loại thành “tự cải thiện bản thân”, nhưng tác giả của nó đã cực lực phản đối, vì cho rằng điều đó khiến tác phẩm của họ mất đi tính chính thống và đúng đắn về dài hạn và bản thân họ khó duy trì được uy tín trong giới học thuật.
Sản phẩm ‘tự cải thiện bản thân’ còn là mục tiêu công kích, chế nhạo và nhại lại trong văn học, truyền thông, phim ảnh và cả trong cuộc sống. Nhìn chung, tầng lớp tinh hoa và giàu có ở xã hội phương Tây cho rằng không có điều gì gọi là “tự cải thiện bản thân”, chỉ là một kiểu chủ nghĩa cá nhân được đưa lên địa vị tối cao quá mức, một sản phẩm của đời sống xã hội nhạt nhẽo và vì thế, không thực sự hữu ích.
Nhiều học giả - nhất là ở Mỹ giai đoạn cuối thế kỷ 20 - chỉ trích những tuyên bố từ các sản phẩm ‘tự cải thiện bản thân’ dù có khoác vỏ bọc khoa học cũng không đúng đắn và dẫn người ta lạc lối. Các nhóm ‘tự cải thiện bản thân’ giống như nghiện chứ không phải nhóm cộng tác hay liên kết. “Không chỉ không đủ hiệu quả để đạt được mục tiêu mà còn gây hại cho xã hội” (Steve Salerno).
James Altucher – chủ doanh nghiệp và nhà đầu tư mạo hiểm – cho rằng ‘tự cải thiện bản thân’ là một trò nhảm nhí: “Hàng ngàn quyển sách được viết ra bởi những kẻ từng thất bại kinh doanh và có rất ít thành công nhưng lại muốn hàng triệu người cổ vũ cho mình trong hiệu sách. Vậy thì họ đang giúp ai chứ? Khi bạn nhìn vào những cuốn ‘tự cải thiện bản thân’ gần đây (nhiều cái tên được đề cập trong cuốn Bí Mật - The Secret) chúng toàn chìm trong hàng đống scandal. Ai cần chúng chứ?”
Christopher Buckley trong cuốn sách của mình God is My Broker (Chúa là Nhà môi giới của tôi) khẳng định: “Cách duy nhất để làm giàu từ sách ‘tự cải thiện bản thân’ là viết một cuốn”.
Thậm chí, gần đây trang Forbes còn tổng kết lại toàn bộ những cuốn sách “tự cải thiện bản thân” giai đoạn cuối thế kỷ 20 đến nay, và đưa ra kết luận: có 7 điểm chung từ toàn bộ hàng triệu thể dạng của loại hình này và chỉ cần 7 phút để học toàn bộ chúng. 7 điểm chung này gồm:
1.      Cái nhìn toàn cảnh: tìm lý do, cái gì đang điều khiển bạn và điều khiển kiểu gì (3 câu why, what, how). Câu hỏi kiểu này sẽ xác định cái gì bạn muốn trong dài hạn và định vị mục tiêu lớn nhất của cuộc đời. Một số nghiên cứu trải qua hàng chục năm tại Mỹ cho thấy, người nào lúc còn trẻ (đối tượng nghiên cứu là sinh viên các trường Đại học) đặt mục tiêu liên quan đến nội tại (như có lòng từ bi hơn, biết hy sinh, vị tha, cống hiến, tình yêu…) về sau đều thành công và hạnh phúc hơn những người đặt mục tiêu liên quan đến bên ngoài (như giàu có, danh tiếng, lợi nhuận, sự nghiệp, nhan sắc, gia đình…).
2.      Thành thạo: để thành công, phải thực hành nhuần nhuyễn công việc mà bạn chọn là nghề; đồng thời học hỏi từ người khác. Thế giới hơn 7 tỷ người, thiên tài chỉ đếm trên đầu ngón tay, còn lại đều phải đổ mồ hôi hết. Nếu bạn muốn nổi bật, hiển nhiên bạn phải làm nhiều hơn, đổ nhiều mồ hôi hơn hẳn người khác. Trong cuốn Những kẻ xuất chúng (Outliers) của Malcolm Gladwell, những người mà chúng ta nghĩ họ là thiên tài ngày nay, thực ra đã phải dành rất nhiều thời gian, thậm chí từ những năm đầu của cuộc đời, để luyện tập đạt được các kỹ năng chuyên môn một cách thuần thục.
3.      Cải tiến: liên tục thử và sai, thất bại lại tiếp tục thử. Cải tiến là thứ được sinh ra từ một loạt các thất bại kéo dài. Thành công, thậm chí thành công ngoạn mục chỉ là kết quả xảy ra rất, rất lâu sau đó. Cuốn sách Mindset (Tư duy) – Carol Dweck đưa ra khái niệm rất thú vị: tư duy tăng trưởng (growth mindset) – bỏ qua trí thông minh và tài năng, chỉ tập trung vào học hỏi và cải tiến. Cuốn sách dẫn chứng bằng một loạt các nhân vật cực kỳ thành công trong nhiều lĩnh vực ở nhiều thời đại, nhiều quốc gia khác nhau.
4.      Tập trung: là hiệu quả, chứ không phải hiệu suất. Ngày nay, thật dễ mất tập trung vì email, tin nhắn, cuộc gọi, facebook, tweet… Điều thú vị khi đọc sách “tự cải thiện bản thân” của các tỷ phú và triệu phú trẻ, kể cả tỷ phú công nghệ; đều thấy một điểm cực giống nhau ở họ: không bắt đầu một ngày bằng email, facebook, instagram hay cái gì đó tương tự; bản thân họ cũng không bao giờ đặt ưu tiên hay chú ý cao hơn trong cuộc sống cho những thứ đó. Thậm chí có người còn khẳng định thường xuyên xếp lịch để sống thêm những khoảnh khắc không cần email, điện thoại hay internet.
5.      Tích cực: sống với hiện tại và xua những suy nghĩ tiêu cực khỏi đầu óc. Sai lầm, lo lắng, sợ hãi… mới là con người. Trong lịch sử tiến hóa của loài người, những cái đó cực kỳ quan trọng, giúp chúng ta sống sót và duy trì nòi giống.
6.      Hợp tác: nghĩ theo hướng mọi người đều có lợi (win - win) và luôn tạo ấn tượng ban đầu thật tốt đẹp. Cũng trong lịch sử tiến hóa, loài người đã phát triển khả năng hợp tác, vì hợp tác tăng khả năng sống sót. Các sách “tự cải thiện bản thân” đều cho thấy thành công luôn phụ thuộc vào người khác, vì thế hãy luôn đối xử thật tốt và thật tôn trọng với mọi người. Làm sao để dễ bề cộng tác? Cuốn “tự cải thiện bản thân” nổi tiếng nhất mọi thời Đắc Nhân Tâm – Dale Carnegie khuyên rằng: bước đầu tiên phải tạo ấn tượng ban đầu thật tốt đẹp. Vì vậy hãy mỉm cười và tỏ ra thân thiện với người mới.
7.      Nhu cầu con người: bản thân con người luôn tồn tại mâu thuẫn. Hãy học cách chống lại nó hoặc chấp nhận nó. Đa số chúng ta đều được khuyên nên từ bỏ những lợi ích ngắn hạn, nhưng về dài hạn có thể làm hỏng bạn, như: hút thuốc, uống rượu, nghiền facebook, internet… Thay đổi bền lâu nhất khi nó được xây dựng trên những thói quen tích cực nhỏ nhặt. Tinh chỉnh ngay những gì bạn có thể làm hôm nay để tương lai, bạn sẽ được vui vẻ, hạnh phúc hơn.

Đó là ở Tây. Còn ở Việt Nam ta, một cách đơn giản nhất để nhận biết “tự cải thiện bản thân” là, tất cả những gì có chứa các cụm từ như: “XXX bước để YYY”, “để trở thành XXX”, “làm cách nào để XXX” hoặc những cái tít gây sốc như “start up 0 đồng”, “Kinh doanh không cần vốn”, “5 bước để thành triệu phú sau 6 tháng”... Nền dân trí chưa cao, lại thêm việc quản lý kinh doanh và truyền thông lộn xộn của chính phủ khiến nhiều người dễ bị lay động bởi những ngôn từ thô thiển, “dối trá một cách trắng trợn”. Một số bộ phận người dân đã tỏ rõ sự phản cảm và bất mãn với các sản phẩm từ trào lưu này.
Cùng với hiện tượng “tự cải thiện bản thân” tràn tới Việt Nam, còn có phong trào bán hàng đa cấp. Cả hai đều được một số người Việt hấp thụ và phát triển theo lối tiêu cực. Đa cấp đi với “hoa hồng cao tới mức không tưởng”, “lừa đảo”, “vi phạm pháp luật”. Các khóa “tự cải thiện bản thân” biến tướng theo kiểu cực đoan, “thần kinh dẫm phải đinh”, “hồ ngôn loạn ngữ”, chắp vá, cả mấy tá khóa học và sách vở đều một nội dung na ná nhau nhưng chi phí có khi còn đắt hơn đi du lịch vòng quanh Châu Âu cả tháng. Đôi khi bạn sẽ cảm thấy mấy khóa học bất động sản hay tư duy làm giàu gì gì đó còn có mùi “đa cấp”. Sau vài vụ bắt giữ các đối tượng đa cấp lừa đảo lớn ở trong nước, không phải ngẫu nhiên, nhiều người gần đây ác cảm với cả “tự cải thiện bản thân” lẫn “bán hàng đa cấp”.

Self – help có thực sự giúp bạn thành công?
Nghiên cứu cho thấy 18% người Mỹ từng tham gia ít nhất một lớp “tự cải thiện bản thân” trong đời. 75-80% số người từng truy cập vào các trang tin “tự cải thiện bản thân” là vì lý do sức khỏe và vì chi phí hợp lý, nhiều trang còn miễn phí. Vài nghiên cứu gần đây chỉ ra, có hiệu quả tích cực với các nhóm cải thiện bệnh lý về thần kinh, trầm cảm, nghiện.
Nói chung, cho tới nay, các nghiên cứu rất thận trọng ở Mỹ về sức mạnh của các sản phẩm “tự cải thiện bản thân” cho thấy, trừ lĩnh vực sức khỏe, còn ở các lĩnh vực khác nó không có hiệu quả thực sự nào.
Nhưng nhiều người tham gia không nghĩ như vậy. Họ sở hữu một niềm tin và sự tôn sùng đến mức tuyệt đối vào tác giả, diễn giả, thủ lĩnh… - những tấm gương được khuyếch trương đôi khi vượt xa sự thật. Ở Việt Nam, những tín đồ này có thể đứng ngoài đường hô vang các khẩu hiệu tự ám thị kiểu “Tôi là triệu phú!”, “Tôi sẽ kiếm được một triệu đô đầu tiên sau 6 tháng nữa”… Về lý thuyết khoa học, hành động đó sẽ giúp họ giải tỏa được một số áp lực nhất định trong cuộc sống, khiến khao khát thể hiện cái tôi bị giam cầm trong những thành kiến chật hẹp được giải phóng, giúp bản thân và mọi người xung quanh thư giãn, tạo thêm động lực tích cực cho bản thân… Một điều thú vị hơn, đa số họ đều tin “suy nghĩ tạo nên cuộc đời” – nên cứ tự ám thị, tự xây dựng thói quen nghĩ mình thành công, hành xử như người thành công thì sớm hay muộn cũng sẽ thành công - tất nhiên, thực tế đã chứng minh, tư tưởng kiểu này khá ấu trĩ và ngây thơ, nhưng lại rất tích cực. Về mặt xã hội, chẳng có vấn đề gì. Thực sự là chẳng có vấn đề gì! Dù đôi ba người thấy phản cảm vì kiểu thể hiện “thái quá” đó và phàn nàn trên các diễn đàn hay báo chí. Nói cho cùng, hành động kiểu đó còn tích cực và tốt hơn nhiều so với việc bạn chạy theo cái gì đó cực đoan, tệ hại, nghiện ngập.
Khoan đã, chúng ta đang bàn đến kết quả của các cam kết. Họ có thu được một triệu đô sau 6 tháng không? Họ có thành triệu phú sau 1 năm, 3 năm, hay 10 năm không?... Có thể có, có thể không. Nếu có, họ trở thành một thành viên chính thức trong nhóm, tiếp tục đi “truyền cảm hứng” và “lôi kéo” những người khác tham gia. Nếu không, họ từ bỏ hoặc tiếp tục cố gắng. Có gì đặc biệt không? Không! Câu hỏi mà lẽ ra chúng ta nên hỏi phải là: Nếu không bị cuốn vào trào lưu “tự cải thiện bản thân”, chỉ dựa vào học hỏi và trải nghiệm trên đường đời, họ có đạt được những thứ giống như họ cam kết ở kia không?
Với riêng lĩnh vực dạy kiếm tiền, ở Việt Nam bạn sẽ khó mà trả lời được câu này, vì phong trào dạy làm giàu mới bùng phát khoảng chục năm trở lại. Nhưng ở phương Tây, hiển nhiên đi trước chúng ta mấy chục năm, nên kết quả đã tỏ tường đen trắng phần nào. Câu trả lời của họ là: rất, rất ít, thậm chí cực kỳ ít người thành công. Nói chung, nếu bạn tham gia học và làm theo phong trào kiếm tiền này, thì xác suất để bạn thành triệu phú cũng ngang với xác suất khi bạn không tham gia học và làm theo. Còn tỷ phú đô la thì xin lỗi, chưa có ai. Mới chỉ có tỷ phú mở lớp dạy kiếm tiền, chưa có học viên nào nhờ học “tự cải thiện bản thân” mà thành tỷ phú như thầy.
Đó là lý do tại sao ngày nay, ở Mỹ và châu Âu, các nhóm “tự cải thiện bản thân” đông đúc chủ yếu chỉ trong lĩnh vực chữa bệnh. Và cũng bởi thế, khiến nó gánh nhiều đánh giá thiếu tích cực trên nhiều phương diện của các tầng lớp xã hội.

Chính các diễn giả truyền cảm hứng – những nhà đào tạo theo format trong các phong trào kiểu này cũng phải công nhận: “Quá nhiều ý tưởng ‘tự cải thiện bản thân’ trông rất tuyệt vời. Nó có vẻ tự do, tiến bộ và hoàn hảo trong một chiếc quần yoga. Nó có vẻ như đang làm điều đúng đắn, nhưng đôi khi, không như vậy. Các ý tưởng đó cần phải được kiểm nghiệm.” Trong nhiều trường hợp, người ta chỉ đơn giản thay thế một dạng ham muốn hay vấn đề bằng một cái khác trông có vẻ tốt hơn.
Danielle LaPorte – diễn giả truyền cảm hứng – trong cuốn sách của mình White Hot Truth (Sự thật trắng trợn) cho rằng đôi khi “con đường ‘tự cải thiện bản thân’ có thể trở thành tự phá hủy bản thân (self – destruction)”. Bà nêu ra 4 kiểu ‘tự cải thiện bản thân’ có thể làm bạn trở nên tồi tệ hơn:
-          Sa vào một vài hoạt động tâm linh hoặc đức tin có tính cực đoan nhằm tránh cảm giác đau khổ hay khao khát được phát triển bản thân;
-          Tuân theo quan điểm phải từ bi nên đã quá khoan dung với những hành vi xấu hoặc những đối tượng muốn lợi dụng thao túng mình;
-          Luôn giữ quan niệm thưởng và phạt, cảm thấy tội lỗi khi mỗi ngày trôi qua không học thêm điều gì mới hay phát triển thêm cái gì đó;
-          Cho rằng một tư tưởng có thể phù hợp với nhiều người như một chiếc áo cỡ L cũng khoác vừa mọi đối tượng.
LaPorte khuyên những người tham gia ‘tự cải thiện bản thân’ nên kiểm tra lại thật kỹ động cơ của mình: “hãy dành thời gian để tự nghiền ngẫm và hỏi bản thân xem bạn đang thực sự tìm kiếm điều gì và tại sao”; “nếu không ai có thành tích gì trong các hoạt động này thì liệu bạn có muốn thực hiện việc đó?”. Đồng thời phải cảnh giác thật cao độ, đừng có vội vã mở lòng với tất tật mọi người, trái tim chỉ nên dành cho những người “tôn trọng và quan tâm, đồng thời phải thực sự, thực sự yêu thương” chúng ta. Đối với những người “đơn giản” hoặc “cuồng tín”, nghĩ rằng họ cần tuân thủ mọi thói quen và hoạt động mà người hướng dẫn hay một chuyên gia ‘tự cải thiện bản thân’ nào đó như Deepak Chopak hay Tony Robbins đưa ra, thì phải cẩn thận. Hãy học cách nghĩ cho bản thân. Người thầy giỏi sẽ hướng dẫn cho học viên phù hợp với trình độ căn cơ của họ và cho họ thấy những gì họ cần chứ không phải chỉ theo một công thức nhất định. Sau một thời gian, bạn nên dừng lại để xem liệu nó có thực sự hữu dụng với bạn không. Chẳng có con đường nào chung cho mọi người. Đôi giày đẹp với người ta chắc gì đã bạn đã đi vừa.

Nói thế thôi. Vì bất chấp tất cả, ngành công nghiệp này vẫn đang trên đỉnh cao thịnh vượng. Một số người đầu tư công sức, thời gian và tiền bạc, thậm chí coi đó là sự nghiệp của đời mình.

Ngày  30  tháng 5 năm 2017