Thứ Ba, 30 tháng 5, 2017

Self - help có thực sự giúp bạn thành công?



Self – help có thực sự giúp bạn thành công?

Self – help là gì?
Wikipedia cho rằng “Self – help hay self - improvement là một cải tiến bằng nỗ lực tự thân – về kinh tế, trí tuệ, hoặc cảm xúc – thường chủ yếu dựa trên cơ sở tâm lý học.”
Từ điển Merriam-Webster định nghĩa: “Self-help là hành động hoặc quá trình làm ai đó trở nên tốt hơn hoặc vượt qua những vấn đề của họ mà không cần sự giúp đỡ của người khác, đặc biệt: đương đầu với những vấn đề cá nhân hoặc tình cảm mà không cần trợ giúp chuyên nghiệp.”
Một số từ điển Anh – Việt dịch self – help thành “tự lực”, “tự tương trợ”, “tự giúp đỡ”, “tự học”, “tự lo” – không đúng hoàn toàn hoặc một phần với bản chất của từ này. Dựa vào các định nghĩa trên, “tự cải tiến”, “tự cải thiện”, “tự hoàn thiện bản thân” có vẻ gần đúng hơn. Vì vậy trong bài viết này, tôi sẽ dùng từ “tự cải thiện bản thân” thay cho self – help hay self – improvement.

Nói thêm một chút. Các khái niệm và thuật ngữ của trào lưu “tự cải thiện bản thân” dùng đại trà ngày nay đối lập hoàn toàn với lý luận, quan niệm và hoạt động của các nhà kinh doanh và phân phối chuyên nghiệp. Nhưng bạn có biết không, chúng vốn dĩ được sử dụng khá nhiều vào thế kỷ 19 ở Châu Âu, trong các văn bản pháp luật và các tác phẩm chính thống. Một số người cho rằng nó có nguồn gốc từ văn hóa “tự cải thiện bản thân” và phương pháp Mười Hai Bước.
Cái gọi là nền văn hóa “tự cải thiện bản thân” lại có gốc gác từ cuốn sách cùng tên Self – Help, một kiệt tác của Samuel Smiles (1812 - 1904) – nhà cải cách chính quyền và tác gia người Scotland. Cuốn sách xuất bản năm 1859 ở Anh, khiến tác giả của nó nổi tiếng chỉ sau một đêm. Cuốn sách khuyến khích tiết kiệm, cho rằng nghèo đói chủ yếu do thói quen vô trách nhiệm. Nó cũng tấn công vào chủ nghĩa duy vật và chính phủ chủ trương tự do kinh tế. Câu nổi tiếng nhất đến nay người ta vẫn trích dẫn lại: “Chúa chỉ giúp những ai biết tự giúp chính mình.” Đây được coi là cuốn kinh thánh của chủ nghĩa tự do giữa thời Victoria. Smiles nhanh chóng trở thành một hình mẫu nổi tiếng khắp Châu Âu và Mỹ, một Plutarch thời hiện đại, được ngợi ca khi “hành động không cần dựa trên bất kỳ nền tảng công cộng nào”.
Còn phương pháp Mười Hai Bước để cai nghiện rượu của Bill Wilson xuất hiện trong cuốn Alcoholics Anonymous: The Story of How More Than One Hundred Men Have Recovered from Alcoholism (Cho người nghiện rượu: Câu chuyện về cách hơn một trăm người đã cai nghiện rượu thành công) của ông, xuất bản lần đầu năm 1939 ở Mỹ. Cuốn sách dựa trên thực chứng và phân tích tâm lý xã hội học rất cuốn hút, đã đúc kết thành tựu từ thực tiễn thành 12 bước để ai cũng dễ làm theo mà không cần đọc cả cuốn sách hay phải có kiến thức về tâm lý học, y học. Sau đó, phương pháp này được áp dụng rộng rãi không chỉ cho việc cai rượu mà còn cho nhiều việc khác như chữa bệnh, tư vấn tâm lý, giáo dục… Cách công thức hóa kiểu này cũng nhanh chóng được các tác giả sau đó bắt chước. Vì thế chúng ta mới thấy có nhiều tựa sách báo, chương trình, khóa học… có format rưa rứa kiểu như 7 thói quen để thành đạt (The 7 Habits of Highly Effective People) – Stephen R. Covey, Bảy qui luật tinh thần của thành công (The Seven Spiritual Laws of Success) – Deepak Chopra, Bốn thỏa ước (The Four Agreements) – don Miguel Ruiz…

Cho đến giờ, đã có vô số phong trào (chương trình, sách, báo, hội thảo, khóa học…) “tự cải thiện bản thân”, mỗi cái lại có trọng tâm, kỹ thuật, đức tin, người đề xướng và thủ lĩnh riêng. Các phong trào “tự cải thiện bản thân” này có đặc trưng là hay công khai thông tin và các nhóm hỗ trợ trên Internet và trong các cộng đồng nơi những người có hoàn cảnh tương tự hay sinh hoạt cùng nhau. Sinh hoạt trong nhóm theo kiểu ngang hàng. Mỗi trào lưu đều có dấu ấn cá nhân rõ rệt (của người sáng lập hoặc của một vị được mượn danh nghĩa và tư tưởng làm đại diện). Đại đa số đều có khuynh hướng của chủ nghĩa cá nhân và tính tư lợi (trừ một số trào lưu tôn giáo) và có một “đức tin” cụ thể. Vô số phong trào loại này đẻ ra vô số đức tin, đôi khi đối lập nhau chan chát. Nhưng đức tin chủ đạo nổi bật nhất và chung nhất, chính là tư tưởng “your thoughts shape your destiny” (suy nghĩ của bạn sẽ tạo nên số phận của bạn) – còn gọi một cái tên khác nghe khoa học hơn là “tư duy tích cực”, có vẻ như xuất phát từ cuốn sách The Power of the Positive Thinking (Sức mạnh của tư duy tích cực) – Norman Vincent Peale, xuất bản năm 1952.

Các nhà xã hội học cho rằng, việc tái bùng phát hiện tượng “tự cải thiện bản thân” ở cuối thế kỷ 20 là một dấu hiệu cho thấy: bản năng tự nhiên của loài người chúng ta luôn tìm kiếm sự hoàn hảo, đầy đủ đang bị thách thức. “Tính chất chủ quan hậu hiện đại đã xây dựng nên những chủ thể tự phản hồi trong quá trình hoạt động”, “cuộc khủng hoảng chủ thể không được diễn đạt rõ ràng mà tái xuất lại – biểu hiện trong doanh số không ngừng tăng lên khi bán những cuốn sách ‘tự cải thiện bản thân’” cho thấy con người đang bị gia tăng sự cô lập về mặt xã hội. Người ta tìm kiếm các nhóm “tự cải thiện bản thân” để tìm người trong tình trạng giống mình, để có cảm giác an ủi trong nền văn hóa thiếu cảm giác mục đích, dư thừa vật chất mà không đủ tính cộng đồng và không lành mạnh về tinh thần. Bối cảnh các cá nhân đổ xô tìm kiếm cảm giác thuộc về một cộng đồng nào đó còn là triệu chứng khác của sự tâm lý hóa cá nhân. “Việc chiếm giữ trước của cái tôi như một công cụ kiểm soát xã hội vào giai đoạn cuối thế kỷ 20 chỉ nhằm xoa dịu lo âu chính trị… trước những kẻ theo đuổi ý thức hệ tự sáng tạo chính mình (self - invention)”.
Một số nhà tâm lý học ủng hộ lý luận tư duy tích cực kiểu này, chấp nhận hình thức thực nghiệm kiểu “tự cải thiện bản thân”. Họ gọi đây là “tâm lý học tích cực”. “Vai trò của tâm lý học tích cực là trở thành cầu nối giữa tháp ngà khoa học với đường phố, giữa nguyên tắc chính xác nghiêm ngặt của giới hàn lâm và sự vui nhộn của trào lưu ‘tự cải thiện bản thân’”.
Các tác phẩm ‘tự cải thiện bản thân’ đầu thế kỷ 21 mang tính triết lý và dựa trên thực nghiệm nhiều hơn một thập kỷ trước. Chúng được cho là nhằm mục tiêu thanh lọc lĩnh vực này theo chiều hướng gia tăng hàm lượng nghiên cứu ‘nghe có vẻ khoa học’ và những mô hình ‘được thiết kế tốt’.

“Theo từ điển APA chuyên về Tâm lý học, lợi ích tiềm tàng của phong trào “tự cải thiện bản thân” vượt trội so với đội ngũ các chuyên gia có chuyên môn và giàu kinh nghiệm ở chỗ, nó cung cấp tình hữu nghị, những hỗ trợ dựa trên tình cảm, kiến thức dựa trên kinh nghiệm thực tiễn, bản sắc cá nhân, những vai trò có vẻ có ý nghĩa, và cảm giác được thuộc về một cái gì đó hay nơi nào đó.” - Wikipedia

Đầu thế kỷ 19, chỉ có các nhóm tự giúp nhau hiểu và thực hành theo pháp luật và tư vấn chuyện gia đình. Sau đó nó nhanh chóng lan rộng sang nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt trong giáo dục, kinh doanh, tâm lý và chữa bệnh. Cuối thế kỷ 20, nó đột ngột quay trở lại, nhanh chóng thành trào lưu hot ở Mỹ khi hàng loạt sách “tự hoàn thiện bản thân” trong lĩnh vực kinh doanh ra đời và phổ biến tràn lan như dịch bệnh tới mọi tầng lớp xã hội. Với cái đầu thực dụng của mình, người Mỹ ngay lập tức cho ra đời một ngành công nghiệp mới: self – help industry hay ngành công nghiệp chuyên phục vụ nhu cầu “tự hoàn thiện bản thân” của mọi cá nhân và tập thể. Ngành công nghiệp này mỗi năm cho xuất bản hàng triệu cuốn sách, tổ chức hàng trăm tới cả ngàn hội thảo, khóa học, video, audio thậm chí cả kênh truyền hình ở khắp hang cùng ngõ hẻm trên Trái Đất, có giá trị $11 tỷ đô/năm chỉ riêng ở Mỹ. Có thể nói Mỹ là quốc gia chịu nhiều ảnh hưởng nhất của trào lưu này. Trong khi các nhà khoa học còn đang nghiên cứu về tính hiệu quả của nó thì người dân đã không thể đợi kết quả, họ tự mình khám phá bằng cách gia nhập phong trào.

Ngành công nghiệp ‘tự cải thiện bản thân’ hiện nay được chia thành 2 mảng nhỏ dựa trên trọng tâm và phương pháp luận, gồm có: tâm lý học tích cực tổng quát (tập trung vào các hiện tượng và hiệu ứng tâm lý); hiệu suất cá nhân (tập trung vào phân tích, thiết kế và ứng dụng các mô hình phát triển chất lượng cá nhân).
Ngành này được xếp vào là một phần của ngành dịch vụ cá nhân. Một số quốc gia còn xếp nó vào làm nhánh của lĩnh vực phát triển con người, hoặc thú vị hơn, là nhánh của công nghiệp làm đẹp (như cắt tóc, thẩm mỹ,…). Đừng vội cười. Tất cả đều có lý do chính đáng và khoa học.
Ngôn ngữ được sử dụng là công cụ chính trong “tự cải thiện bản thân”. Các nhà khoa học đã nghiên cứu và chỉ ra, việc tự nói chuyện, tự kỷ ám thị, tự viết ra, tự trình bày, tự thể hiện bằng lời nói… đều có tác dụng tích cực trong việc điều chỉnh cảm xúc bản thân, tăng khả năng tự kiểm soát, thúc đẩy cảm xúc tích cực và sự hài lòng, tăng khả năng tự định hướng và chống chịu lại áp lực xã hội.
Phần lớn những người “cuồng tín” nhất của phong trào “tự cải thiện bản thân” có hai dạng: hoặc là người có cái tôi áp đảo, khát vọng tự thể hiện lớn lao và tính tư lợi về mặt vật chất do ám ảnh từ vài tổn thương trong quá khứ; hoặc là người “yếu đuối” về tâm thần, dễ bị tác động, thường xuyên thấy lo lắng, căng thẳng, thậm chí bị đe dọa từ các thử thách, tương tác và sự kiện ngoài xã hội.

Đến hôm nay, sức sống của trào lưu “tự cải thiện bản thân” không những không bị giảm nhiệt mà còn lan ra cả thế giới, biến tướng theo một số khuynh hướng không tích cực ở vài nơi - đặc biệt ở các quốc gia đang phát triển có mật độ dân cư đông đúc và trình độ nhận thức còn thấp như Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia, Philippines, Thái Lan…
Những cuốn best – seller cùng kiểu “tự cải thiện bản thân” nhưng trong các lĩnh vực khác đều không được dân tình những xứ “đang phát triển” chào đón, bất chấp thực tế ở Mỹ và Châu Âu, trào lưu “tự cải thiện bản thân” ở mảng kinh doanh đã giảm nhiệt ngay từ đầu thế kỷ 21 (tức chỉ hot độ khoảng chục năm, giờ chủ yếu hưng thịnh mảng tâm lý học tổng quát và y học).

Nhiều người hẳn đã nhận ra. Đứng về mặt quan niệm và lịch sử, sách có phong cách kiểu “tự cải thiện bản thân” hiển nhiên đã có từ ngày xửa ngày xưa, ở mọi nền văn hóa. Trung Hoa phong kiến có Binh Pháp Tôn Tử với 36 kế, Tứ Thư Ngũ Kinh, … Tiểu Á có cuốn Ars Notoria chả biết từ thời nào, còn gọi là cuốn Notory Art of Solomon (Nghệ thuật của vua Solomon) dạy người ta tự luyện ma thuật gì đó để thành nhân vật siêu phàm, thậm chí có những cuốn cực kì cổ đại như Instructions of Shuruppak (Những lời răn của Shuruppak) trên đất nung từ 2.500 TCN để giáo huấn đạo đức trong thời Sumer cường thịnh ở Lưỡng Hà. Châu Âu có những cuốn sách cổ về cải thiện sức khỏe từ 1.600 năm trước, gần đây hơn có thể kể tới De Principatibus (Quân Vương) – Niccolo Machiavelli… Không biết Kinh Thánh của Ki – tô giáo hay Kinh điển Phật giáo dạy người ta cách tu tập và sống cuộc đời đạo đức hơn có được coi là thuộc loại “tự cải thiện bản thân” không nhỉ? Nếu thế chúng ta đã biết cuốn “tự cải thiện bản thân” được xuất bản nhiều nhất và nhiều người đọc nhất trong lịch sử loài người là cuốn nào rồi!
Tuy nhiên, vì nền công nghiệp “tự cải thiện bản thân” mới chỉ thực sự được điểm mặt gọi tên ở những năm 90 của thế kỷ trước, nên khi nhắc tới chữ “self – help”, ngầm định là chúng ta chỉ bàn tới những quyển sách, hội thảo, chương trình… theo thể loại này được sáng tác ở thời hiện đại hoặc được tái bản nhiều lần ở thời hiện đại. (“thời hiện đại” này tính từ năm 1990 tới nay nhé các bạn!)

Dù bị coi là sản phẩm ăn xổi ở thì, xổ ra tiếm lợi giữa thời đại chuyển giao công nghệ xuất bản (xuất bản trên giấy từ hưng thịnh tới suy giảm trong cuộc chiến với Internet) -  khiến tư duy con người cũng đi từ thâm sâu, tinh tế, cao quí tới chỗ hời hợt, cơ hội, tầm thường – nhưng không thể phủ nhận trào lưu này cũng đem tới một số ít tác phẩm có giá trị và vài lợi ích khác đối với thế giới nói chung và những nước như Việt Nam nói riêng.

Một số tác phẩm “tự cải thiện bản thân” được đánh giá cao trong lịch sử xuất bản bởi giới chuyên môn và độc giả. Có thể kể đến như: Seeking wisdom from Darwin to Munger (Tìm kiếm sự khôn ngoan từ Darwin tới Munger) – Peter Bevelin, Đắc nhân tâm (How to Win Friends and Influence People) – Dale Carnegie, Bí mật (The Secret) – Rhonda Byrne, Những kẻ xuất chúng (Outliers) – Malcom Gladwell…

Thế giới được hưởng lợi gì từ phong trào “tự cải thiện bản thân”?
Tất nhiên là mọi lợi ích của một nền công nghiệp mới, như việc làm cho nhiều người, cơ hội nổi tiếng và giàu có cho một số ít người, tiền có chỗ mới để sinh sôi, nhà đầu tư có thêm một vài mục trong danh sách, chính phủ có thêm nguồn thu thuế, giới nghiên cứu các hiện tượng xã hội và tâm lý có thêm việc để bàn, các chính trị gia có thêm vài mối bận tâm, nhiều thể chế có thêm động lực tích cực, dù chỉ trong ngắn hạn…
Đối với các quốc gia có trình độ dân trí thấp, giới khoa học (tâm lý xã hội học…) không có nhiều tác phẩm có tính đại chúng hoặc nền văn hóa phổ thông chưa có khả năng hấp thụ những tri thức tinh hoa và phân tích sự kiện bằng con mắt khách quan khoa học. Người dân khát thứ tri thức bác học đúng đắn nhưng viết cho riêng họ, nên họ dễ “cảm” cái thứ bình dân mà lại “có vẻ khoa học” gán mác Tây truyền sang. Rõ ràng ở đây, các sản phẩm “tự cải thiện bản thân” cũng có mặt tích cực. Chúng giúp người dân tiếp cận “tắt” với một số tư tưởng tiến bộ từ các xã hội phát triển. Tuy nhiên, khi con người ta chưa đủ tri thức tỏ tường được bản chất vấn đề và nắm bắt cốt lõi các quy luật tâm lý, xã hội và kinh doanh… thì thường bị “qua mặt” – tức bị mặt tiêu cực lấn át nhiều hơn (sẽ trình bày ở phần sau).
Hơn thế nữa, giống sách báo nói chung, tự thân những sản phẩm loại này đã chứa đựng tri thức. Tri thức thì luôn đáng quí, không với người này thì người kia. Mỗi tác giả, dù là chuyên gia hay nhà kinh doanh, dù chuyên nghiệp hay amateur, đều nhìn thế giới theo cách của riêng họ, rồi chia sẻ quan niệm về cuộc đời, thành bại, bệnh tật… qua lăng kính của chính họ cho chúng ta. Chỉ cần bất kì ai trong chúng ta cảm nhận và thấu hiểu được thông điệp của họ, đó đã là một thành công của sản phẩm. Tri thức của “tự cải thiện bản thân” đến giờ thực ra đều ở dưới dạng các lời khuyên, tư vấn (về bản chất chúng cũng chẳng khác với những gì bạn nghĩ) viết theo format khiến người ta học được nhiều hơn trong thời gian ít hơn.
Với cá nhân – trọng tâm của thể loại này – lợi ích khó thấy hơn một chút. Họ sẽ có cơ may củng cố cái tôi thành công, đạt được những ích lợi nào đó về mặt cá nhân khi tự ám thị mình trong những lý luận và hành động ‘có vẻ’ thực sự để cải thiện bản thân, kiểu như: mở rộng thế giới quan và đời sống xã hội, có thêm nhiều mối quan hệ, nhiều nhóm cộng tác, tinh thần lạc quan tích cực, thêm con đường để lựa chọn, thêm giải pháp cho vài khó khăn cá nhân (điều mà dù không có những sản phẩm loại này, người ta vẫn phải đối mặt và có khi còn xử lý hiệu quả hơn). Cuối cùng, “có vẻ” có nhiều cơ hội cải thiện thực sự cuộc sống về mặt vật chất lẫn tinh thần. (Đối với các nước Trung Quốc hay khu Đông Nam Á, người ta có xu hướng coi cải thiện về mặt vật chất là đích đến – tư duy kiểu này chỉ là vấn đề lịch sử, không nên dùng để đánh giá trình độ nhận thức và phẩm chất thực sự của họ - nhưng giới làm ăn phương Tây thường nhắm vào điểm này để trục lợi.)

Với Việt Nam, đến những năm 2005 – 2010 mới bắt đầu có vài cuốn sách bán chạy ở Mỹ được dịch ra tiếng Việt và nhanh chóng thành “hot” như Rich Dad, Poor Dad (Cha giàu cha nghèo) – Robert Kiyosaki, Think and Grow Rich (Suy nghĩ và làm giàu) – Napoleon Hill, Awaken the Giant Within (Đánh thức con người phi thường trong bạn) – Anthony Robbins,… … đi kèm hàng loạt chương trình và khóa học mì ăn liền nhái theo hay do chính mấy vị tác giả kia tự đứng ra tổ chức hoặc cho thuê tên tuổi để tiện làm ăn, kiểu như “Tư duy triệu phú”, “Tay trắng làm nên”, “Thay đổi để thành công”… chủ yếu đánh vào tâm lý muốn đổi đời nhanh chóng của đại bộ phận dân cư vẫn đang chật vật mưu sinh, hoặc khuynh hướng đẩy mạnh thể hiện cái tôi và thành tựu cá nhân qua vỏ bọc của nỗi hoài niệm về một thời khó nhọc, lầm lỡ, bế tắc của những người đã vượt khó thành công.
Bất chấp phong trào bị biến tướng tiêu cực ở Việt Nam và một số nước, các tác phẩm “tự cải thiện bản thân” ăn khách ở các nước phát triển vẫn được nhiều người Việt mến mộ, thậm chí lý tưởng hóa.

Các cuốn “tự cải thiện bản thân” phổ biến nhất mọi thời đại – theo bình chọn trên các tờ báo lớn phương Tây – bạn thử nhìn xem mình đã đọc và thích quyển nào:
1.      Đắc nhân tâm (How to Win Friends and Influence People) – Dale Carnegie, xuất bản lần đầu năm 1936
2.      Bí mật (The Secret) – Rhonda Byrne, 2006
3.      7 thói quen để thành đạt (The 7 Habits of Highly Effective People) – Stephen R. Covey, 1989
4.      Cha giàu cha nghèo (Rich Dad, Poor Dad) – Robert Kiyosaki, 1997
5.      Ai lấy miếng pho mát của tôi? (Who Moved My Cheese?) – Spencer Johnson, 1998
6.      Vùng lỗi (Your Erroneous Zones) – Wayne Dyer, 1976
7.      Chữa lành nỗi đau (You Can Heal Your Life) – Louise L. Hay, 1984
8.      Đàn ông sao Hỏa, Đàn bà sao Kim (Men are from Mars, Women Are from Venus) – John Gray, 1992
9.      Suy nghĩ và làm giàu (Think and Grow Rich) – Napoleon Hill, 1937
10.  Tập truyện Hạt giống tâm hồn (Chicken Soup for the Soul) – Jack Canfield và Mark Victor Hansen, 1993


Không phải ai cũng thích self – help
Về mặt chuyên môn, sản phẩm “tự cải thiện bản thân” được cho là ăn xổi ở thì, không có nhiều tính học thuật và chuyên môn về mặt hàn lâm; một số lượng lớn chạy theo chủ đề “dạy cách kiếm tiền”. Các tác giả của chúng cũng bị đánh đồng là người cơ hội, tức thời, không đủ uy tín, thậm chí tệ hơn: không có học vấn. Không phải ngẫu nhiên khi một số tác phẩm bị phân loại thành “tự cải thiện bản thân”, nhưng tác giả của nó đã cực lực phản đối, vì cho rằng điều đó khiến tác phẩm của họ mất đi tính chính thống và đúng đắn về dài hạn và bản thân họ khó duy trì được uy tín trong giới học thuật.
Sản phẩm ‘tự cải thiện bản thân’ còn là mục tiêu công kích, chế nhạo và nhại lại trong văn học, truyền thông, phim ảnh và cả trong cuộc sống. Nhìn chung, tầng lớp tinh hoa và giàu có ở xã hội phương Tây cho rằng không có điều gì gọi là “tự cải thiện bản thân”, chỉ là một kiểu chủ nghĩa cá nhân được đưa lên địa vị tối cao quá mức, một sản phẩm của đời sống xã hội nhạt nhẽo và vì thế, không thực sự hữu ích.
Nhiều học giả - nhất là ở Mỹ giai đoạn cuối thế kỷ 20 - chỉ trích những tuyên bố từ các sản phẩm ‘tự cải thiện bản thân’ dù có khoác vỏ bọc khoa học cũng không đúng đắn và dẫn người ta lạc lối. Các nhóm ‘tự cải thiện bản thân’ giống như nghiện chứ không phải nhóm cộng tác hay liên kết. “Không chỉ không đủ hiệu quả để đạt được mục tiêu mà còn gây hại cho xã hội” (Steve Salerno).
James Altucher – chủ doanh nghiệp và nhà đầu tư mạo hiểm – cho rằng ‘tự cải thiện bản thân’ là một trò nhảm nhí: “Hàng ngàn quyển sách được viết ra bởi những kẻ từng thất bại kinh doanh và có rất ít thành công nhưng lại muốn hàng triệu người cổ vũ cho mình trong hiệu sách. Vậy thì họ đang giúp ai chứ? Khi bạn nhìn vào những cuốn ‘tự cải thiện bản thân’ gần đây (nhiều cái tên được đề cập trong cuốn Bí Mật - The Secret) chúng toàn chìm trong hàng đống scandal. Ai cần chúng chứ?”
Christopher Buckley trong cuốn sách của mình God is My Broker (Chúa là Nhà môi giới của tôi) khẳng định: “Cách duy nhất để làm giàu từ sách ‘tự cải thiện bản thân’ là viết một cuốn”.
Thậm chí, gần đây trang Forbes còn tổng kết lại toàn bộ những cuốn sách “tự cải thiện bản thân” giai đoạn cuối thế kỷ 20 đến nay, và đưa ra kết luận: có 7 điểm chung từ toàn bộ hàng triệu thể dạng của loại hình này và chỉ cần 7 phút để học toàn bộ chúng. 7 điểm chung này gồm:
1.      Cái nhìn toàn cảnh: tìm lý do, cái gì đang điều khiển bạn và điều khiển kiểu gì (3 câu why, what, how). Câu hỏi kiểu này sẽ xác định cái gì bạn muốn trong dài hạn và định vị mục tiêu lớn nhất của cuộc đời. Một số nghiên cứu trải qua hàng chục năm tại Mỹ cho thấy, người nào lúc còn trẻ (đối tượng nghiên cứu là sinh viên các trường Đại học) đặt mục tiêu liên quan đến nội tại (như có lòng từ bi hơn, biết hy sinh, vị tha, cống hiến, tình yêu…) về sau đều thành công và hạnh phúc hơn những người đặt mục tiêu liên quan đến bên ngoài (như giàu có, danh tiếng, lợi nhuận, sự nghiệp, nhan sắc, gia đình…).
2.      Thành thạo: để thành công, phải thực hành nhuần nhuyễn công việc mà bạn chọn là nghề; đồng thời học hỏi từ người khác. Thế giới hơn 7 tỷ người, thiên tài chỉ đếm trên đầu ngón tay, còn lại đều phải đổ mồ hôi hết. Nếu bạn muốn nổi bật, hiển nhiên bạn phải làm nhiều hơn, đổ nhiều mồ hôi hơn hẳn người khác. Trong cuốn Những kẻ xuất chúng (Outliers) của Malcolm Gladwell, những người mà chúng ta nghĩ họ là thiên tài ngày nay, thực ra đã phải dành rất nhiều thời gian, thậm chí từ những năm đầu của cuộc đời, để luyện tập đạt được các kỹ năng chuyên môn một cách thuần thục.
3.      Cải tiến: liên tục thử và sai, thất bại lại tiếp tục thử. Cải tiến là thứ được sinh ra từ một loạt các thất bại kéo dài. Thành công, thậm chí thành công ngoạn mục chỉ là kết quả xảy ra rất, rất lâu sau đó. Cuốn sách Mindset (Tư duy) – Carol Dweck đưa ra khái niệm rất thú vị: tư duy tăng trưởng (growth mindset) – bỏ qua trí thông minh và tài năng, chỉ tập trung vào học hỏi và cải tiến. Cuốn sách dẫn chứng bằng một loạt các nhân vật cực kỳ thành công trong nhiều lĩnh vực ở nhiều thời đại, nhiều quốc gia khác nhau.
4.      Tập trung: là hiệu quả, chứ không phải hiệu suất. Ngày nay, thật dễ mất tập trung vì email, tin nhắn, cuộc gọi, facebook, tweet… Điều thú vị khi đọc sách “tự cải thiện bản thân” của các tỷ phú và triệu phú trẻ, kể cả tỷ phú công nghệ; đều thấy một điểm cực giống nhau ở họ: không bắt đầu một ngày bằng email, facebook, instagram hay cái gì đó tương tự; bản thân họ cũng không bao giờ đặt ưu tiên hay chú ý cao hơn trong cuộc sống cho những thứ đó. Thậm chí có người còn khẳng định thường xuyên xếp lịch để sống thêm những khoảnh khắc không cần email, điện thoại hay internet.
5.      Tích cực: sống với hiện tại và xua những suy nghĩ tiêu cực khỏi đầu óc. Sai lầm, lo lắng, sợ hãi… mới là con người. Trong lịch sử tiến hóa của loài người, những cái đó cực kỳ quan trọng, giúp chúng ta sống sót và duy trì nòi giống.
6.      Hợp tác: nghĩ theo hướng mọi người đều có lợi (win - win) và luôn tạo ấn tượng ban đầu thật tốt đẹp. Cũng trong lịch sử tiến hóa, loài người đã phát triển khả năng hợp tác, vì hợp tác tăng khả năng sống sót. Các sách “tự cải thiện bản thân” đều cho thấy thành công luôn phụ thuộc vào người khác, vì thế hãy luôn đối xử thật tốt và thật tôn trọng với mọi người. Làm sao để dễ bề cộng tác? Cuốn “tự cải thiện bản thân” nổi tiếng nhất mọi thời Đắc Nhân Tâm – Dale Carnegie khuyên rằng: bước đầu tiên phải tạo ấn tượng ban đầu thật tốt đẹp. Vì vậy hãy mỉm cười và tỏ ra thân thiện với người mới.
7.      Nhu cầu con người: bản thân con người luôn tồn tại mâu thuẫn. Hãy học cách chống lại nó hoặc chấp nhận nó. Đa số chúng ta đều được khuyên nên từ bỏ những lợi ích ngắn hạn, nhưng về dài hạn có thể làm hỏng bạn, như: hút thuốc, uống rượu, nghiền facebook, internet… Thay đổi bền lâu nhất khi nó được xây dựng trên những thói quen tích cực nhỏ nhặt. Tinh chỉnh ngay những gì bạn có thể làm hôm nay để tương lai, bạn sẽ được vui vẻ, hạnh phúc hơn.

Đó là ở Tây. Còn ở Việt Nam ta, một cách đơn giản nhất để nhận biết “tự cải thiện bản thân” là, tất cả những gì có chứa các cụm từ như: “XXX bước để YYY”, “để trở thành XXX”, “làm cách nào để XXX” hoặc những cái tít gây sốc như “start up 0 đồng”, “Kinh doanh không cần vốn”, “5 bước để thành triệu phú sau 6 tháng”... Nền dân trí chưa cao, lại thêm việc quản lý kinh doanh và truyền thông lộn xộn của chính phủ khiến nhiều người dễ bị lay động bởi những ngôn từ thô thiển, “dối trá một cách trắng trợn”. Một số bộ phận người dân đã tỏ rõ sự phản cảm và bất mãn với các sản phẩm từ trào lưu này.
Cùng với hiện tượng “tự cải thiện bản thân” tràn tới Việt Nam, còn có phong trào bán hàng đa cấp. Cả hai đều được một số người Việt hấp thụ và phát triển theo lối tiêu cực. Đa cấp đi với “hoa hồng cao tới mức không tưởng”, “lừa đảo”, “vi phạm pháp luật”. Các khóa “tự cải thiện bản thân” biến tướng theo kiểu cực đoan, “thần kinh dẫm phải đinh”, “hồ ngôn loạn ngữ”, chắp vá, cả mấy tá khóa học và sách vở đều một nội dung na ná nhau nhưng chi phí có khi còn đắt hơn đi du lịch vòng quanh Châu Âu cả tháng. Đôi khi bạn sẽ cảm thấy mấy khóa học bất động sản hay tư duy làm giàu gì gì đó còn có mùi “đa cấp”. Sau vài vụ bắt giữ các đối tượng đa cấp lừa đảo lớn ở trong nước, không phải ngẫu nhiên, nhiều người gần đây ác cảm với cả “tự cải thiện bản thân” lẫn “bán hàng đa cấp”.

Self – help có thực sự giúp bạn thành công?
Nghiên cứu cho thấy 18% người Mỹ từng tham gia ít nhất một lớp “tự cải thiện bản thân” trong đời. 75-80% số người từng truy cập vào các trang tin “tự cải thiện bản thân” là vì lý do sức khỏe và vì chi phí hợp lý, nhiều trang còn miễn phí. Vài nghiên cứu gần đây chỉ ra, có hiệu quả tích cực với các nhóm cải thiện bệnh lý về thần kinh, trầm cảm, nghiện.
Nói chung, cho tới nay, các nghiên cứu rất thận trọng ở Mỹ về sức mạnh của các sản phẩm “tự cải thiện bản thân” cho thấy, trừ lĩnh vực sức khỏe, còn ở các lĩnh vực khác nó không có hiệu quả thực sự nào.
Nhưng nhiều người tham gia không nghĩ như vậy. Họ sở hữu một niềm tin và sự tôn sùng đến mức tuyệt đối vào tác giả, diễn giả, thủ lĩnh… - những tấm gương được khuyếch trương đôi khi vượt xa sự thật. Ở Việt Nam, những tín đồ này có thể đứng ngoài đường hô vang các khẩu hiệu tự ám thị kiểu “Tôi là triệu phú!”, “Tôi sẽ kiếm được một triệu đô đầu tiên sau 6 tháng nữa”… Về lý thuyết khoa học, hành động đó sẽ giúp họ giải tỏa được một số áp lực nhất định trong cuộc sống, khiến khao khát thể hiện cái tôi bị giam cầm trong những thành kiến chật hẹp được giải phóng, giúp bản thân và mọi người xung quanh thư giãn, tạo thêm động lực tích cực cho bản thân… Một điều thú vị hơn, đa số họ đều tin “suy nghĩ tạo nên cuộc đời” – nên cứ tự ám thị, tự xây dựng thói quen nghĩ mình thành công, hành xử như người thành công thì sớm hay muộn cũng sẽ thành công - tất nhiên, thực tế đã chứng minh, tư tưởng kiểu này khá ấu trĩ và ngây thơ, nhưng lại rất tích cực. Về mặt xã hội, chẳng có vấn đề gì. Thực sự là chẳng có vấn đề gì! Dù đôi ba người thấy phản cảm vì kiểu thể hiện “thái quá” đó và phàn nàn trên các diễn đàn hay báo chí. Nói cho cùng, hành động kiểu đó còn tích cực và tốt hơn nhiều so với việc bạn chạy theo cái gì đó cực đoan, tệ hại, nghiện ngập.
Khoan đã, chúng ta đang bàn đến kết quả của các cam kết. Họ có thu được một triệu đô sau 6 tháng không? Họ có thành triệu phú sau 1 năm, 3 năm, hay 10 năm không?... Có thể có, có thể không. Nếu có, họ trở thành một thành viên chính thức trong nhóm, tiếp tục đi “truyền cảm hứng” và “lôi kéo” những người khác tham gia. Nếu không, họ từ bỏ hoặc tiếp tục cố gắng. Có gì đặc biệt không? Không! Câu hỏi mà lẽ ra chúng ta nên hỏi phải là: Nếu không bị cuốn vào trào lưu “tự cải thiện bản thân”, chỉ dựa vào học hỏi và trải nghiệm trên đường đời, họ có đạt được những thứ giống như họ cam kết ở kia không?
Với riêng lĩnh vực dạy kiếm tiền, ở Việt Nam bạn sẽ khó mà trả lời được câu này, vì phong trào dạy làm giàu mới bùng phát khoảng chục năm trở lại. Nhưng ở phương Tây, hiển nhiên đi trước chúng ta mấy chục năm, nên kết quả đã tỏ tường đen trắng phần nào. Câu trả lời của họ là: rất, rất ít, thậm chí cực kỳ ít người thành công. Nói chung, nếu bạn tham gia học và làm theo phong trào kiếm tiền này, thì xác suất để bạn thành triệu phú cũng ngang với xác suất khi bạn không tham gia học và làm theo. Còn tỷ phú đô la thì xin lỗi, chưa có ai. Mới chỉ có tỷ phú mở lớp dạy kiếm tiền, chưa có học viên nào nhờ học “tự cải thiện bản thân” mà thành tỷ phú như thầy.
Đó là lý do tại sao ngày nay, ở Mỹ và châu Âu, các nhóm “tự cải thiện bản thân” đông đúc chủ yếu chỉ trong lĩnh vực chữa bệnh. Và cũng bởi thế, khiến nó gánh nhiều đánh giá thiếu tích cực trên nhiều phương diện của các tầng lớp xã hội.

Chính các diễn giả truyền cảm hứng – những nhà đào tạo theo format trong các phong trào kiểu này cũng phải công nhận: “Quá nhiều ý tưởng ‘tự cải thiện bản thân’ trông rất tuyệt vời. Nó có vẻ tự do, tiến bộ và hoàn hảo trong một chiếc quần yoga. Nó có vẻ như đang làm điều đúng đắn, nhưng đôi khi, không như vậy. Các ý tưởng đó cần phải được kiểm nghiệm.” Trong nhiều trường hợp, người ta chỉ đơn giản thay thế một dạng ham muốn hay vấn đề bằng một cái khác trông có vẻ tốt hơn.
Danielle LaPorte – diễn giả truyền cảm hứng – trong cuốn sách của mình White Hot Truth (Sự thật trắng trợn) cho rằng đôi khi “con đường ‘tự cải thiện bản thân’ có thể trở thành tự phá hủy bản thân (self – destruction)”. Bà nêu ra 4 kiểu ‘tự cải thiện bản thân’ có thể làm bạn trở nên tồi tệ hơn:
-          Sa vào một vài hoạt động tâm linh hoặc đức tin có tính cực đoan nhằm tránh cảm giác đau khổ hay khao khát được phát triển bản thân;
-          Tuân theo quan điểm phải từ bi nên đã quá khoan dung với những hành vi xấu hoặc những đối tượng muốn lợi dụng thao túng mình;
-          Luôn giữ quan niệm thưởng và phạt, cảm thấy tội lỗi khi mỗi ngày trôi qua không học thêm điều gì mới hay phát triển thêm cái gì đó;
-          Cho rằng một tư tưởng có thể phù hợp với nhiều người như một chiếc áo cỡ L cũng khoác vừa mọi đối tượng.
LaPorte khuyên những người tham gia ‘tự cải thiện bản thân’ nên kiểm tra lại thật kỹ động cơ của mình: “hãy dành thời gian để tự nghiền ngẫm và hỏi bản thân xem bạn đang thực sự tìm kiếm điều gì và tại sao”; “nếu không ai có thành tích gì trong các hoạt động này thì liệu bạn có muốn thực hiện việc đó?”. Đồng thời phải cảnh giác thật cao độ, đừng có vội vã mở lòng với tất tật mọi người, trái tim chỉ nên dành cho những người “tôn trọng và quan tâm, đồng thời phải thực sự, thực sự yêu thương” chúng ta. Đối với những người “đơn giản” hoặc “cuồng tín”, nghĩ rằng họ cần tuân thủ mọi thói quen và hoạt động mà người hướng dẫn hay một chuyên gia ‘tự cải thiện bản thân’ nào đó như Deepak Chopak hay Tony Robbins đưa ra, thì phải cẩn thận. Hãy học cách nghĩ cho bản thân. Người thầy giỏi sẽ hướng dẫn cho học viên phù hợp với trình độ căn cơ của họ và cho họ thấy những gì họ cần chứ không phải chỉ theo một công thức nhất định. Sau một thời gian, bạn nên dừng lại để xem liệu nó có thực sự hữu dụng với bạn không. Chẳng có con đường nào chung cho mọi người. Đôi giày đẹp với người ta chắc gì đã bạn đã đi vừa.

Nói thế thôi. Vì bất chấp tất cả, ngành công nghiệp này vẫn đang trên đỉnh cao thịnh vượng. Một số người đầu tư công sức, thời gian và tiền bạc, thậm chí coi đó là sự nghiệp của đời mình.

Ngày  30  tháng 5 năm 2017

Thứ Năm, 25 tháng 5, 2017

Giá trị sống (4)



Câu hỏi quan trọng nhất trong đời bạn

Mọi người đều muốn những thứ có vẻ tốt đẹp. Mọi người đều muốn sống vô tư, hạnh phúc và dễ dàng, muốn yêu, muốn có những cuộc tình và những mối quan hệ tuyệt vời, muốn hoàn hảo, muốn kiếm được bộn tiền, muốn được nổi tiếng, được kính trọng và ngưỡng mộ, muốn là một nhân vật xuất chúng đến độ người ta phải rẽ ra như Biển Đỏ khi bạn bước vào phòng. 

Mọi người đều thích thế - thật dễ dàng.

Nếu tôi hỏi bạn “Bạn muốn gì trong đời?” và bạn nói gì đó kiểu như “Tôi muốn sống hạnh phúc, có một gia đình tuyệt vời và một công việc mà tôi thích” – thế thì quá phổ biến đến mức chả có chút nghĩa lý nào.
Một câu hỏi thú vị hơn, câu hỏi có lẽ bạn chưa bao giờ nghĩ đến từ trước tới nay, đó là: bạn muốn nỗi đau nào trong đời? Bạn sẽ quyết chí đấu tranh vì cái gì? Vì điều đó dường như là yếu tố quyết định lớn hơn khiến đời chúng ta biến hóa ra sao.
Mọi người đều muốn có một công việc tuyệt vời và độc lập tài chính – nhưng chẳng ai muốn cực khổ làm việc suốt 60 tiếng mỗi tuần, đi lại xa xôi, giấy tờ độc hại, bị điều chuyển thất thường trong các thang bậc doanh nghiệp và giữa những biên giới buồn chán của cả địa ngục các phòng ban vô hạn. Người ta muốn giàu có mà không gặp rủi ro, không cần hy sinh, không bị trì hoãn tiền thưởng cần thiết để tích lũy của cải.
Mọi người muốn yêu đương nóng bỏng và một quan hệ tuyệt vời – nhưng không ai sẵn sàng trải qua những cuộc đối thoại gay gắt, những khoảng lặng khủng khiếp, những cảm giác đau đớn và trị liệu tâm kịch xúc cảm để có được điều đó. Và họ cứ sống như vậy. Họ sống và tự hỏi “Chuyện gì nếu?” từ năm này qua năm khác cho đến khi câu hỏi biến đổi từ “Chuyện gì nếu?” thành “Nó là thế ư?” Rồi khi luật sư tới nhà với hóa đơn tiền cấp dưỡng trong thư, họ lại nói “Đó là vì cái gì thế?” Nếu không phải là vì những tiêu chuẩn và kỳ vọng đã bị hạ thấp xuống từ 20 năm trước của họ thì là vì cái gì đây?
Vì hạnh phúc cần đấu tranh. Sự tích cực là tác dụng phụ khi xử lý cái tiêu cực. Bạn chỉ có thể tránh những trải nghiệm tiêu cực một thời gian dài trước khi chúng ầm ầm trở lại trong đời.
Cốt lõi trong toàn bộ hành vi con người là, nhu cầu của chúng ta ít nhiều tương tự nhau. Những trải nghiệm tích cực đều dễ xử lý. Về mặt quan niệm, chỉ có những trải nghiệm tiêu cực khiến chúng ta phải đấu tranh. Do đó, những gì chúng ta đẩy ra khỏi cuộc đời không được quyết định bằng những cảm xúc tốt đẹp chúng ta mong muốn mà bằng những cảm xúc tồi tệ chúng ta sẵn sàng và có khả năng chịu đựng để đưa chúng ta tới những cảm xúc tốt đẹp.
Người ta muốn một thể chất thật ấn tượng. Nhưng bạn sẽ không có nó trừ khi bạn đánh giá đúng những đau đớn và căng thẳng thể chất phải chịu khi tập gym hằng giờ, trừ khi bạn yêu thích tính toán và hiệu chỉnh đồ ăn, lập kế hoạch cho cuộc đời theo khẩu phần trên những chiếc đĩa nhỏ.
Người ta muốn khởi nghiệp kinh doanh hoặc được độc lập tài chính. Nhưng bạn sẽ không thể trở thành một doanh nhân thành đạt trừ khi bạn tìm được cách nhận thức rõ rủi ro, sự không chắc chắn, những thất bại lặp đi lặp lại, và những giờ làm việc điên cuồng với những thứ mà bạn chẳng biết liệu có thành công hay không.
Người ta muốn có một đối tác, một người bạn đời. Nhưng bạn sẽ chẳng thể thu hút được ai đó tuyệt vời mà không đánh giá cao sự hỗn loạn tình cảm đi kèm với những lời từ chối thất thường, tạo nên những rung cảm giới tính không bao giờ được giải phóng, và nhìn chằm chằm vào chiếc điện thoại không bao giờ đổ chuông. Đó là một phần của trò chơi tình yêu. Bạn không thể thắng nếu bạn không chơi.
Cái quyết định thành công của bạn không phải là “Bạn muốn tận hưởng điều gì?” Câu hỏi là “Bạn muốn chịu đựng nỗi đau nào?” Chất lượng cuộc đời bạn không do chất lượng những trải nghiệm tích cực quyết định, mà là do chất lượng những trải nghiệm tiêu cực. Đối phó tốt với những trải nghiệm tiêu cực mới nhận được những điều tốt đẹp trong cuộc đời.
Có nhiều lời khuyên tồi cho việc này: “Bạn chỉ cần mong muốn đủ nhiều!”
Mọi người đều muốn thứ gì đó. Và mọi người đều muốn thứ gì đó đủ nhiều. Họ chỉ không nhận ra cái gì là thứ họ muốn, hoặc cái gì là thứ họ muốn “đủ nhiều”.
Vì nếu bạn muốn thu được lợi ích từ thứ gì trong đời, bạn đều phải trả giá. Nếu bạn muốn thân hình đẹp để đi biển, bạn phải có mồ hôi, những cơn đau, những buổi sáng sớm, và những cơn đói. Nếu bạn muốn có du thuyền, bạn cũng phải muốn những đêm muộn, những thương vụ mạo hiểm, và khả năng khiến một hay cả chục ngàn người nổi điên.
Nếu bạn thấy bản thân muốn thứ gì đó suốt nhiều tháng trời, nhiều năm trời, nhưng chẳng có gì xảy ra cả, và bạn chưa bao giờ đến gần nó hơn chút nào, thì những gì bạn muốn có lẽ chỉ là ảo tưởng, một sự lý tưởng hóa, một hình ảnh hay một lời hứa hão. Có thể những gì bạn muốn không phải là những gì bạn muốn, bạn chỉ thích được mong muốn. Có thể bạn không thực sự muốn có nó hoàn toàn.
Thi thoảng tôi hỏi mọi người “Anh lựa chọn chịu đựng thế nào?” Những người này nghiêng đầu nhìn tôi như thể tôi có 12 cái mũi. Nhưng tôi hỏi vì điều đó nói với tôi về bạn vượt xa những khao khát và ảo tưởng của bạn. Vì bạn phải chọn một cái gì đó. Bạn không thể sống cuộc đời chẳng có chút đau thương nào. Đời không phải toàn hoa hồng và rồng phượng. Và cuối cùng, đó là câu hỏi khó khăn và nhiều ý nghĩa. Hỏi về điều vui thích bao giờ cũng dễ dàng. Hầu hết chúng ta đều trả lời tương tự. Hỏi về đau khổ sẽ thú vị hơn nhiều. Nỗi đau nào bạn muốn trải qua?
Câu trả lời thực sự sẽ đưa bạn tới một nơi nào đó. Đó là câu hỏi có thể thay đổi cuộc đời bạn. Đó là thứ khiến tôi là tôi và bạn là bạn. Đó là thứ xác định chúng ta và chia rẽ chúng ta, rồi cuối cùng lại đưa chúng ta về bên nhau.
Hỡi các bạn thanh thiếu niên của tôi, tôi đã tưởng tượng trở thành một nhạc sĩ – cụ thể là một ngôi sao nhạc rock. Bất kỳ bản ghi-ta phá cách nào nghe được, tôi đều luôn nhắm mắt và tưởng tượng mình lên sân khấu biểu diễn nó trước tiếng la hét của đám đông, người ta hoàn toàn mất trí trước những ngón đàn ngọt ngào của tôi. Sự tưởng tượng đó chiếm giữ tôi hàng giờ liền. Nó tiếp tục theo lên đại học, thậm chí ngay cả khi tôi đã bỏ trường nhạc và dừng chơi một cách nghiêm túc. Nhưng kể cả như thế thì việc liệu tôi có thể chơi nhạc trước đám đông đang la hét không chưa bao giờ là một câu hỏi, mà chỉ là khi nào. Tôi đang chờ đợi cơ hội của mình trước khi có thể đầu tư một lượng thời gian và sức lực đúng đắn để thoát khỏi tình trạng đó và biến nó thành hiện thực. Trước tiên tôi cần học xong đã. Sau đó tôi cần kiếm tiền. Sau đó nữa, tôi cần có thời gian. Sau đó… và sau nữa, chả có gì hết.
Dù tưởng tượng về điều đó hơn nửa cuộc đời mình, nhưng thực tế chưa bao giờ tới. Nó làm mất của tôi một thời gian dài và nhiều trải nghiệm tiêu cực để cuối cùng hiểu ra lý do tại sao: tôi đã không thực sự muốn điều đó.
Tôi thích kết quả - hình ảnh của tôi trên sân khấu, mọi người vỗ tay cổ vũ, khiến tôi sướng điên lên, rót cả tâm tình vào những gì tôi đang chơi – nhưng tôi không thích quá trình. Vì thế, tôi đã thất bại. Cứ lặp đi lặp lại. Chết tiệt, tôi thậm chí còn không cố gắng đủ nhiều để thất bại. Tôi hầu như đã chẳng cố gắng chút nào.
Luyện tập cực nhọc hằng ngày, đôn đáo tìm một nhóm và diễn tập, đau khổ kiếm hợp đồng biểu diễn, rồi khiến mọi người thực sự tới xem và quan tâm. Dây hỏng, tube amp (amp có đèn sáng khi diễn live trên sân khấu) bị bật ra, kéo lê 40 pound (khoảng hơn 18kg) thiết bị đến rồi về để tập dượt mà chẳng có ô tô. Giấc mơ cao như núi và phải trèo hàng dặm để tới đỉnh. Mất một thời gian dài tôi mới phát hiện ra mình không thích leo núi lắm. Tôi chỉ thích tưởng tượng với cái đỉnh.
Nền văn hóa của chúng ta nói với tôi rằng tự thân tôi đã thất bại theo cách nào đó, rằng tôi là một kẻ bỏ cuộc hay một kẻ thất bại. Chủ nghĩa self-help (trào lưu sách đưa ra những lời khuyên để người ta tự làm theo để phát triển bản thân, nổi lên từ những năm đầu thế kỷ 21 từ Mỹ, sau lan ra cả thế giới) sẽ bảo rằng tôi còn chẳng có đủ dũng khí, đủ kiên quyết hay tôi không đủ tin vào chính mình. Đám đông doanh nhân hay các tay khởi nghiệp sẽ nói tôi đã hèn nhát từ bỏ giấc mơ và chịu khuất phục trước những áp đặt xã hội thông thường. Tôi sẽ được yêu cầu phải quả quyết hoặc phải tham gia một nhóm hay theo một danh sách của bậc thầy nào đó, hoặc gì gì đó.
Sự thật thì còn xa mới hay ho bằng: tôi đã nghĩ mình muốn cái gì đó nhưng hóa ra không phải. Hết chuyện.
Tôi muốn phần thưởng chứ không phải đấu tranh. Tôi muốn kết quả chứ không phải quá trình. Tôi không thích chiến đấu mà chỉ thích chiến thắng. Mà đời thì không vận hành kiểu đó.
Việc bạn là ai được xác định dựa trên những giá trị mà bạn quyết chí tranh đấu vì nó. Người thích chiến đấu trong phòng gym sẽ có thân hình đẹp. Người thích những tuần làm việc dài và địa vị trên thang bậc công ty sẽ trèo lên đó. Người thích stress và sự bất định kiểu nghệ sĩ đói khát cuối cùng sẽ sống với nó và tạo ra nó.
Đây không phải là lời kêu gọi ý chí hay “gan góc” (từ gốc: grit). Đây cũng chẳng phải lời khuyên “có công mài sắt có ngày nên kim” (cụm từ gốc: no pain no gain).
Đây chỉ là thành phần đơn giản và cơ bản nhất của cuộc đời: những cuộc chiến đấu sẽ quyết định thành tựu của chúng ta. Thế nên hãy lựa chọn cuộc chiến thật khôn ngoan, bạn của tôi ạ.

Mark Manson
Trích trong cuốn The Subtle Art of Not Giving a Fuck: A Counterintuitive Guide to Living A Good Life

Thứ Tư, 24 tháng 5, 2017

Giá trị sống (3)



Thành công đến rồi đi, nhưng sự chính trực thì còn mãi

Nếu tôi chỉ được có một giá trị duy nhất để sống, đó sẽ là cái này: Thành công đến rồi đi, nhưng sự chính trực thì còn mãi. Chính trực (integrity) có nghĩa là làm điều đúng đắn mọi lúc và trong mọi trường hợp, dù có người quan sát hay không. Cần có lòng can đảm để làm điều đúng đắn, bất kể hậu quả là gì. Xây dựng danh tiếng chính trực mất nhiều năm, nhưng chỉ cần một giây sẽ mất, vì vậy đừng bao giờ cho phép bản thân làm những việc phá hủy sự chính trực của bạn.

Chúng ta đang sống trong một thế giới nơi tính chính trực không được nói đến đầy đủ. Chúng ta đang sống trong một thế giới nơi “kết quả biện minh cho phương tiện” đã trở thành trường học tư tưởng chấp nhận được đối với quá nhiều người. Người bán hàng hứa nhiều làm ít, miễn sao đủ doanh số hàng tháng. Các ứng cử viên phóng đại bản thân trong cuộc phỏng vấn vì họ rất cần một công việc. CEO nói quá mức thu nhập dự kiến vì không muốn ban giám đốc thay thế họ. Nhà doanh nghiệp nói quá dự toán vì muốn nhà đầu tư định giá cao nhất có thể. Nhà đầu tư định giá thấp hơn giá trị thực của công ty để thương lượng được giá tốt hơn trong thương vụ. Đại diện dịch vụ chăm sóc khách hàng che giấu lỗi của mình vì sợ khách hàng bỏ đi. Nhân viên báo “ốm” vì họ không còn ngày phép nào trong khi thực sự rất cần mua sắm Giáng Sinh. Danh sách này còn dài nữa, mỗi trường hợp người có hành vi gian lận đều tự nhủ rằng họ có lý do chính đáng cho việc tại sao đã thiếu trung thực.

Có vẻ như người ta có thể đạt được quyền lực một cách nhanh chóng và dễ dàng nếu họ quyết tâm đi tắt, hành động không cần những ràng buộc đạo đức. Gian dối có thể cung cấp sự hài lòng tức thời nhưng không bao giờ kéo dài. Tôi nghĩ tới một số ví dụ về những người không chính trực đã thành công, đã chiến thắng mà không bị lộ tẩy, những người tạo ra nhận thức sai lầm về con đường dẫn đến thành công chúng ta đang theo đuổi. Xét cho cùng, mỗi người trong số đó có thể đạt thành tựu họ muốn lúc này, nhưng không may, kết quả tạm thời đó có giá cao không tưởng với hậu quả to lớn. Họ đã mất khả năng được tin tưởng như một người chính trực – phẩm chất có giá trị nhất mà bất kỳ ai cũng có thể có trong đời. Lợi nhuận bằng đô la hay quyền lực chỉ là tạm thời, nhưng lợi nhuận trong một mạng lưới những người tin bạn là người chính trực thì là mãi mãi.

Mỗi người tin tưởng bạn sẽ truyền lời tin tưởng đó cho ít nhất một vài cộng sự của họ, tính từ chỉ nhân cách của bạn sẽ lan như cháy rừng. Giá trị của sự tín nhiệm những người khác dành cho bạn vượt xa bất cứ thứ gì có thể đo đếm được. Đối với doanh nhân, điều đó có nghĩa là nhà đầu tư sẵn sàng tin tường giao tiền của họ cho bạn. Đối với nhân viên, điều đó có nghĩa là người quản lý hay ông chủ sẵn sàng tin tưởng giao thêm trọng trách và cơ hội phát triển cho bạn. Đối với doanh nghiệp, điều đó có nghĩa là khách hàng tin tưởng đưa cho bạn càng nhiều thương vụ hơn. Đối với chính bản thân bạn, điều đó có nghĩa là có cả một đoàn người sẵn sàng đi xa hơn để giúp bạn vì họ biết giới thiệu bạn với người khác sẽ không bao giờ tổn hại đến danh tiếng chính trực của chính họ. Phải, giá trị của sự tín nhiệm người khác dành cho bạn vượt xa bất cứ điều gì có thể đo đếm được vì nó mang tới những cơ hội không giới hạn và khả năng không giới hạn.

Ngược lại với những người không được tin tưởng là người chính trực. Warrant Buffet, Chủ tịch và CEO của Berkshire Hathaway nói: “Lúc tìm người để tuyển dụng, hãy nhìn vào ba phẩm chất: chính trực, trí tuệ và năng lượng. Nếu không có cái đầu tiên, hai cái sau sẽ giết bạn.” Sự gian dối của một người rồi cuối cùng sẽ thình lình gây chuyện cho họ. Có lẽ không phải hôm nay, có lẽ không phải trong nhiều năm nữa, nhưng bạn có thể yên tâm rằng một lúc nào đó luôn luôn phải lĩnh đủ.

Lời khuyên dành cho những ai đang phấn đầu vì danh tiếng toàn vẹn: hãy tránh xa những người không đáng tin cậy. Đừng làm ăn với họ. Đừng cộng tác với họ. Đừng bào chữa cho họ. Đừng để bản thân bị dụ dỗ tin vào việc “họ có lẽ chỉ gian dối với người khác thôi, chứ họ không thể gian dối với mình”. Nếu ai đó gian dối trong một khía cạnh nào đó, đảm bảo với bạn rằng người đó sẽ còn gian dối trong nhiều khía cạnh khác. Bạn không thể loại bỏ ngay những hành động gian dối dù nhỏ nhất, ví dụ như ai đó lấy hai tờ báo trong quầy nhưng chỉ trả tiền cho một tờ. Cuối cùng, nếu một người không đáng tin trong những vấn đề đơn giản nhất thì làm sao họ có thể đáng tin để nắm giữ các hợp đồng kinh doanh dài và phức tạp?

Quan trọng là phải nhận ra người khác đều chú ý đến những người bạn lựa chọn để cộng tác, và chắc chắn họ sẽ đánh giá nhân cách của bạn thông qua nhân cách bạn bè bạn. Tại sao lại thế? Lời giải thích hay nhất là một câu trích cha tôi thường nói khi ông nhắc nhở tôi phải thận trọng với công ty tôi đang giữ: “Khi con nằm xuống với lũ chó, con sẽ bị bọ chó.” Rõ ràng chúng ta ngày càng trở nên giống những người vây xung quanh mình hằng ngày. Nếu bạn giao du với những người không trung thực và chỉ muốn đi tắt đón đầu, bạn chắc chắn sẽ thấy mình thoạt tiên đi theo khuôn mẫu duy trì hành vi đó, rồi dần dần chấp nhận hành vi đó, cuối cùng sử dụng hành vi đó. Nếu bạn muốn xây dựng danh tiếng là người chính trực thì hãy giao du với những người chính trực.

Có một chiếc đĩa trang trí trên tường trong văn phòng của tôi viết: “Hãy làm những gì đúng đắn, kết quả sẽ tới.” Đó là lời nhắc nhở mỗi ngày rằng thành công rồi sẽ đến và đi, nhưng sự chính trực thì còn mãi.

Amy Rees Anderson