Chương 14: Phiên Tòa Tử Thần
Bây giờ tấm rèm
được mở ra. Trước mặt chúng tôi hiện ra một căn phòng đào sâu vào theo độ dày của
bàn thờ, chính giữa có một ngai vàng, trên ngai vàng, một thân ảnh khoác trong
sóng cồn trắng xóa tuôn chảy từ đầu bệ đỡ tay ngai vàng xuống từng bậc cẩm thạch.
Chúng tôi không thể thấy gì nữa trong bóng tối ở nơi đó, ngoại trừ bên dưới các
nếp quần áo, Nhà Tiên Tri cầm trong tay một cây vương trượng bằng châu báu có
hình vòng thòng lọng.
Theo sự thôi
thúc nào đó, chúng tôi làm như Oros đã làm, tự quì lạy, và vẫn duy trì tư thế
quì ở đó. Cuối cùng chúng tôi nghe thấy tiếng leng keng như chuông ngân, nhìn
lên, thấy cây vương trượng hình chiếc trống đang chỉ về phía chúng tôi, được giữ
bằng cánh tay quấn vải. Rồi một giọng mong manh, rõ ràng vang lên, tôi nghĩ nó
hơi run rẩy. Giọng nói tiếng Hy Lạp, nhưng là thứ tiếng Hy Lạp thuần khiết hơn
rất nhiều so với khi mọi người sử dụng.
“Ta chào mừng
các ngươi, Những Kẻ Lang Thang, đã du hành từ rất xa tới thăm đền thờ cổ xưa nhất
này, dù mang đức tin khác, không cần xấu hổ khi tôn kính kẻ không có giá trị,
lúc này là Nhà Tiên Tri và người bảo vệ những bí ẩn. Giờ hãy đứng lên và đừng sợ
ta; không phải ta đã gửi Sứ Giả cùng các tôi tớ của ta tới dẫn các ngươi đến Điện
Thờ này sao?”
Chúng tôi từ từ
đứng dậy, và im lặng, không biết nói gì.
“Ta chào mừng
các ngươi, Những Kẻ Lang Thang,” giọng nói lặp lại. “Ngươi hãy nói cho ta” – và
cây vương trượng chỉ vào Leo – “ngươi gọi thế nào?”
“Tôi tên là Leo
Vincey,” cậu đáp.
“Leo Vincey! Ta
thích tên này, với ta, nó rất phù hợp với một người đàn ông đẹp trai. Còn
ngươi, bạn đồng hành của – Leo Vincey?”
“Tôi tên là
Horace Holly.”
“Vậy à. Thế thì
hãy nói cho ta, Leo Vincy và Horace Holly, các ngươi tới tìm kiếm thứ gì?”
Chúng tôi nhìn
nhau, và tôi nói – “Chuyện rất dài và ly kì. Kính thưa O – nhưng chúng tôi phải
gọi người thế nào?”
“Theo tên ta
mang ở nơi này, Hes.”
“Thưa O Hes,”
tôi nói, tự hỏi bà ấy còn mang tên gì ở những nơi khác nữa.
“Nhưng ta muốn
nghe câu chuyện,” bà ấy tiếp tục, tôi nghe giọng bà thật háo hức. “Không, không
cần toàn bộ trong đêm nay, vì ta biết cả hai ngươi đã mệt mỏi; chỉ một chút
thôi. Hỡi những Người Lạ, quả thật rất đơn điệu trong ngôi nhà trầm lắng này,
không trái tim nào chỉ gặm nhấm quá khứ, nếu có thứ như vậy. Vì thế ta hoan
nghênh câu chuyện mới mẻ từ thế giới bên ngoài. Hãy kể nó cho ta, ngươi, Leo,
thật ngắn gọn theo ý ngươi, hãy kể sự thật, vì trong Hiện Thân khi ta là Mục
Sư, không gì khác nữa được phép nói ra.”
“Thưa Tu Sĩ,” cậu
nói theo cách ngắn gọn, “Tôi xin tuân lệnh. Nhiều năm trước khi tôi còn trẻ, bạn
tôi, cha nuôi tôi và tôi, được các văn tự trong quá khứ dẫn dắt, đã du hành tới
một vùng đất hoang dã, và thấy ở đó một phụ nữ như thần thánh đã chinh phục được
thời gian.”
“Thế thì người
đó hẳn phải rất già và ghê tởm.”
“Thưa Tu Sĩ, tôi
đã bảo nàng ấy chinh phục được thời gian, không bị nó làm cho đau đớn, vì món
quà tuổi thanh xuân bất tử đã dành cho nàng. Nàng cũng không ghê tởm; nàng vô
cùng xinh đẹp.”
“Thế nên người lạ,
ngươi đã tôn thờ nàng ta vì nhan sắc của nàng, như cách một người đàn ông vẫn
làm.”
“Tôi không tôn
thờ nàng; tôi yêu nàng, đó là chuyện khác hẳn. Linh mục Oros đây tôn thờ người
ông ấy gọi là Đức Mẹ. Tôi đã yêu người phụ nữ bất tử đó.”
“Sau đó ngươi vẫn
còn yêu nàng ta. Nhưng không phải vậy, vì tình yêu đều phải chết.”
“Tôi vẫn yêu
nàng,” cậu trả lời, “dù nàng đã chết.”
“Tại sao, như thế
nào vậy? Ngươi đã nói nàng ta bất tử.”
“Không chừng
nàng chỉ có vẻ như đã chết; không chừng nàng đã biến đổi. Ít nhất tôi đã mất
nàng, và tôi tìm kiếm thứ tôi đã làm mất, và đã tìm kiếm rất nhiều năm rồi.”
“Tại sao ngươi
tìm nàng ta trong Ngọn Núi của ta, Leo Vincey?”
“Vì một ảo cảnh
đã dẫn tôi tới hỏi lời tư vấn của Nhà Tiên Tri. Tôi tới đây để tìm tin tức về
người yêu mình đã đánh mất, vì chỉ duy nhất nơi này mới có thể thấy.”
“Còn ngươi,
Holly, ngươi cũng yêu một phụ nữ bất tử, mà sự bất tử của nàng ta có vẻ cũng phải
cúi đầu trước tử thần?”
“Thưa Tu Sĩ,”
tôi trả lời, “Tôi đã tuyên thệ trước cuộc tìm kiếm này, con trai nuôi của tôi
đi đâu, tôi sẽ đi theo tới đó. Cậu ấy theo đuổi người đẹp đã chết – “
“Và ngươi đi
theo anh ta. Như vậy cả hai người các ngươi đều theo đuổi người đẹp như mọi đàn
ông từng làm, mù quáng và điên rồ.”
“Không,” tôi trả
lời, “nếu họ mù, nhan sắc sẽ vô ích với họ vì không thể nhìn thấy, nếu họ điên,
họ sẽ không biết khi nào từng thấy nhan sắc ấy. Tri thức và tầm nhìn thuộc về sự
khôn ngoan, thưa O Hes.”
“Ngươi có cái lưỡi
thật nhanh nhạy và sắc bén, Holly ạ,” bà ấy tự kiểm tra, rồi đột nhiên nói,
“Hãy nói cho ta, đầy tớ của ta, Khania của Kaloon đã tiếp đón các ngươi nồng
nhiệt ở thành phố của nàng ta, rồi nhanh chóng đưa các ngươi tới đây như ta đã
ra lệnh cho nàng chứ?”
“Chúng tôi không
biết nàng là đầy tớ của người,” tôi đáp. “Nồng nhiệt thì chúng tôi đã được hưởng
và dư thừa nữa, nhưng chúng tôi bị buộc phải nhanh chóng đi khỏi Cung Điện của
nàng tới đây do đàn chó săn tử thần của Khan, chồng nàng. Hãy nói cho chúng
tôi, thưa Tu Sĩ, người đã biết gì về hành trình này của chúng tôi.”
“Một chút,” bà ấy
trả lời bất cẩn. “Hơn ba tuần trăng trước, các gián điệp của ta đã nhìn thấy
các ngươi trên dãy núi phía xa, ban đêm đã bò tới rất gần các ngươi, nghe thấy
các ngươi nói chuyện về mục đích chuyến lang thang của các ngươi, sau đó nhanh
chóng trở lại báo cho ta. Do đó ta đã ra lệnh cho Khania Atene, và tên phù thủy
già, bác nàng ta, là Người Bảo Vệ Cánh Cổng, đi xuống cánh cổng cổ xưa của
Kaloon đón các ngươi và mang các ngươi tới đây nhanh nhất. Nhưng vì có những
người đã thiêu cháy đáp án cho câu đố, nên các người đã mất nhiều thời gian mới
tới đây được.”
“Chúng tôi đã tới
nhanh nhất trong khả năng của mình, thưa O Hes,” Leo nói; “và nếu gián điệp của
người có thể tới dãy núi nơi không ai tới được, tìm được đường xuống vực thẳm
ghê gớm đó, họ hẳn phải có khả năng nói cho người lý do chúng tôi chậm trễ. Vì
thế tôi cầu xin, đừng hỏi chúng tôi về chuyện đó nữa.”
“Không, ta sẽ hỏi
Atene, chắc chắn nàng sẽ trả lời ta thôi, vì nàng ta đang đứng đây,” Hesea đáp
bằng giọng lạnh lẽo. “Oros, hãy dẫy Khania tới đây, nhanh lên.”
Linh mục quay đi
và bước nhanh tới cánh cửa gỗ chúng tôi vừa đi vào đền thờ, và biến mất ở đó.
“Bây giờ,” Leo
căng thẳng nói với tôi trong bầu không khí yên ắng, bằng tiếng Anh, “bây giờ
cháu ước chúng ta ở một nơi khác, vì cháu nghĩ sẽ có rắc rối.”
“Bác không nghĩ
thế, bác chắc đấy,” tôi trả lời; “nhưng càng nhiều càng tốt, vì hết rắc rối có
thể tới sự thật, thứ chúng ta vô cùng cần.” Rồi tôi dừng lại, nghĩ rằng người
phụ nữ kỳ lạ trước mặt chúng tôi đã nói các gián điệp của bà ta tình cờ nghe được
cuộc nói chuyện của chúng tôi trên dãy núi, nơi chúng tôi không nói gì ngoài tiếng
Anh.
Như thể chứng
minh tôi thật khôn ngoan, Hesea lặng lẽ lặp lại theo tôi – “Ngươi đã có kinh
nghiệm, Holly, hết rắc rối sẽ tới sự thật, như hết rượu.”
Rồi sau đó bà ấy
im lặng, không cần nói, tôi cũng không theo đuổi cuộc trò chuyện.
Cánh cửa bật mở,
một đoàn rước mặc đồ đen đi tới, Pháp Sư Simbri theo cùng, ông ấy đi trước quan
tài, trên đó thi thể Khan đang nằm, được tám tu sĩ khiêng. Phía sau là Atene, bọc
kín người trong mạng che màu đen từ đầu đến chân, sau cô là một đoàn tu sĩ nữa.
Trước bàn thờ, quan tài được đặt xuống và các tu sĩ lui ra, để lại Atene và bác
cô đứng bên cái xác.
“Kẻ nô lệ của ta
đang tìm kiếm thứ gì, hỡi Khania của Kaloon?” Hesea hỏi bằng giọng lạnh lẽo.
Giờ Atene đã tiến
lên và quì gối, nhưng vẫn rất thanh lịch.
“Thưa Đức Mẹ cổ
xưa, Đức Mẹ trường thọ, ta thể hiện lòng tôn kính trước Nghi Lễ thần thánh của
người, như tổ tiên ta đã làm bao thế hệ qua,” rồi cô lại khẽ nhún gối cúi chào.
“Thưa Đức Mẹ, người đàn ông đã chết này yêu cầu người quyền được chôn cất trong
lửa của Ngọn Núi thiêng mà từ xưa, những người hoàng tộc qua đời trước chàng đã
được đối xử như vậy.”
“Chuyện đó đã từng
như ngươi nói,” Hesea trả lời, “do các nữ tu sĩ ngồi vị trí này trước ta làm,
nên sẽ không từ chối phu quân đã chết của ngươi – hay chính ngươi, Atene – khi
thời khắc của ngươi tới.”
“Ta xin đa tạ
người, hỡi O Hes, ta cũng cầu xin hiệp ước này nên được viết ra, vì sương tuyết
năm tháng đã tụ tập trên đầu tôn kính của người, và người sẽ sớm phải rời bỏ
chúng ta một thời gian. Do đó hãy ra lệnh cho kẻ làm luật cuả người ghi lại,
thì các Hesea cai trị đời sau của người sẽ thực hiện đúng theo nó.”
“Ngừng,” Hesea
nói, “ngừng rót sự cay đắng của ngươi ra, dám ra lệnh cho bề trên tôn kính của
ngươi, ôi! Ngươi, đứa trẻ ngu ngốc kia, ngươi không biết nhưng ngày mai ngọn lửa
sẽ đòi lại tuổi trẻ và nhan sắc mong manh từng là niềm tự hào của ngươi. Ta ra
lệnh ngươi ngừng lại, hãy nói cho ta làm sao cái chết tìm đến vị phu quân của
ngươi?”
“Hãy hỏi những kẻ
lang thang kia, đó là những vị khách của chàng, vì máu của chàng đã rơi trên đầu
họ và than khóc đòi báo thù từ tay người.”
“Tôi đã giết hắn,”
Leo nói, “để cứu mạng mình. Hắn cố săn đuổi chúng tôi cùng bầy chó của hắn, vẫn
còn dấu tích của chúng,” và cậu chỉ vào cánh tay tôi. “Linh mục Oros biết, vì
ông ấy đã băng vết thương.”
“Chuyện đã xảy
ra thế nào?” Hesea hỏi Atene.
“Phu quân của ta
bị điên,” cô mạnh dạn trả lời, “và đó là môn thể thao độc ác của chàng.”
“Vậy à. Phu quân
của ngươi cũng rất ghen tuông phải không? Không, hãy giữ lại sai lầm ta thấy
đang hiện lên trên môi ngươi. Leo Vincey, hãy trả lời ta. Nhưng ta sẽ không yêu
cầu ngươi vạch trần bí mật của người phụ nữ đã trao tình yêu cho ngươi. Ngươi,
Holly, hãy nói đi, hãy nói sự thật.”
“Chuyện là thế
này, thưa O Hes,” tôi trả lời. “Người phụ nữ kia và bác nàng, Pháp Sư Simbri đã
cứu chúng tôi thoát chết trên dòng sông bên các vách đá của Kaloon. Sau đó
chúng tôi bị ốm, họ đối xử với chúng tôi rất tốt, nhưng Khania bắt đầu say mê
con trai nuôi của tôi.”
Lúc này thân ảnh
vị Tu Sĩ run rẩy bên dưới lớp vải bọc mỏng như sương, Giọng Nói hỏi – “và con
trai nuôi của ngươi cũng bắt đầu say mê Khania, như một người đàn ông thường
làm, vì không nghi ngờ gì, nàng ta rất xinh đẹp?”
“Cậu ấy có thể tự
mình trả lời câu hỏi này, thưa O Hes. Tất cả những gì tôi biết là cậu ấy đã cố
gắng trốn khỏi nàng ấy, cuối cùng, nàng ấy cho cậu một ngày để lựa chọn giữa
cái chết và cưới nàng sau khi chồng nàng chết. Vì thế, nhờ sự trợ giúp của
Khan, chồng nàng, người rất ghen tuông với cậu ấy, chúng tôi đã chạy trốn theo
hướng Ngọn Núi, nơi chúng tôi khao khát được tới. Sau đó Khan xua lũ chó săn đuổi
theo chúng tôi, vì hắn điên cuồng và mang trái tim lầm lỗi. Chúng tôi đã giết hắn
và đi tiếp, mặc dù người phụ nữ này và bác nàng muốn ngăn cản, tới Cung Điện
Xương Người chúng tôi gặp một người dẫn đường che mặt, người đó dẫn chúng tôi
lên Ngọn Núi và đã hai lần cứu chúng tôi thoát chết. Đó là toàn bộ câu chuyện.”
“Người phụ nữ
kia, ngươi muốn nói gì?” Hesea hỏi bằng giọng đầy đe dọa.
“Một chút thôi,”
Atene trả lời không do dự. “Bao năm qua ta bị ràng buộc với một tên điên và vũ
phu, nếu sự yêu thích của ta hướng về người đàn ông này và sự yêu thích của
chàng hướng về ta – phải, Mẹ Tự Nhiên đã nói với chúng ta, thế thôi. Sau đó có
lẽ chàng sợ sự trả thù của Rassen, hay chính tên Holly này, kẻ ta nghĩ bầy chó
săn hẳn phải xé tan thành từng khúc, hắn đã sợ hãi. Vì thế họ cố trốn thoát khỏi
vùng đất, và chừng như lang thang tới Ngọn Núi của người. Nhưng ta rất khó chịu
khi nói về chuyện này, xin người hay để ta đi nghỉ ngơi trước nghi lễ ngày
mai.”
“Ngươi đã nói,
Atene,” Hesea nói, “rằng Mẹ Tự Nhiên đã nói với người đàn ông này và ngươi, và
trái tim hắn là của ngươi; nhưng vì sợ sự trả thù của phu quân ngươi, hắn đã chạy
trốn khỏi ngươi, hắn có vẻ không phải kẻ hèn nhát. Hãy nói cho ta, lọn tóc hắn
giấu trong túi da trước ngực chính là vật làm tin của ngươi cho tình yêu với hắn
ư?”
“Ta không biết
gì về thứ chàng giấu trong túi da,” Khania buồn bã trả lời.
“Nhưng trong
ngôi nhà Cánh Cổng đằng kia, khi hắn ốm yếu nằm đó, hắn đã đưa lọn tóc ra so
sánh với tóc của chính ngươi – a, giờ nhớ ra chưa?”
“Đúng vậy, thưa
O Hes, chàng đã nói cho người tất cả bí mật của chúng ta, dù hầu hết bọn đàn
ông đều che dấu như thế trong ngực;” và cô khinh bỉ nhìn Leo.
“Tôi không nói
gì cho bà ta về chuyện này, Khania,” Leo nói bằng giọng tức giận.
“Không, ngươi đã
không nói gì với ta, Kẻ Lang Thang, trí khôn quan sát đã nói cho ta. Ôi, ngươi
nghĩ xem, Atene, ngươi có thể che dấu sự thật khỏi Hesea của Ngọn Núi nhìn thấu
vạn sự sao? Nếu vậy, thật lãng phí hơi thở của ngươi rồi, vì ta biết tất cả, và
biết ngay từ đầu. Ta bỏ qua việc ngươi không tuân lệnh; ta cũng không để ý đến
các tin tức giả của ngươi. Vì mục đích của mình, đối với ta, thời gian là vô
nghĩa, ta chịu đựng được cả việc ngươi giữ những người này, các vị khách của
ta, như tù nhân của ngươi, trong khi ngươi cố đe dọa và ép buộc họ để giành một
tình yêu bị từ chối.”
Bà ấy dừng lại,
rồi lại tiếp tục đầy lạnh lùng: “Người phụ nữ kia, ta nói cho ngươi biết, để thực
hiện tội lỗi của ngươi, ngươi thậm chí dám nói dối ta ở nơi này, trong Điện Thờ
linh thiêng của ta.”
“Nếu vậy thì
sao?” Câu trả lời mạnh mẽ vang lên. “Người cũng yêu người đàn ông này sao?
Không, thật quái đản. Mẹ Tự Nhiên sẽ than khóc vì báng bổ. Ôi! Đừng run rẩy vì
tức giận. Hỡi Hes, ta biết những quyền năng xấu xa của người, nhưng ta cũng biết
rằng, ta là khách của người, ở nơi linh thiêng này, dưới biểu tượng Tình Yêu
vĩnh hằng đằng kia, người sẽ không muốn có đổ máu. Hơn nữa, người không thể làm
hại ta, hỡi Hes, người cũng chỉ ngang bằng với ta thôi.”
“Atene,” Giọng
Nói đáp lại chừng mực, “nếu ta muốn thế, ta có thể tiêu diệt ngươi dù ngươi ở
đâu. Nhưng ngươi nói đúng, ta sẽ không làm hại ngươi, kẻ tôi tớ vô đạo của ta. Mệnh
lệnh của ta không truyền đến cho ngươi qua kẻ nghiên cứu các vì sao đằng kia,
bác ngươi, yêu cầu gặp các vị khách này và đưa họ đến ngay đền thờ của ta sao?
Hãy nói cho ta, vì ta muốn biết, làm sao ngươi không tuân lệnh ta?”
“Sẽ như người muốn,”
Atene trả lời bằng một giọng mới mẻ và nghiêm túc, giờ không còn sự cay đắng và
giả dối. “Ta không tuân lệnh người vì người đàn ông kia không phải là của người,
mà là của ta, chứ không phải của bất kì phụ nữ nào khác; vì ta yêu chàng và đã
yêu chàng từ rất xa xưa. Đúng, ngay từ lần đầu linh hồn chúng ta đi vào cuộc đời,
ta đã yêu chàng, dù ta không biết như thế nào, ở đâu và khi nào có chuyện đó.
Vì thế ta tới bên người, Đức Mẹ của Những Điều Bí Ẩn, Người Bảo Vệ các bí mật
trong quá khứ, để biết sự thật. Ít ra người sẽ không thể nói dối trước bàn thờ
của chính người, và ta cầu xin người, nhân danh Quyền Năng người cũng phải có
trách nhiệm, người hãy trả lời ta bây giờ ở đây đi.”
“Người đàn ông
mà ta khao khát này là ai? Chàng là gì với ta? Chàng là gì với người? Hãy nói
đi, thưa O, Nhà Tiên Tri, hãy làm rõ điều bí ẩn này. Hãy nói đi, ta ra lệnh đấy,
dù sau này người giết ta – nếu người có thể.”
“Phải, hãy nói
đi! Nói đi!” Leo nói, “vì tôi cũng hồi hộp đến đau đớn. Tôi cũng hoang mang
trong đống ký ức và mang theo cả hy vọng cùng sợ hãi.”
Tôi cũng lặp lại,
“Hãy nói đi!”
“Leo Vincey,”
Hesea nói, sau khi suy nghĩ một lúc, “ngươi tin ta là ai rồi đúng không?”
“Tôi tin,” cậu
trang trọng trả lời, “rằng người là Ayesha, tôi đã bị chết trong tay người từ
xa xưa ở Khu hang động Kôr, Châu Phi. Tôi tin người là Ayesha, không đầy hai
mươi năm trước tôi đã gặp và yêu ở chính Khu Hang Động Kôr đó, rồi lại nhìn người
chết thảm hại ở đó và thề rằng người sẽ trở lại.”
“Xem kìa, phải
điên rồ đến mức nào mới có thể làm một người lạc lối,” Atene ngắt lời một cách
đắc thắng. “’Không đầy hai mươi năm trước,’ chàng đã nói thế, trong khi ta biết
rõ rằng hơn tám mươi mùa hè qua kể từ lúc ông của ta còn trẻ, đã thấy chính vị
nữ tu sĩ này trên ngai vàng của Đức Mẹ.”
“Còn ngươi tin
ta là ai, hỡi O Holly?” Tu Sĩ hỏi, không chú ý đến lời của Khania.
“Những gì cậu ấy
tin, tôi đều tin,” tôi trả lời. “Người chết biến thành người sống – thi thoảng.
Nhưng chỉ duy nhất người biết sự thật, và chỉ nhờ người, sự thật mới được tiết
lộ.”
“Đúng,” bà ấy
nói, như thể đăm chiêu suy nghĩ, “người chết biến thành người sống – thi thoảng
– trong hình hài khác, và có lẽ ta biết sự thật. Ngày mai khi thi thể kia được
mang lên cao để mai táng, chúng ta sẽ nói lại chuyện này. Giờ tất cả các ngươi
hãy đi nghỉ đi, hãy chuẩn bị đối mặt với điều đáng sợ - Sự Thật.”
Trong lúc Hesea
vẫn nói, tấm rèm bạc đong đưa đi về vị trí ban đầu một cách thần bí như khi
chúng được vén lên. Rồi như thể được ra hiệu, các tu sĩ áo đen tiến vào. Vây
quanh Atene, họ đưa cô ấy ra khỏi Điện Thờ, đi cùng cô là bác cô, vị Pháp Sư,
theo tôi dường như ông ấy mệt mỏi hoặc sợ hãi đến mức khó có thể đứng trên đôi
chân mình, nhưng vẫn đứng vững, nhấp nháy đôi mắt mờ đục như thể ánh sáng làm
ông bàng hoàng. Khi họ đi rồi, các nam nữ tu sĩ ban đầu xếp hàng quanh tường,
cách xa để không nghe được cuộc nói chuyện của chúng tôi, đã tập hợp thành đoàn
riêng rẽ, vẫn tụng kinh và đi mất, bỏ lại chúng tôi cùng Oros và thi thể của
Khan, vẫn nằm ở nơi được đặt xuống.
Giờ vị linh mục
đứng đầu Oros vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đi theo ông ấy, và chúng tôi đi.
Tôi cũng không hối tiếc khi rời khỏi nơi này, vì vẻ cô đơn chết chóc của nó –
thật kỳ lạ, được tăng lên theo dòng lũ ánh sáng tràn ngập; vẻ cô đơn tụ tập lại
và thể hiện trên thân ảnh khủng khiếp nằm dài trên quan tài, áp bức và xâm chiếm
chúng tôi, khiến dây thần kinh chúng tôi vỡ ra trước những gì vừa trải qua. Tôi
thật biết ơn khi đi qua khỏi các gian ngang, xuống gian giữa của giáo đường
mênh mông, chúng tôi đến cánh cửa sắt, lối đi bằng đá, rồi ra cổng ngoài trước
đó đã mở ra để chúng tôi qua, cuối cùng hòa vào không khí đêm ngọt ngào lạnh
giá của thời khắc trước bình minh.
Oros dẫn chúng
tôi tới một ngôi nhà được xây dựng chắc chắn và đầy đủ nội thất, theo lệnh của
ông, như người đang mơ, chúng tôi uống chút chất lỏng ông đưa cho. Tôi nghĩ đồ
uống đó là thuốc mê, ít ra sau khi nuốt nó, tôi không nhớ gì nữa cho đến khi tỉnh
dậy thấy mình nằm trên một cái giường và cảm thấy khỏe mạnh, thư thái kỳ lạ.
Chuyện này thật ly kì, vì ngọn đèn cháy trong phòng cho tôi biết trời vẫn tối,
nên tôi có thể nghỉ ngơi thêm chút nữa.
Tôi cố ngủ lại,
nhưng không thể, vì vậy rơi vào trầm tư tới khi tôi mệt mỏi vì việc đó. Những
suy nghĩ đó không giúp gì cho tôi, không gì có thể giúp được, ngoại trừ sự thật,
“điều đáng sợ”, như lời vị Nữ Tu Sĩ che mặt đã gọi thế.
Ôi! Chuyện gì
đây nếu bà ta không phải là Ayesha mà chúng tôi muốn, mà là “điều đáng sợ” nào
đó? Những lời ám chỉ của Khania và sự táo bạo của cô ấy có ý nghĩa gì, chắc được
truyền cảm hứng từ sức mạnh bí ẩn nào đó chứ? Chuyện gì nếu – không, không thể
- tôi muốn ngồi dậy và bó lại cánh tay. Hoặc tôi muốn đánh thức Leo và bảo cậu
bó lại nó – bất kỳ việc gì chiếm giữ tâm trí tôi tới giờ đã định, khi đó chúng
tôi sẽ biết – tốt nhất – hoặc tệ nhất.
Tôi ngồi dậy
trên giường và nhìn thân ảnh tiến đến trước tôi. Đó là Oros, đang cầm cây đèn
trên tay.
“Ngươi đã ngủ rất
lâu, anh bạn Holly thân mến ạ,” ông nói, “giờ đến lúc dậy rồi.”
“Lâu ư?” tôi gắt
gỏng nói. “Làm sao có thể thế được, trời vẫn còn tối đấy thôi?”
“Vì, anh bạn ạ,
bóng tối là của một đêm mới. Nhiều giờ đã trôi qua kể từ khi ngươi nằm xuống
giường này. Đúng, ngươi thật khôn ngoan khi nghỉ ngơi trong lúc còn có thể, vì
ai biết khi nào ngươi sẽ lại ngủ tiếp chứ! Đi nào, để ta rửa tay cho ngươi.”
“Hãy nói cho
tôi,” tôi ngắt lời – “Không, anh bạn,” ông ta kiên quyết chặn lời tôi, “Ta sẽ
không kể gì cho ngươi cả, trừ việc ngươi phải nhanh chóng có mặt tại đám tang của
Khan, và không chừng sẽ biết được đáp án cho các câu hỏi của ngươi.”
Mười phút sau,
ông ấy dẫn tôi tới phòng ăn của ngôi nhà, tôi thấy Leo đã ăn mặc tươm tất, vì Oros
đã đánh thức cậu trước khi tới chỗ tôi, và ra lệnh cậu tự chuẩn bị. Oros kể cho
chúng tôi rằng Hesea không chịu nổi khi bị chúng tôi làm phiền tới khi màn đêm
lại tới lần nữa, kể từ đêm đó. Vì thế hiện giờ chúng tôi mới bắt đầu.
Chúng tôi lại một
lần nữa được dẫn tới khán phòng lửa chiếu sáng, rồi tới khu tụng niệm hình vòng
thòng lọng. Giờ chỗ này đang trống không, cả cái xác của Khan cũng biến mất,
không còn vị Tiên Tri quấn vải ngồi trong điện thờ, vì tấm rèm bạc đã được rút
ra, và chúng tôi thấy nó trống không.
“Đức Mẹ đã đi
ban vinh dự cho người chết, theo phong tục cổ xưa,” Oros giải thích cho chúng
tôi.
Rồi chúng tôi đi
qua ban thờ, sau bức tượng thấy một cánh cửa trên tường đá của khu tụng niệm,
ngoài cánh cửa có một lối đi, một khán phòng như căn nhà, vì mọi cánh cửa trong
đó đều mở ra, dẫn tới các phòng. Ở đó, người dẫn đường nói cho chúng tôi, là chỗ
ở của Hesea và các hầu gái của bà. Ông ấy nói thêm, chúng chạy ra tận sườn Ngọn
Núi và có cửa sổ mở ra khu vườn để ánh sáng và không khí đi vào. Trong phòng,
sáu tu sĩ đang đợi, mỗi người mang một bó đuốc dưới tay và giữ một ngọn đèn chiếu
sáng trên bàn tay.
“Con đường chúng
ta đi xuyên qua bóng tối,” Oros nói, “dù ban ngày chúng ta có thể trèo trên tuyết
bên ngoài, nhưng vào ban đêm chuyện này rất nguy hiểm.”
Rồi lấy bó đuốc,
ông ấy châm chúng vào một cây đèn và đưa cho chúng tôi mỗi người một bó.
Giờ chúng tôi bắt
đầu trèo. Chúng tôi đi lên những hành lang dốc đứng vô tận, được đào vào đá tảng
của Ngọn Núi nhờ công sức khó tin của các tín đồ thờ lửa thời nguyên thủy. Với
tôi, dường như chúng kéo dài hàng dặm, quả thực là vậy, vì dù sườn núi dốc
thoai thoải, nhưng chúng tôi vẫn mất hơn một giờ mới trèo lên được. Cuối cùng
chúng tôi tới chân một cầu thang lớn.
“Dừng lại đây một
lúc, chàng trai,” Oros nói, cúi đầu trước Leo với vẻ cung kính mà ông đã thể hiện
ngay từ đầu, “vì cầu thang này rất dốc và dài. Giờ chúng ta đang đứng trên miệng
trên cùng của Ngọn Núi, và sắp trèo lên cây cột to lớn có hình thòng lọng nhô
lên phía trên kia.”
Thế là chúng tôi
ngồi xuống nơi như mái vòm, để luồng không khí sắc bén vội vã qua lại giữa các
lối đi chơi đùa với chúng tôi, vì chúng tôi đều bị hun nóng trên đường đi lên
các hành lang kia. Khi ngồi đó, tôi nghe thấy một âm thanh gầm rú và hỏi Oros
đó là gì. Ông trả lời, chúng tôi đang ở rất gần miệng núi lửa, thứ chúng tôi
nghe thấy xuyên qua lớp đá dày là tiếng xô đẩy của lửa vĩnh cửu trong lòng nó.
Rồi hành trình đi lên tiếp tục.
Không nguy hiểm
dù rất mệt mỏi, vì có gần sáu trăm bậc. Việc trèo lên các lối đi nhắc tôi nhớ tới
hành lang Kim Tự Tháp Vĩ Đại kéo dài hàng furlong; lối đi lên cây cột trụ giống
như đi lên tháp chuông nhà thờ, hay đúng hơn là vài ngọn tháp chất đống lên
nhau, cái này nối tiếp cái kia.
Nghỉ ngơi hết lần
này đến lần khác, chúng tôi kéo lê thân mình lên các bậc thang dốc đứng, mỗi bậc
cao một bàn chân, tới khi trèo qua cây cột trụ, chỉ còn vòng dây thòng lọng.
Chúng tôi vẫn đi lên tiếp, Oros dẫn đường, tôi rất vui vì cầu thang vẫn chạy
trong lòng đá, tôi có thể cảm nhận được con mắt hùng mạnh của cái cột tháp nhọn
run rẩy trong từng trận gió mạnh quét qua bên ngoài.
Cuối cùng chúng
tôi đã nhìn thấy ánh sáng phía trước, cách khoảng hai mươi bước nổi trên một nền
phẳng. Khi Leo vốn đi trước tôi, bước ra khỏi cầu thang, tôi thấy Oros và vị tu
sĩ khác giữ lấy tay cậu, nói cho cậu các yêu cầu họ sắp làm.
“Không sao,” cậu
kêu lên và quay lại, “ngoại trừ nơi này thật chóng mặt, họ sợ cháu sẽ rơi xuống.
Hãy để tâm vào việc bác đi thế nào, bác Horace,” và cậu giơ tay cho tôi nắm.
Giờ tôi đã nhìn
rõ đường hầm, tôi tin nếu không có bàn tay đó, tôi đã rơi xuống sàn đá, cảnh tượng
trước mắt dường như làm não tôi tê liệt. Đừng băn khoăn nữa, vì tôi nghi ngờ thế
gian liệu còn có thể trình diễn một cảnh khác tương tự được sao.
Chúng tôi đứng
trên đỉnh vòng thòng lọng, không gian bằng đá bằng phẳng dài khoảng tám mươi
thước, rộng ba mươi thước, bầu trời sao rải rác phía trên. Ở phía nam, khoảng
hai mươi nghìn feet bên dưới, Đồng Bằng Kaloon mờ nhạt trải dài, phía đông và
phía tây đều là bờ vai phủ đầy tuyết của đỉnh núi và các sườn dốc màu nâu trải
rộng bên dưới. Phía bắc là cảnh tượng khác hẳn, vô cùng khiếp sợ. Nơi đó, ngay
dưới chúng tôi, vì cây cột trụ bị cong vào trong, là cái miệng rộng của ngọn
núi lửa, tâm của nó là một hồ nước rộng bốc lửa, nổi bọt và hoa lửa phụt lên ngẫu
nhiên hay bắn ra, quằn quại, xoắn xít như biển cả đang giận dữ.
Trên bề mặt hồ,
khói và khí bay lên tạo ra lửa khi chúng nổi lên và hòa lẫn với nhau, tạo ra cột
ánh sáng sống động khổng lồ. Ngay đối diện chúng tôi, cột lửa rực cháy, ngọn lửa
đi qua con mắt của lỗ kim trên cây cột trụ, bên dưới chúng tôi, phóng ra một
chùm rực rỡ chạy dọc đất nước Kaloon, dọc dãy núi bên ngoài, rồi biến mất nơi
chân trời.
Gió thổi từ nam
sang bắc, bị hút về phía cái miệng nóng bỏng của ngọn núi lửa, hơi thở khốc liệt
của nó la hét xuyên qua con mắt trên cột trụ, chống lại bề mặt gồ ghề của nó,
luồn qua đỉnh cột lửa, như cơn lốc trên đại dương phải uốn mình trước trận gió
lớn, và bị xé tan thành từng mảnh lửa, bị gió cuốn đi như những cánh buồm tơi tả
từ chiếc thuyền đang cháy.
Nếu không nhờ
gió mạnh và ổn định, không sinh vật nào có thể sống nổi trên cột trụ, vì hơi bốc
lên sẽ đầu độc chúng; nhưng gió mạnh không ngừng đã lái chúng về hướng bắc. Vì
thế, trong không gian mỏng manh nơi băng giá này, sức nóng không quá lớn và có
thể chịu đựng được.
Kinh hoàng trước
khung cảnh tuyệt vời đó, nó dường như phù hợp với vẻ khủng bố trong Hầm Lò hơn
là với nơi trần thế này của chúng ta, sợ gió xoáy quay cuồng tôi như chiếc lá
úa rơi xuống cái vực sáng rực bên dưới, tôi khuỵu gối xuống, chống bàn tay lành
lặn lên, hét lên với Leo hãy làm tương tự, và nhìn lại mình. Giờ tôi quan sát
thấy các hàng tu sĩ khoác áo choàng tuyệt đẹp, quì trên mặt đá và tham gia cầu
nguyện, nhưng Đức Mẹ Hes, hay Atene, hay cái xác của Khan, tôi chẳng thấy ai
trong số đó cả.
Khi tôi đang băn
khoăn tự hỏi họ có thể ở đâu, Oros, người không bị ảnh hưởng bởi cảnh tượng
kinh hãi đó, cùng mấy tu sĩ theo hầu vây quanh chúng tôi và đưa chúng tôi theo
lối đi khá nguy hiểm chạy ven cạnh tảng đá đã mài tròn. Vài bước đi xuống,
chúng tôi thấy mình đang ở dưới mái che, gió mạnh gầm rú phía trên đầu chúng
tôi. Hơn hai mươi bước nữa, chúng tôi tới một khe cắt thụt vào, tôi nghĩ là do
bàn tay con người, nó nằm trên bề mặt vòng thòng lọng, để trần nham thạch chiếu
lên nửa chiều rộng của nó.
Khe cắt này, hay
căn phòng bằng đá, đủ lớn để che cho một số người đông đảo, chúng tôi tới đó an
toàn, mới phát hiện ra chỗ này đã có người. Ngồi trên một cái ghế đẽo từ đá là
Hesea, khoác áo choàng thêu hoa màu tím bên ngoài lớp quần áo mỏng như sương phủ
từ đầu đến chân. Đứng gần bà là Khania Atene và bác cô, vị Pháp Sư già, trông
có vẻ ốm yếu, không thoải mái, và cuối cùng, nằm dài trên chiếc giường tang lễ,
ánh sáng khốc liệt đập vào thân hình và gương mặt cứng ngắc, là Rassen, vị Khan
đã chết.
Chúng tôi tiến tới
ngai vàng, cúi chào bà ấy đang ngồi đó. Hesea ngẩng đầu trùm mũ lên, dường như
vừa gục xuống trước ngực như thể miên man suy nghĩ, rồi ra lệnh cho linh mục
Oros. Vì ở chỗ này, các bức tường đá rất lớn, nên rất yên tĩnh và mọi người có
thể nghe thấy nhau nói chuyện.
“Ngươi đã mang họ
tới đây an toàn, người đầy tớ của ta,” bà nói, “và ta rất hài lòng, vì với những
người không biết, con đường này rất đáng sợ. Các vị khách của ta, các ngươi có
nghe nói gì về hố chôn cất lộ thiên cho Các Con Của Hes không?”
“Đức tin nói cho
chúng tôi đó là địa ngục, thưa quí bà,” Leo trả lời, “và tôi nghĩ cái vạc đằng
kia giống như miệng của nó.”
“Không,” bà ấy
trả lời, “không có địa ngục, ngoại trừ từ đời này sang đời khác, chúng ta tạo
hình bản thân cho thích hợp trong vòng tròn của ngôi sao nhỏ này. Leo Vincey,
ta nói cho ngươi biết, địa ngục là đây, đúng, là đây,” và bà ấy vỗ tay lên ngực
mình, trong khi đầu lại rũ xuống phía trước lần nữa như thể cúi xuống dưới sức
nặng của khổ đau âm thầm.
Bà ấy giữ tư thế
đó một lúc, rồi ngẩng đầu lên, và nói tiếp – “Nửa đêm là quá khứ, rất nhiều
chuyện phải làm và chịu đựng trước khi bình minh lên. Đúng, bóng tối sẽ lại trở
thành sáng, hoặc không chừng ánh sáng rồi lại đến bóng tối vĩnh hằng.”
“Người phụ nữ
hoàng tộc kia,” bà ấy tiếp tục, hướng về phía Atene, “theo quyền lợi của anh
ta, ngươi đã đưa vị phu quân vừa chết của mình tới đây mai tang ở nơi linh
thiêng này, nơi tro tàn của tất cả những người đi trước anh ta đã thành nhiên
liệu cho ngọn lửa thần thánh. Linh mục Oros, ngươi hãy gọi Nguyên Cáo và kẻ biện
hộ ra đây, và hãy để những cuốn sách mở ra, ta sẽ thông qua phán xét với người
chết, gọi linh hồn anh ta sống lại lần nữa, hoặc cầu nguyện để hơi thở sự sống
rời bỏ anh ta.”
“Linh mục, ta tuyên bố, Phiên Tòa Tử Thần bắt đầu.”
Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
Dịch bởi: Cheryl Pham