Thứ Tư, 15 tháng 7, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 14



Chương 14: Phiên Tòa Tử Thần

Bây giờ tấm rèm được mở ra. Trước mặt chúng tôi hiện ra một căn phòng đào sâu vào theo độ dày của bàn thờ, chính giữa có một ngai vàng, trên ngai vàng, một thân ảnh khoác trong sóng cồn trắng xóa tuôn chảy từ đầu bệ đỡ tay ngai vàng xuống từng bậc cẩm thạch. Chúng tôi không thể thấy gì nữa trong bóng tối ở nơi đó, ngoại trừ bên dưới các nếp quần áo, Nhà Tiên Tri cầm trong tay một cây vương trượng bằng châu báu có hình vòng thòng lọng.
Theo sự thôi thúc nào đó, chúng tôi làm như Oros đã làm, tự quì lạy, và vẫn duy trì tư thế quì ở đó. Cuối cùng chúng tôi nghe thấy tiếng leng keng như chuông ngân, nhìn lên, thấy cây vương trượng hình chiếc trống đang chỉ về phía chúng tôi, được giữ bằng cánh tay quấn vải. Rồi một giọng mong manh, rõ ràng vang lên, tôi nghĩ nó hơi run rẩy. Giọng nói tiếng Hy Lạp, nhưng là thứ tiếng Hy Lạp thuần khiết hơn rất nhiều so với khi mọi người sử dụng.
“Ta chào mừng các ngươi, Những Kẻ Lang Thang, đã du hành từ rất xa tới thăm đền thờ cổ xưa nhất này, dù mang đức tin khác, không cần xấu hổ khi tôn kính kẻ không có giá trị, lúc này là Nhà Tiên Tri và người bảo vệ những bí ẩn. Giờ hãy đứng lên và đừng sợ ta; không phải ta đã gửi Sứ Giả cùng các tôi tớ của ta tới dẫn các ngươi đến Điện Thờ này sao?”
Chúng tôi từ từ đứng dậy, và im lặng, không biết nói gì.
“Ta chào mừng các ngươi, Những Kẻ Lang Thang,” giọng nói lặp lại. “Ngươi hãy nói cho ta” – và cây vương trượng chỉ vào Leo – “ngươi gọi thế nào?”
“Tôi tên là Leo Vincey,” cậu đáp.
“Leo Vincey! Ta thích tên này, với ta, nó rất phù hợp với một người đàn ông đẹp trai. Còn ngươi, bạn đồng hành của – Leo Vincey?”
“Tôi tên là Horace Holly.”
“Vậy à. Thế thì hãy nói cho ta, Leo Vincy và Horace Holly, các ngươi tới tìm kiếm thứ gì?”
Chúng tôi nhìn nhau, và tôi nói – “Chuyện rất dài và ly kì. Kính thưa O – nhưng chúng tôi phải gọi người thế nào?”
“Theo tên ta mang ở nơi này, Hes.”
“Thưa O Hes,” tôi nói, tự hỏi bà ấy còn mang tên gì ở những nơi khác nữa.
“Nhưng ta muốn nghe câu chuyện,” bà ấy tiếp tục, tôi nghe giọng bà thật háo hức. “Không, không cần toàn bộ trong đêm nay, vì ta biết cả hai ngươi đã mệt mỏi; chỉ một chút thôi. Hỡi những Người Lạ, quả thật rất đơn điệu trong ngôi nhà trầm lắng này, không trái tim nào chỉ gặm nhấm quá khứ, nếu có thứ như vậy. Vì thế ta hoan nghênh câu chuyện mới mẻ từ thế giới bên ngoài. Hãy kể nó cho ta, ngươi, Leo, thật ngắn gọn theo ý ngươi, hãy kể sự thật, vì trong Hiện Thân khi ta là Mục Sư, không gì khác nữa được phép nói ra.”
“Thưa Tu Sĩ,” cậu nói theo cách ngắn gọn, “Tôi xin tuân lệnh. Nhiều năm trước khi tôi còn trẻ, bạn tôi, cha nuôi tôi và tôi, được các văn tự trong quá khứ dẫn dắt, đã du hành tới một vùng đất hoang dã, và thấy ở đó một phụ nữ như thần thánh đã chinh phục được thời gian.”
“Thế thì người đó hẳn phải rất già và ghê tởm.”
“Thưa Tu Sĩ, tôi đã bảo nàng ấy chinh phục được thời gian, không bị nó làm cho đau đớn, vì món quà tuổi thanh xuân bất tử đã dành cho nàng. Nàng cũng không ghê tởm; nàng vô cùng xinh đẹp.”
“Thế nên người lạ, ngươi đã tôn thờ nàng ta vì nhan sắc của nàng, như cách một người đàn ông vẫn làm.”
“Tôi không tôn thờ nàng; tôi yêu nàng, đó là chuyện khác hẳn. Linh mục Oros đây tôn thờ người ông ấy gọi là Đức Mẹ. Tôi đã yêu người phụ nữ bất tử đó.”
“Sau đó ngươi vẫn còn yêu nàng ta. Nhưng không phải vậy, vì tình yêu đều phải chết.”
“Tôi vẫn yêu nàng,” cậu trả lời, “dù nàng đã chết.”
“Tại sao, như thế nào vậy? Ngươi đã nói nàng ta bất tử.”
“Không chừng nàng chỉ có vẻ như đã chết; không chừng nàng đã biến đổi. Ít nhất tôi đã mất nàng, và tôi tìm kiếm thứ tôi đã làm mất, và đã tìm kiếm rất nhiều năm rồi.”
“Tại sao ngươi tìm nàng ta trong Ngọn Núi của ta, Leo Vincey?”
“Vì một ảo cảnh đã dẫn tôi tới hỏi lời tư vấn của Nhà Tiên Tri. Tôi tới đây để tìm tin tức về người yêu mình đã đánh mất, vì chỉ duy nhất nơi này mới có thể thấy.”
“Còn ngươi, Holly, ngươi cũng yêu một phụ nữ bất tử, mà sự bất tử của nàng ta có vẻ cũng phải cúi đầu trước tử thần?”
“Thưa Tu Sĩ,” tôi trả lời, “Tôi đã tuyên thệ trước cuộc tìm kiếm này, con trai nuôi của tôi đi đâu, tôi sẽ đi theo tới đó. Cậu ấy theo đuổi người đẹp đã chết – “
“Và ngươi đi theo anh ta. Như vậy cả hai người các ngươi đều theo đuổi người đẹp như mọi đàn ông từng làm, mù quáng và điên rồ.”
“Không,” tôi trả lời, “nếu họ mù, nhan sắc sẽ vô ích với họ vì không thể nhìn thấy, nếu họ điên, họ sẽ không biết khi nào từng thấy nhan sắc ấy. Tri thức và tầm nhìn thuộc về sự khôn ngoan, thưa O Hes.”
“Ngươi có cái lưỡi thật nhanh nhạy và sắc bén, Holly ạ,” bà ấy tự kiểm tra, rồi đột nhiên nói, “Hãy nói cho ta, đầy tớ của ta, Khania của Kaloon đã tiếp đón các ngươi nồng nhiệt ở thành phố của nàng ta, rồi nhanh chóng đưa các ngươi tới đây như ta đã ra lệnh cho nàng chứ?”
“Chúng tôi không biết nàng là đầy tớ của người,” tôi đáp. “Nồng nhiệt thì chúng tôi đã được hưởng và dư thừa nữa, nhưng chúng tôi bị buộc phải nhanh chóng đi khỏi Cung Điện của nàng tới đây do đàn chó săn tử thần của Khan, chồng nàng. Hãy nói cho chúng tôi, thưa Tu Sĩ, người đã biết gì về hành trình này của chúng tôi.”
“Một chút,” bà ấy trả lời bất cẩn. “Hơn ba tuần trăng trước, các gián điệp của ta đã nhìn thấy các ngươi trên dãy núi phía xa, ban đêm đã bò tới rất gần các ngươi, nghe thấy các ngươi nói chuyện về mục đích chuyến lang thang của các ngươi, sau đó nhanh chóng trở lại báo cho ta. Do đó ta đã ra lệnh cho Khania Atene, và tên phù thủy già, bác nàng ta, là Người Bảo Vệ Cánh Cổng, đi xuống cánh cổng cổ xưa của Kaloon đón các ngươi và mang các ngươi tới đây nhanh nhất. Nhưng vì có những người đã thiêu cháy đáp án cho câu đố, nên các người đã mất nhiều thời gian mới tới đây được.”
“Chúng tôi đã tới nhanh nhất trong khả năng của mình, thưa O Hes,” Leo nói; “và nếu gián điệp của người có thể tới dãy núi nơi không ai tới được, tìm được đường xuống vực thẳm ghê gớm đó, họ hẳn phải có khả năng nói cho người lý do chúng tôi chậm trễ. Vì thế tôi cầu xin, đừng hỏi chúng tôi về chuyện đó nữa.”
“Không, ta sẽ hỏi Atene, chắc chắn nàng sẽ trả lời ta thôi, vì nàng ta đang đứng đây,” Hesea đáp bằng giọng lạnh lẽo. “Oros, hãy dẫy Khania tới đây, nhanh lên.”
Linh mục quay đi và bước nhanh tới cánh cửa gỗ chúng tôi vừa đi vào đền thờ, và biến mất ở đó.
“Bây giờ,” Leo căng thẳng nói với tôi trong bầu không khí yên ắng, bằng tiếng Anh, “bây giờ cháu ước chúng ta ở một nơi khác, vì cháu nghĩ sẽ có rắc rối.”
“Bác không nghĩ thế, bác chắc đấy,” tôi trả lời; “nhưng càng nhiều càng tốt, vì hết rắc rối có thể tới sự thật, thứ chúng ta vô cùng cần.” Rồi tôi dừng lại, nghĩ rằng người phụ nữ kỳ lạ trước mặt chúng tôi đã nói các gián điệp của bà ta tình cờ nghe được cuộc nói chuyện của chúng tôi trên dãy núi, nơi chúng tôi không nói gì ngoài tiếng Anh.
Như thể chứng minh tôi thật khôn ngoan, Hesea lặng lẽ lặp lại theo tôi – “Ngươi đã có kinh nghiệm, Holly, hết rắc rối sẽ tới sự thật, như hết rượu.”
Rồi sau đó bà ấy im lặng, không cần nói, tôi cũng không theo đuổi cuộc trò chuyện.
Cánh cửa bật mở, một đoàn rước mặc đồ đen đi tới, Pháp Sư Simbri theo cùng, ông ấy đi trước quan tài, trên đó thi thể Khan đang nằm, được tám tu sĩ khiêng. Phía sau là Atene, bọc kín người trong mạng che màu đen từ đầu đến chân, sau cô là một đoàn tu sĩ nữa. Trước bàn thờ, quan tài được đặt xuống và các tu sĩ lui ra, để lại Atene và bác cô đứng bên cái xác.
“Kẻ nô lệ của ta đang tìm kiếm thứ gì, hỡi Khania của Kaloon?” Hesea hỏi bằng giọng lạnh lẽo.
Giờ Atene đã tiến lên và quì gối, nhưng vẫn rất thanh lịch.
“Thưa Đức Mẹ cổ xưa, Đức Mẹ trường thọ, ta thể hiện lòng tôn kính trước Nghi Lễ thần thánh của người, như tổ tiên ta đã làm bao thế hệ qua,” rồi cô lại khẽ nhún gối cúi chào. “Thưa Đức Mẹ, người đàn ông đã chết này yêu cầu người quyền được chôn cất trong lửa của Ngọn Núi thiêng mà từ xưa, những người hoàng tộc qua đời trước chàng đã được đối xử như vậy.”
“Chuyện đó đã từng như ngươi nói,” Hesea trả lời, “do các nữ tu sĩ ngồi vị trí này trước ta làm, nên sẽ không từ chối phu quân đã chết của ngươi – hay chính ngươi, Atene – khi thời khắc của ngươi tới.”
“Ta xin đa tạ người, hỡi O Hes, ta cũng cầu xin hiệp ước này nên được viết ra, vì sương tuyết năm tháng đã tụ tập trên đầu tôn kính của người, và người sẽ sớm phải rời bỏ chúng ta một thời gian. Do đó hãy ra lệnh cho kẻ làm luật cuả người ghi lại, thì các Hesea cai trị đời sau của người sẽ thực hiện đúng theo nó.”
“Ngừng,” Hesea nói, “ngừng rót sự cay đắng của ngươi ra, dám ra lệnh cho bề trên tôn kính của ngươi, ôi! Ngươi, đứa trẻ ngu ngốc kia, ngươi không biết nhưng ngày mai ngọn lửa sẽ đòi lại tuổi trẻ và nhan sắc mong manh từng là niềm tự hào của ngươi. Ta ra lệnh ngươi ngừng lại, hãy nói cho ta làm sao cái chết tìm đến vị phu quân của ngươi?”
“Hãy hỏi những kẻ lang thang kia, đó là những vị khách của chàng, vì máu của chàng đã rơi trên đầu họ và than khóc đòi báo thù từ tay người.”
“Tôi đã giết hắn,” Leo nói, “để cứu mạng mình. Hắn cố săn đuổi chúng tôi cùng bầy chó của hắn, vẫn còn dấu tích của chúng,” và cậu chỉ vào cánh tay tôi. “Linh mục Oros biết, vì ông ấy đã băng vết thương.”
“Chuyện đã xảy ra thế nào?” Hesea hỏi Atene.
“Phu quân của ta bị điên,” cô mạnh dạn trả lời, “và đó là môn thể thao độc ác của chàng.”
“Vậy à. Phu quân của ngươi cũng rất ghen tuông phải không? Không, hãy giữ lại sai lầm ta thấy đang hiện lên trên môi ngươi. Leo Vincey, hãy trả lời ta. Nhưng ta sẽ không yêu cầu ngươi vạch trần bí mật của người phụ nữ đã trao tình yêu cho ngươi. Ngươi, Holly, hãy nói đi, hãy nói sự thật.”
“Chuyện là thế này, thưa O Hes,” tôi trả lời. “Người phụ nữ kia và bác nàng, Pháp Sư Simbri đã cứu chúng tôi thoát chết trên dòng sông bên các vách đá của Kaloon. Sau đó chúng tôi bị ốm, họ đối xử với chúng tôi rất tốt, nhưng Khania bắt đầu say mê con trai nuôi của tôi.”
Lúc này thân ảnh vị Tu Sĩ run rẩy bên dưới lớp vải bọc mỏng như sương, Giọng Nói hỏi – “và con trai nuôi của ngươi cũng bắt đầu say mê Khania, như một người đàn ông thường làm, vì không nghi ngờ gì, nàng ta rất xinh đẹp?”
“Cậu ấy có thể tự mình trả lời câu hỏi này, thưa O Hes. Tất cả những gì tôi biết là cậu ấy đã cố gắng trốn khỏi nàng ấy, cuối cùng, nàng ấy cho cậu một ngày để lựa chọn giữa cái chết và cưới nàng sau khi chồng nàng chết. Vì thế, nhờ sự trợ giúp của Khan, chồng nàng, người rất ghen tuông với cậu ấy, chúng tôi đã chạy trốn theo hướng Ngọn Núi, nơi chúng tôi khao khát được tới. Sau đó Khan xua lũ chó săn đuổi theo chúng tôi, vì hắn điên cuồng và mang trái tim lầm lỗi. Chúng tôi đã giết hắn và đi tiếp, mặc dù người phụ nữ này và bác nàng muốn ngăn cản, tới Cung Điện Xương Người chúng tôi gặp một người dẫn đường che mặt, người đó dẫn chúng tôi lên Ngọn Núi và đã hai lần cứu chúng tôi thoát chết. Đó là toàn bộ câu chuyện.”
“Người phụ nữ kia, ngươi muốn nói gì?” Hesea hỏi bằng giọng đầy đe dọa.
“Một chút thôi,” Atene trả lời không do dự. “Bao năm qua ta bị ràng buộc với một tên điên và vũ phu, nếu sự yêu thích của ta hướng về người đàn ông này và sự yêu thích của chàng hướng về ta – phải, Mẹ Tự Nhiên đã nói với chúng ta, thế thôi. Sau đó có lẽ chàng sợ sự trả thù của Rassen, hay chính tên Holly này, kẻ ta nghĩ bầy chó săn hẳn phải xé tan thành từng khúc, hắn đã sợ hãi. Vì thế họ cố trốn thoát khỏi vùng đất, và chừng như lang thang tới Ngọn Núi của người. Nhưng ta rất khó chịu khi nói về chuyện này, xin người hay để ta đi nghỉ ngơi trước nghi lễ ngày mai.”
“Ngươi đã nói, Atene,” Hesea nói, “rằng Mẹ Tự Nhiên đã nói với người đàn ông này và ngươi, và trái tim hắn là của ngươi; nhưng vì sợ sự trả thù của phu quân ngươi, hắn đã chạy trốn khỏi ngươi, hắn có vẻ không phải kẻ hèn nhát. Hãy nói cho ta, lọn tóc hắn giấu trong túi da trước ngực chính là vật làm tin của ngươi cho tình yêu với hắn ư?”
“Ta không biết gì về thứ chàng giấu trong túi da,” Khania buồn bã trả lời.
“Nhưng trong ngôi nhà Cánh Cổng đằng kia, khi hắn ốm yếu nằm đó, hắn đã đưa lọn tóc ra so sánh với tóc của chính ngươi – a, giờ nhớ ra chưa?”
“Đúng vậy, thưa O Hes, chàng đã nói cho người tất cả bí mật của chúng ta, dù hầu hết bọn đàn ông đều che dấu như thế trong ngực;” và cô khinh bỉ nhìn Leo.
“Tôi không nói gì cho bà ta về chuyện này, Khania,” Leo nói bằng giọng tức giận.
“Không, ngươi đã không nói gì với ta, Kẻ Lang Thang, trí khôn quan sát đã nói cho ta. Ôi, ngươi nghĩ xem, Atene, ngươi có thể che dấu sự thật khỏi Hesea của Ngọn Núi nhìn thấu vạn sự sao? Nếu vậy, thật lãng phí hơi thở của ngươi rồi, vì ta biết tất cả, và biết ngay từ đầu. Ta bỏ qua việc ngươi không tuân lệnh; ta cũng không để ý đến các tin tức giả của ngươi. Vì mục đích của mình, đối với ta, thời gian là vô nghĩa, ta chịu đựng được cả việc ngươi giữ những người này, các vị khách của ta, như tù nhân của ngươi, trong khi ngươi cố đe dọa và ép buộc họ để giành một tình yêu bị từ chối.”
Bà ấy dừng lại, rồi lại tiếp tục đầy lạnh lùng: “Người phụ nữ kia, ta nói cho ngươi biết, để thực hiện tội lỗi của ngươi, ngươi thậm chí dám nói dối ta ở nơi này, trong Điện Thờ linh thiêng của ta.”
“Nếu vậy thì sao?” Câu trả lời mạnh mẽ vang lên. “Người cũng yêu người đàn ông này sao? Không, thật quái đản. Mẹ Tự Nhiên sẽ than khóc vì báng bổ. Ôi! Đừng run rẩy vì tức giận. Hỡi Hes, ta biết những quyền năng xấu xa của người, nhưng ta cũng biết rằng, ta là khách của người, ở nơi linh thiêng này, dưới biểu tượng Tình Yêu vĩnh hằng đằng kia, người sẽ không muốn có đổ máu. Hơn nữa, người không thể làm hại ta, hỡi Hes, người cũng chỉ ngang bằng với ta thôi.”
“Atene,” Giọng Nói đáp lại chừng mực, “nếu ta muốn thế, ta có thể tiêu diệt ngươi dù ngươi ở đâu. Nhưng ngươi nói đúng, ta sẽ không làm hại ngươi, kẻ tôi tớ vô đạo của ta. Mệnh lệnh của ta không truyền đến cho ngươi qua kẻ nghiên cứu các vì sao đằng kia, bác ngươi, yêu cầu gặp các vị khách này và đưa họ đến ngay đền thờ của ta sao? Hãy nói cho ta, vì ta muốn biết, làm sao ngươi không tuân lệnh ta?”
“Sẽ như người muốn,” Atene trả lời bằng một giọng mới mẻ và nghiêm túc, giờ không còn sự cay đắng và giả dối. “Ta không tuân lệnh người vì người đàn ông kia không phải là của người, mà là của ta, chứ không phải của bất kì phụ nữ nào khác; vì ta yêu chàng và đã yêu chàng từ rất xa xưa. Đúng, ngay từ lần đầu linh hồn chúng ta đi vào cuộc đời, ta đã yêu chàng, dù ta không biết như thế nào, ở đâu và khi nào có chuyện đó. Vì thế ta tới bên người, Đức Mẹ của Những Điều Bí Ẩn, Người Bảo Vệ các bí mật trong quá khứ, để biết sự thật. Ít ra người sẽ không thể nói dối trước bàn thờ của chính người, và ta cầu xin người, nhân danh Quyền Năng người cũng phải có trách nhiệm, người hãy trả lời ta bây giờ ở đây đi.”
“Người đàn ông mà ta khao khát này là ai? Chàng là gì với ta? Chàng là gì với người? Hãy nói đi, thưa O, Nhà Tiên Tri, hãy làm rõ điều bí ẩn này. Hãy nói đi, ta ra lệnh đấy, dù sau này người giết ta – nếu người có thể.”
“Phải, hãy nói đi! Nói đi!” Leo nói, “vì tôi cũng hồi hộp đến đau đớn. Tôi cũng hoang mang trong đống ký ức và mang theo cả hy vọng cùng sợ hãi.”
Tôi cũng lặp lại, “Hãy nói đi!”
“Leo Vincey,” Hesea nói, sau khi suy nghĩ một lúc, “ngươi tin ta là ai rồi đúng không?”
“Tôi tin,” cậu trang trọng trả lời, “rằng người là Ayesha, tôi đã bị chết trong tay người từ xa xưa ở Khu hang động Kôr, Châu Phi. Tôi tin người là Ayesha, không đầy hai mươi năm trước tôi đã gặp và yêu ở chính Khu Hang Động Kôr đó, rồi lại nhìn người chết thảm hại ở đó và thề rằng người sẽ trở lại.”
“Xem kìa, phải điên rồ đến mức nào mới có thể làm một người lạc lối,” Atene ngắt lời một cách đắc thắng. “’Không đầy hai mươi năm trước,’ chàng đã nói thế, trong khi ta biết rõ rằng hơn tám mươi mùa hè qua kể từ lúc ông của ta còn trẻ, đã thấy chính vị nữ tu sĩ này trên ngai vàng của Đức Mẹ.”
“Còn ngươi tin ta là ai, hỡi O Holly?” Tu Sĩ hỏi, không chú ý đến lời của Khania.
“Những gì cậu ấy tin, tôi đều tin,” tôi trả lời. “Người chết biến thành người sống – thi thoảng. Nhưng chỉ duy nhất người biết sự thật, và chỉ nhờ người, sự thật mới được tiết lộ.”
“Đúng,” bà ấy nói, như thể đăm chiêu suy nghĩ, “người chết biến thành người sống – thi thoảng – trong hình hài khác, và có lẽ ta biết sự thật. Ngày mai khi thi thể kia được mang lên cao để mai táng, chúng ta sẽ nói lại chuyện này. Giờ tất cả các ngươi hãy đi nghỉ đi, hãy chuẩn bị đối mặt với điều đáng sợ - Sự Thật.”
Trong lúc Hesea vẫn nói, tấm rèm bạc đong đưa đi về vị trí ban đầu một cách thần bí như khi chúng được vén lên. Rồi như thể được ra hiệu, các tu sĩ áo đen tiến vào. Vây quanh Atene, họ đưa cô ấy ra khỏi Điện Thờ, đi cùng cô là bác cô, vị Pháp Sư, theo tôi dường như ông ấy mệt mỏi hoặc sợ hãi đến mức khó có thể đứng trên đôi chân mình, nhưng vẫn đứng vững, nhấp nháy đôi mắt mờ đục như thể ánh sáng làm ông bàng hoàng. Khi họ đi rồi, các nam nữ tu sĩ ban đầu xếp hàng quanh tường, cách xa để không nghe được cuộc nói chuyện của chúng tôi, đã tập hợp thành đoàn riêng rẽ, vẫn tụng kinh và đi mất, bỏ lại chúng tôi cùng Oros và thi thể của Khan, vẫn nằm ở nơi được đặt xuống.
Giờ vị linh mục đứng đầu Oros vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đi theo ông ấy, và chúng tôi đi. Tôi cũng không hối tiếc khi rời khỏi nơi này, vì vẻ cô đơn chết chóc của nó – thật kỳ lạ, được tăng lên theo dòng lũ ánh sáng tràn ngập; vẻ cô đơn tụ tập lại và thể hiện trên thân ảnh khủng khiếp nằm dài trên quan tài, áp bức và xâm chiếm chúng tôi, khiến dây thần kinh chúng tôi vỡ ra trước những gì vừa trải qua. Tôi thật biết ơn khi đi qua khỏi các gian ngang, xuống gian giữa của giáo đường mênh mông, chúng tôi đến cánh cửa sắt, lối đi bằng đá, rồi ra cổng ngoài trước đó đã mở ra để chúng tôi qua, cuối cùng hòa vào không khí đêm ngọt ngào lạnh giá của thời khắc trước bình minh.
Oros dẫn chúng tôi tới một ngôi nhà được xây dựng chắc chắn và đầy đủ nội thất, theo lệnh của ông, như người đang mơ, chúng tôi uống chút chất lỏng ông đưa cho. Tôi nghĩ đồ uống đó là thuốc mê, ít ra sau khi nuốt nó, tôi không nhớ gì nữa cho đến khi tỉnh dậy thấy mình nằm trên một cái giường và cảm thấy khỏe mạnh, thư thái kỳ lạ. Chuyện này thật ly kì, vì ngọn đèn cháy trong phòng cho tôi biết trời vẫn tối, nên tôi có thể nghỉ ngơi thêm chút nữa.
Tôi cố ngủ lại, nhưng không thể, vì vậy rơi vào trầm tư tới khi tôi mệt mỏi vì việc đó. Những suy nghĩ đó không giúp gì cho tôi, không gì có thể giúp được, ngoại trừ sự thật, “điều đáng sợ”, như lời vị Nữ Tu Sĩ che mặt đã gọi thế.
Ôi! Chuyện gì đây nếu bà ta không phải là Ayesha mà chúng tôi muốn, mà là “điều đáng sợ” nào đó? Những lời ám chỉ của Khania và sự táo bạo của cô ấy có ý nghĩa gì, chắc được truyền cảm hứng từ sức mạnh bí ẩn nào đó chứ? Chuyện gì nếu – không, không thể - tôi muốn ngồi dậy và bó lại cánh tay. Hoặc tôi muốn đánh thức Leo và bảo cậu bó lại nó – bất kỳ việc gì chiếm giữ tâm trí tôi tới giờ đã định, khi đó chúng tôi sẽ biết – tốt nhất – hoặc tệ nhất.
Tôi ngồi dậy trên giường và nhìn thân ảnh tiến đến trước tôi. Đó là Oros, đang cầm cây đèn trên tay.
“Ngươi đã ngủ rất lâu, anh bạn Holly thân mến ạ,” ông nói, “giờ đến lúc dậy rồi.”
“Lâu ư?” tôi gắt gỏng nói. “Làm sao có thể thế được, trời vẫn còn tối đấy thôi?”
“Vì, anh bạn ạ, bóng tối là của một đêm mới. Nhiều giờ đã trôi qua kể từ khi ngươi nằm xuống giường này. Đúng, ngươi thật khôn ngoan khi nghỉ ngơi trong lúc còn có thể, vì ai biết khi nào ngươi sẽ lại ngủ tiếp chứ! Đi nào, để ta rửa tay cho ngươi.”
“Hãy nói cho tôi,” tôi ngắt lời – “Không, anh bạn,” ông ta kiên quyết chặn lời tôi, “Ta sẽ không kể gì cho ngươi cả, trừ việc ngươi phải nhanh chóng có mặt tại đám tang của Khan, và không chừng sẽ biết được đáp án cho các câu hỏi của ngươi.”
Mười phút sau, ông ấy dẫn tôi tới phòng ăn của ngôi nhà, tôi thấy Leo đã ăn mặc tươm tất, vì Oros đã đánh thức cậu trước khi tới chỗ tôi, và ra lệnh cậu tự chuẩn bị. Oros kể cho chúng tôi rằng Hesea không chịu nổi khi bị chúng tôi làm phiền tới khi màn đêm lại tới lần nữa, kể từ đêm đó. Vì thế hiện giờ chúng tôi mới bắt đầu.
Chúng tôi lại một lần nữa được dẫn tới khán phòng lửa chiếu sáng, rồi tới khu tụng niệm hình vòng thòng lọng. Giờ chỗ này đang trống không, cả cái xác của Khan cũng biến mất, không còn vị Tiên Tri quấn vải ngồi trong điện thờ, vì tấm rèm bạc đã được rút ra, và chúng tôi thấy nó trống không.
“Đức Mẹ đã đi ban vinh dự cho người chết, theo phong tục cổ xưa,” Oros giải thích cho chúng tôi.
Rồi chúng tôi đi qua ban thờ, sau bức tượng thấy một cánh cửa trên tường đá của khu tụng niệm, ngoài cánh cửa có một lối đi, một khán phòng như căn nhà, vì mọi cánh cửa trong đó đều mở ra, dẫn tới các phòng. Ở đó, người dẫn đường nói cho chúng tôi, là chỗ ở của Hesea và các hầu gái của bà. Ông ấy nói thêm, chúng chạy ra tận sườn Ngọn Núi và có cửa sổ mở ra khu vườn để ánh sáng và không khí đi vào. Trong phòng, sáu tu sĩ đang đợi, mỗi người mang một bó đuốc dưới tay và giữ một ngọn đèn chiếu sáng trên bàn tay.
“Con đường chúng ta đi xuyên qua bóng tối,” Oros nói, “dù ban ngày chúng ta có thể trèo trên tuyết bên ngoài, nhưng vào ban đêm chuyện này rất nguy hiểm.”
Rồi lấy bó đuốc, ông ấy châm chúng vào một cây đèn và đưa cho chúng tôi mỗi người một bó.
Giờ chúng tôi bắt đầu trèo. Chúng tôi đi lên những hành lang dốc đứng vô tận, được đào vào đá tảng của Ngọn Núi nhờ công sức khó tin của các tín đồ thờ lửa thời nguyên thủy. Với tôi, dường như chúng kéo dài hàng dặm, quả thực là vậy, vì dù sườn núi dốc thoai thoải, nhưng chúng tôi vẫn mất hơn một giờ mới trèo lên được. Cuối cùng chúng tôi tới chân một cầu thang lớn.
“Dừng lại đây một lúc, chàng trai,” Oros nói, cúi đầu trước Leo với vẻ cung kính mà ông đã thể hiện ngay từ đầu, “vì cầu thang này rất dốc và dài. Giờ chúng ta đang đứng trên miệng trên cùng của Ngọn Núi, và sắp trèo lên cây cột to lớn có hình thòng lọng nhô lên phía trên kia.”
Thế là chúng tôi ngồi xuống nơi như mái vòm, để luồng không khí sắc bén vội vã qua lại giữa các lối đi chơi đùa với chúng tôi, vì chúng tôi đều bị hun nóng trên đường đi lên các hành lang kia. Khi ngồi đó, tôi nghe thấy một âm thanh gầm rú và hỏi Oros đó là gì. Ông trả lời, chúng tôi đang ở rất gần miệng núi lửa, thứ chúng tôi nghe thấy xuyên qua lớp đá dày là tiếng xô đẩy của lửa vĩnh cửu trong lòng nó. Rồi hành trình đi lên tiếp tục.
Không nguy hiểm dù rất mệt mỏi, vì có gần sáu trăm bậc. Việc trèo lên các lối đi nhắc tôi nhớ tới hành lang Kim Tự Tháp Vĩ Đại kéo dài hàng furlong; lối đi lên cây cột trụ giống như đi lên tháp chuông nhà thờ, hay đúng hơn là vài ngọn tháp chất đống lên nhau, cái này nối tiếp cái kia.
Nghỉ ngơi hết lần này đến lần khác, chúng tôi kéo lê thân mình lên các bậc thang dốc đứng, mỗi bậc cao một bàn chân, tới khi trèo qua cây cột trụ, chỉ còn vòng dây thòng lọng. Chúng tôi vẫn đi lên tiếp, Oros dẫn đường, tôi rất vui vì cầu thang vẫn chạy trong lòng đá, tôi có thể cảm nhận được con mắt hùng mạnh của cái cột tháp nhọn run rẩy trong từng trận gió mạnh quét qua bên ngoài.
Cuối cùng chúng tôi đã nhìn thấy ánh sáng phía trước, cách khoảng hai mươi bước nổi trên một nền phẳng. Khi Leo vốn đi trước tôi, bước ra khỏi cầu thang, tôi thấy Oros và vị tu sĩ khác giữ lấy tay cậu, nói cho cậu các yêu cầu họ sắp làm.
“Không sao,” cậu kêu lên và quay lại, “ngoại trừ nơi này thật chóng mặt, họ sợ cháu sẽ rơi xuống. Hãy để tâm vào việc bác đi thế nào, bác Horace,” và cậu giơ tay cho tôi nắm.
Giờ tôi đã nhìn rõ đường hầm, tôi tin nếu không có bàn tay đó, tôi đã rơi xuống sàn đá, cảnh tượng trước mắt dường như làm não tôi tê liệt. Đừng băn khoăn nữa, vì tôi nghi ngờ thế gian liệu còn có thể trình diễn một cảnh khác tương tự được sao.
Chúng tôi đứng trên đỉnh vòng thòng lọng, không gian bằng đá bằng phẳng dài khoảng tám mươi thước, rộng ba mươi thước, bầu trời sao rải rác phía trên. Ở phía nam, khoảng hai mươi nghìn feet bên dưới, Đồng Bằng Kaloon mờ nhạt trải dài, phía đông và phía tây đều là bờ vai phủ đầy tuyết của đỉnh núi và các sườn dốc màu nâu trải rộng bên dưới. Phía bắc là cảnh tượng khác hẳn, vô cùng khiếp sợ. Nơi đó, ngay dưới chúng tôi, vì cây cột trụ bị cong vào trong, là cái miệng rộng của ngọn núi lửa, tâm của nó là một hồ nước rộng bốc lửa, nổi bọt và hoa lửa phụt lên ngẫu nhiên hay bắn ra, quằn quại, xoắn xít như biển cả đang giận dữ.
Trên bề mặt hồ, khói và khí bay lên tạo ra lửa khi chúng nổi lên và hòa lẫn với nhau, tạo ra cột ánh sáng sống động khổng lồ. Ngay đối diện chúng tôi, cột lửa rực cháy, ngọn lửa đi qua con mắt của lỗ kim trên cây cột trụ, bên dưới chúng tôi, phóng ra một chùm rực rỡ chạy dọc đất nước Kaloon, dọc dãy núi bên ngoài, rồi biến mất nơi chân trời.
Gió thổi từ nam sang bắc, bị hút về phía cái miệng nóng bỏng của ngọn núi lửa, hơi thở khốc liệt của nó la hét xuyên qua con mắt trên cột trụ, chống lại bề mặt gồ ghề của nó, luồn qua đỉnh cột lửa, như cơn lốc trên đại dương phải uốn mình trước trận gió lớn, và bị xé tan thành từng mảnh lửa, bị gió cuốn đi như những cánh buồm tơi tả từ chiếc thuyền đang cháy.
Nếu không nhờ gió mạnh và ổn định, không sinh vật nào có thể sống nổi trên cột trụ, vì hơi bốc lên sẽ đầu độc chúng; nhưng gió mạnh không ngừng đã lái chúng về hướng bắc. Vì thế, trong không gian mỏng manh nơi băng giá này, sức nóng không quá lớn và có thể chịu đựng được.
Kinh hoàng trước khung cảnh tuyệt vời đó, nó dường như phù hợp với vẻ khủng bố trong Hầm Lò hơn là với nơi trần thế này của chúng ta, sợ gió xoáy quay cuồng tôi như chiếc lá úa rơi xuống cái vực sáng rực bên dưới, tôi khuỵu gối xuống, chống bàn tay lành lặn lên, hét lên với Leo hãy làm tương tự, và nhìn lại mình. Giờ tôi quan sát thấy các hàng tu sĩ khoác áo choàng tuyệt đẹp, quì trên mặt đá và tham gia cầu nguyện, nhưng Đức Mẹ Hes, hay Atene, hay cái xác của Khan, tôi chẳng thấy ai trong số đó cả.
Khi tôi đang băn khoăn tự hỏi họ có thể ở đâu, Oros, người không bị ảnh hưởng bởi cảnh tượng kinh hãi đó, cùng mấy tu sĩ theo hầu vây quanh chúng tôi và đưa chúng tôi theo lối đi khá nguy hiểm chạy ven cạnh tảng đá đã mài tròn. Vài bước đi xuống, chúng tôi thấy mình đang ở dưới mái che, gió mạnh gầm rú phía trên đầu chúng tôi. Hơn hai mươi bước nữa, chúng tôi tới một khe cắt thụt vào, tôi nghĩ là do bàn tay con người, nó nằm trên bề mặt vòng thòng lọng, để trần nham thạch chiếu lên nửa chiều rộng của nó.
Khe cắt này, hay căn phòng bằng đá, đủ lớn để che cho một số người đông đảo, chúng tôi tới đó an toàn, mới phát hiện ra chỗ này đã có người. Ngồi trên một cái ghế đẽo từ đá là Hesea, khoác áo choàng thêu hoa màu tím bên ngoài lớp quần áo mỏng như sương phủ từ đầu đến chân. Đứng gần bà là Khania Atene và bác cô, vị Pháp Sư già, trông có vẻ ốm yếu, không thoải mái, và cuối cùng, nằm dài trên chiếc giường tang lễ, ánh sáng khốc liệt đập vào thân hình và gương mặt cứng ngắc, là Rassen, vị Khan đã chết.
Chúng tôi tiến tới ngai vàng, cúi chào bà ấy đang ngồi đó. Hesea ngẩng đầu trùm mũ lên, dường như vừa gục xuống trước ngực như thể miên man suy nghĩ, rồi ra lệnh cho linh mục Oros. Vì ở chỗ này, các bức tường đá rất lớn, nên rất yên tĩnh và mọi người có thể nghe thấy nhau nói chuyện.
“Ngươi đã mang họ tới đây an toàn, người đầy tớ của ta,” bà nói, “và ta rất hài lòng, vì với những người không biết, con đường này rất đáng sợ. Các vị khách của ta, các ngươi có nghe nói gì về hố chôn cất lộ thiên cho Các Con Của Hes không?”
“Đức tin nói cho chúng tôi đó là địa ngục, thưa quí bà,” Leo trả lời, “và tôi nghĩ cái vạc đằng kia giống như miệng của nó.”
“Không,” bà ấy trả lời, “không có địa ngục, ngoại trừ từ đời này sang đời khác, chúng ta tạo hình bản thân cho thích hợp trong vòng tròn của ngôi sao nhỏ này. Leo Vincey, ta nói cho ngươi biết, địa ngục là đây, đúng, là đây,” và bà ấy vỗ tay lên ngực mình, trong khi đầu lại rũ xuống phía trước lần nữa như thể cúi xuống dưới sức nặng của khổ đau âm thầm.
Bà ấy giữ tư thế đó một lúc, rồi ngẩng đầu lên, và nói tiếp – “Nửa đêm là quá khứ, rất nhiều chuyện phải làm và chịu đựng trước khi bình minh lên. Đúng, bóng tối sẽ lại trở thành sáng, hoặc không chừng ánh sáng rồi lại đến bóng tối vĩnh hằng.”
“Người phụ nữ hoàng tộc kia,” bà ấy tiếp tục, hướng về phía Atene, “theo quyền lợi của anh ta, ngươi đã đưa vị phu quân vừa chết của mình tới đây mai tang ở nơi linh thiêng này, nơi tro tàn của tất cả những người đi trước anh ta đã thành nhiên liệu cho ngọn lửa thần thánh. Linh mục Oros, ngươi hãy gọi Nguyên Cáo và kẻ biện hộ ra đây, và hãy để những cuốn sách mở ra, ta sẽ thông qua phán xét với người chết, gọi linh hồn anh ta sống lại lần nữa, hoặc cầu nguyện để hơi thở sự sống rời bỏ anh ta.”
“Linh mục, ta tuyên bố, Phiên Tòa Tử Thần bắt đầu.”


Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 13



Chương 13: Dưới Đôi Cánh che chở

Đám người trong bộ lạc kinh sợ lần lượt từng người một bò đi mất. Khi người cuối cùng biến mất, linh mục tiến tới chỗ Leo và chào cậu bằng cách đặt tay lên trán.
“Thưa Ngài,” ông ấy nói, bằng phương ngữ Hy Lạp lộn xộn giống đám cận thần ở Kaloon, “Ta sẽ không hỏi liệu ngài có đau không, vì từ lúc ngài bước vào dòng sông cấm và đặt chân lên mảnh đất này, ngài và bạn đồng hành của ngài đã được bảo vệ dưới quyền năng vô hình và không ai hay linh hồn nào có thể làm hại, nhưng nguy hiểm của ngài vẫn rất lớn. Nhưng những bàn tay thấp hèn đã đặt lên ngài, và đây là lệnh từ Đức Mẹ ta phụng sự, nếu ngài muốn, mọi người chạm vào ngài sẽ phải chết trước mắt ngài. Hãy nói đi, đó có phải là ý nguyện của ngài không?”
“Không,” Leo trả lời; “bọn họ điên cuồng và mù quáng, đừng để máu đổ vì chúng tôi nữa. Tất cả những gì chúng tôi yêu cầu từ ngài, ông bạn – nhưng ông gọi là gì nhỉ?”
“Hãy gọi ta là Oros,” ông ấy trả lời.
“Ông bạn Oros – một cái tên hay với người cư ngụ trên Ngọn Núi – tất cả những gì chúng tôi yêu cầu là thức ăn và nơi trú ẩn, và được dẫn đường nhanh chóng tới nơi hiện diện của người ngài gọi là Đức Mẹ, Vị Tiên Tri mà chúng tôi đã qua bao hành trình tìm kiếm sự thông thái của bà ấy.”
Ông ấy cúi đầu trả lời: “Thức ăn và chỗ ở đã được chuẩn bị, ngày mai khi ngài đã nghỉ ngơi, ta được ra lệnh dẫn ngài tới nơi ngài muốn. Hãy đi theo ta, ta sẽ cầu nguyện cho ngài;” ông ấy đưa chúng tôi đi qua hố lửa tới ngôi nhà cách đó năm mươi thước cạnh tường đá của đấu trường.
Có lẽ là nhà khách, hoặc ít ra cũng sẵn sàng dùng cho mục đích đó, trong đó đèn đã thắp lên và một đống lửa đang cháy, vì ở đây không khí rất lạnh. Ngôi nhà chia thành hai phòng, phòng thứ hai là chỗ ngủ, ông ấy dẫn chúng tôi vào phòng đầu tiên.
“Vào đi,” ông ấy nói, “vì các ngài cần tắm rửa sạch sẽ,” – ông ấy tự nói với tôi – “còn ngài, sẽ được điều trị vết thương trên tay do con chó săn lớn cắn.”
“Làm sao ngài biết điều đó?” tôi hỏi.
“Không sao nếu ta biết và đã sẵn sàng,” Oros nghiêm túc trả lời.
Phòng thứ hai được thắp sáng và sưởi ấm như phòng thứ nhất, nước nóng đặt trong các chậu kim loại và trên giường có quần áo vải lanh sạch sẽ cùng áo choàng trùm đầu màu tối, lót bằng lông thú dày dặn. Trên bàn nhỏ là thuốc mỡ, băng, nẹp, thật kỳ diệu khi thấy vậy, vì nó nói cho tôi biết đặc điểm vết thương của mình đã được nhận biết. Nhưng tôi không hỏi thêm gì nữa; tôi cũng rất mệt; hơn nữa, tôi biết chắc sẽ vô dụng.
Giờ vị linh mục Oros giúp tôi cởi áo choàng rách nát, và tháo đống băng thô sơ trên cánh tay, rửa sạch nó nhẹ nhàng bằng nước ấm, rồi ông ấy trộn ít tinh dầu, và kiểm tra vết thương như một bác sĩ đã được đào tạo bài bản.
“Răng nanh đã cắm vào rất sâu,” ông ấy nói, “xương nhỏ đã bị vỡ, nhưng sẽ không có hại với ngài, chỉ còn lưu lại các vết sẹo thôi.” Sau khi điều trị vết thương bằng thuốc mỡ, ông ấy quấn tay tôi rất chặt và tinh tế, hầu như không hề gây đau đớn, rồi bảo ngày mai vết sưng tấy sẽ giảm dần, và ông ấy sẽ nắn xương. Thực sự đúng vậy.
Sau khi xong xuôi, ông ấy giúp tôi tắm gội và mặc quần áo sạch cho tôi, rồi đặt băng đeo ở cổ cho phần còn lại của cánh tay. Trong lúc đó, Leo cũng mặc xong quần áo, chúng tôi cùng nhau rời phòng, là những người rất khác với những kẻ lang thang hôi hám, nhuốm đầy máu vừa bước vào lúc trước. Ở phòng ngoài, chúng tôi thấy thức ăn đã được chuẩn bị cho mình, chúng tôi ăn với lòng biết ơn và không nói chuyện. Sau đó, mờ mịt và mỏi mệt, chúng tôi trở về phòng kia, cởi áo ngoài, quăng mình lên giường và nhanh chóng rơi vào giấc ngủ.
Một lần giữa đêm, tôi đột nhiên tỉnh giấc, tôi không biết vào lúc mấy giờ, nhưng vài người chắc đã thức dậy, tôi chỉ là một trong số họ, khi đó căn phòng đã bị mở ra không một tiếng động. Trước khi mở mắt, tôi đã cảm nhận được ai đó đang ở bên chúng tôi chỗ này. Tôi đã không nhầm. Ngọn đèn nhỏ vẫn cháy trong phòng, cái bấc duy nhất đang nổi trong dầu, dưới ánh đèn, tôi thấy thân ảnh lờ mờ như bóng ma đứng gần cửa. Tôi thực sự nghĩ đó là một con ma, giờ tôi mới nhớ ra, đó là người dẫn đường như xác ướp của chúng tôi, người đó dường như đang nhìn chăm chú vào chiếc giường nơi Leo nằm, hoặc tôi nghĩ vậy, vì đầu đang quay về hướng đó.
Lúc đầu, cô ấy hoàn toàn đứng yên, sau đó cô ấy lớn tiếng rên rỉ, một tiếng rên trầm và kinh khủng, như đi từ tận đáy lòng.
Cô ấy không câm như tôi tưởng. Rõ ràng đang đau khổ, và thể hiện nỗi đau khổ theo cách của con người. Nhìn kìa! Cô ấy đang vắt tay như trong nỗi đau đớn tột đỉnh. Giờ có lẽ Leo cũng bắt đầu cảm thấy ảnh hưởng của cô ấy, vì cậu cựa mình và nói trong giấc ngủ, nhỏ đến mức tôi chỉ có thể phân biệt theo giọng lưỡi cậu sử dụng, đó là tiếng Ả Rập. Giờ tôi đã nghe được vài từ.
“Ayesha,” cậu ấy nói, “Ayesha!”
Thân ảnh kia lướt về phía cậu và dừng lại. Cậu ngồi dậy trên giường trong khi vẫn ngủ say, đôi mắt vẫn nhắm chặt. Cậu giang đôi tay, như thể tìm kiếm ai đó cậu muốn ôm, và nói lại trong giọng trầm thấp đầy khao khát – “Ayesha, ta đã tìm nàng lâu lắm rồi, xuyên qua cả sự sống và cái chết. Hãy đến với ta, nữ thần của ta, tình yêu của ta.”
Thân ảnh trượt lại gần hơn, và tôi có thể thấy nó đang run rẩy, giờ cánh tay nó cũng mở rộng ra.
Cô ấy dừng lại bên giường, Leo lại tự nằm xuống. Giờ chăn đã rơi xuống, để lộ ngực cậu, trên đó có chiếc túi da cậu luôn luôn đeo, có chứa lọn tóc của Ayesha. Cậu ấy đang ngủ say, thân ảnh đó dán mắt lên chiếc túi. Hiện giờ còn hơn thế, vì ngạc nhiên, những ngón tay bọc vải trắng đã mở nắp túi, đúng, và lôi ra túm tóc dài óng ánh. Cô ấy nhìn chằm chằm vào nó rất lâu và tha thiết, rồi nhẹ nhàng đặt lại di vật vào đó, đóng túi lại và dường như khóc một chút. Trong lúc cô ấy đứng đó, Leo lại mơ màng một lần nữa giang tay ra và nói, bằng giọng nặng trĩu khát khao – “Hãy đến với ta, người yêu ơi, người đẹp của ta, người đẹp của ta!”
Trước những lời đó, một tiếng kêu mang chút nghẹn ngào vang lên như của con cú đêm đang kinh sợ, thân ảnh đó quay đi và lướt qua cửa ra vào.
Khi tôi hoàn toàn chắc chắn cô ấy đã biến mất, tôi thở hổn hển thành tiếng.
Điều này có nghĩa là gì, tôi tự hỏi trong cơn gấp gáp hoang mang. Chắc không phải là mơ: đó là sự thật, vì tôi rõ ràng đã tỉnh. Quả thật, toàn bộ chuyện này có ý nghĩa gì? Ai là vật ma quái như xác ướp dẫn đường cho chúng tôi lành lặn vượt qua những hiểm nguy kia; Sứ Giả mà mọi người khiếp sợ, có thể làm ngừng khí thế tấn công của đám người hoang dã chỉ bằng chuyển động bàn tay là ai? Tại sao cô ấy lại tới đây vào đêm khuya như một linh hồn thăm lại người yêu thương? Tại sao sự hiện diện của cô ấy khiến tôi tỉnh giấc còn Leo mơ màng? Tại sao cô ấy lấy lọn tóc ra; thực ra làm sao cô ấy biết lọn tóc bị giấu trong đó? Và tại sao – ôi! Tại sao, trước những lời dịu dàng và đầy khao khát kia, cô ấy lại bay mất như con dơi đang sợ hãi?
Linh mục Oros gọi người dẫn đường của chúng tôi là Mục Sư, và Thanh Gươm, là một trong những người thực thi các mệnh lệnh. Nhưng có chuyện gì nếu chúng đều là các mệnh lệnh của chính cô ấy? Chuyện gì đây nếu cô ấy chính là người chúng tôi tìm kiếm, Ayesha? Tại sao tôi lại run sợ trước suy nghĩ này, nếu vậy, cuộc tìm kiếm của chúng tôi đã kết thúc, chúng tôi đã thành công phải không? Ôi! Hẳn là thế vì sinh vật kia mang điều gì đó kinh khủng, phi nhân tính và gây khiếp sợ. Nếu Ayesha sống trong lớp vải xác ướp này, thì đó là một Ayesha khác với người chúng tôi biết và tôn thờ. Tôi vẫn còn nhớ rõ thân ảnh quấn vải trắng của Bà ấy – Người chúng ta phải tuân lệnh, và bao lâu sau mới tiết lộ gương mặt kiều diễm cho chúng tôi, chúng tôi đã đoán vẻ đẹp và sự uy nghi ẩn sau tấm mạng che vì sức sống rạng ngời và thân thể yêu kiều của bà không thể ngụy trang được.
Nhưng còn sinh vật này? Tôi không muốn theo đuổi suy nghĩ đó. Tôi đã lầm lẫn rồi. Không nghi ngờ nữa, cô ấy chính là những gì mà linh mục Oros đã nói – một con người nửa siêu nhiên được ban cho những quyền năng cụ thể nào đó, cô ấy có thể là gián điệp ở chỗ chúng tôi, có thể báo cáo lại mọi chuyện với người ban cho những quyền năng này.
Để an ủi bản thân, tôi cảm thấy buồn ngủ trở lại, vì mệt mỏi vượt qua cả nghi ngờ và sợ hãi. Buổi sáng, khi tự nhiên chúng bớt sống động đi, tôi quyết định, vì nhiều lý do, khôn ngoan nhất là không nói những gì tôi đã thấy cho Leo. Thực ra tôi đã không làm thế cho đến vài ngày sau.
Khi tôi tỉnh dậy, ánh sáng đã tràn đầy căn phòng, tôi thấy linh mục Oros đang đứng bên giường tôi. Tôi ngồi dậy, hỏi ông ấy mấy giờ rồi, ông ấy mỉm cười trả lời bằng giọng trầm lắng, đã gần hai giờ trưa, và nói thêm ông sẽ cố định cánh tay cho tôi. Giờ tôi biết tại sao ông ấy nói nhỏ, vì Leo vẫn ngủ say.
“Hãy để anh ta nghỉ ngơi tiếp,” ông ấy nói, rồi tháo lớp vải quấn tay tôi, “vì anh ta đã chịu đau đớn rất nhiều,” ông ấy nói tiếp một cách rõ ràng, “và có lẽ sẽ phải chịu nhiều đau đớn hơn.”
“Ngài có ý gì, Oros thân mến?” tôi sắc bén hỏi lại. “Tôi nghĩ ngài đã bảo rằng chúng tôi sẽ an toàn trên Ngọn Núi này.”
“Ta kể cho ngươi, anh bạn” và ông ấy nhìn tôi.
“Holly là tên tôi”.
“Anh bạn Holly, thể xác các vị an toàn. Ta không nói gì về phần còn lại của các vị. Con người không chỉ có da thịt và máu. Họ có đầu óc và linh hồn nữa, những cái đó có thể bị tổn thương.”
“Ai có thể làm chúng bị tổn thương chứ?” tôi hỏi.
“Anh bạn,” ông ấy nghiêm nghị trả lời, “anh và bạn đồng hành của anh đã tới một vùng đất bị ma ám, không phải chỉ là những kẻ lang thang, vì các người có thể đã chết trước cả bây giờ, mà còn vì mục đích tìm kiếm để vén tấm màn bí ẩn đã bị che dấu bao năm tháng. Phải, mục đích của các ngươi đã bị biết đến và có lẽ sẽ đạt được. Nhưng nếu tấm mạng che đó được vén lên, cũng có khả năng các ngươi sẽ thấy linh hồn mình run rẩy đến tuyệt vọng và điên cuồng. Nói đi, ngươi không sợ sao?”
“Cũng hơi sợ,” tôi trả lời. “Nhưng con trai nuôi của tôi và tôi đã nhìn thấy những chuyện ly kỳ và vẫn sống sót. Chúng tôi đã thấy Ánh Sáng của Sự Sống cuộn chảy thần bí; chúng tôi đã làm khách của một người Bất Tử, và quan sát Tử Thần chinh chiến với bà ấy rồi rời bỏ mà không chạm được vào chúng tôi. Ngài nghĩ xem, chúng tôi giờ sẽ biến thành những kẻ hèn nhát ư? Không, chúng tôi sẽ bước tiếp để thực hiện sứ mệnh của mình.”
Trước những lời đó, Oros không thể hiện sự tò mò hay kinh ngạc; như thể tôi nói một điều ông đã biết.
“Tốt,” ông ấy đáp, mỉm cười, lịch sự gật cái đầu trọc, “trong một giờ nữa các ngươi sẽ đi tiếp – để thực hiện sứ mệnh của các ngươi. Nếu ta đã cảnh cáo ngươi, hãy tha lỗi cho ta, vì ta được ra lệnh làm thế, có lẽ để thử dũng khí của các ngươi. Liệu có cần ta nhắc lại lời cảnh báo này với chàng trai – “ ông ấy lại nhìn tôi.
“Leo Vincey” Tôi đáp.
“Leo Vincey, phải, Leo Vincey,” ông ấy lặp lại, như thể cái tên đó quen thuộc với ông ta nhưng vừa trượt khỏi đầu. “Nhưng ngươi chưa trả lời câu hỏi của ta. Có cần ta nhắc lại lời cảnh báo đó không?”
“Không; nhưng ngài có thể làm vậy nếu ngài muốn khi cậu ấy tỉnh dậy.”
“Không, ta nghĩ với ngươi thì có thể, nhưng sẽ phí lời, – tha thứ cho sự so sánh này – vì những gì sói muốn” – ông ta nhìn tôi – “hổ không thể thoát được,” rồi ông ta gật đầu về phía Leo. “Nào, nhìn xem vết thương trên tay ngươi đã tốt hơn bao nhiêu rồi, không còn bị sưng nữa. Giờ ta sẽ băng lại, vài tuần nữa xương sẽ tốt lại giống trước khi ngươi bị Khan Rassen săn đuổi trên bình nguyên. Dù sao, ngươi sẽ gặp lại hắn sớm thôi, và cả cô vợ xinh đẹp của hắn nữa.”
“Gặp lại hắn ư? Làm người chết trở thành sống trên Ngọn Núi này ư?”
“Không, nhưng chắc chắn họ được mang tới đây để mai táng. Đó là đặc quyền của tầng lớp thống trị ở Kaloon; ta cũng nghĩ, Khania sẽ có nhiều câu hỏi để hỏi Nhà Tiên Tri.”
“Ai là Nhà Tiên Tri?” tôi háo hức hỏi.
“Nhà Tiên Tri,” ông ấy trả lời mơ hồ, “là Giọng Nói. Luôn là như vậy, không phải sao?”
“Vâng; tôi đã nghe được từ Atene, nhưng giọng nói hàm ý chỉ người nói. Người nói này là người ngài gọi là Đức Mẹ phải không?”
“Cõ lẽ vậy, anh bạn Holly ạ.”
“Đức Mẹ này là một linh hồn ư?”
“Đó là điều gây nhiều tranh cãi. Người ta nói với ngươi như thế trên Đồng Bằng, đúng không? Các bộ lạc trên Ngọn Núi cũng nghĩ vậy. Nhưng ngươi có thể tự xét đoán rồi chúng ta sẽ tranh luận vấn đề này sau. Được rồi, tay ngươi đã xong. Giờ hãy cẩn thận đừng đánh vào nó hay bị ngã, nhìn kìa, bạn đồng hành của ngươi đã thức dậy.”
Một giờ sau đó, chúng tôi bắt đầu lên đường. Tôi lại trèo lên con ngựa của Khan, đã được chăm sóc và cho ăn nên được nghỉ ngơi phần nào, trong khi đó một chiếc kiệu được đưa cho Leo. Tuy nhiên cậu từ chối, bảo rằng giờ cậu đã hồi phục và không muốn bị khiêng như một phụ nữ. Vì thế cậu đi bộ bên cạnh ngựa của tôi, dùng giáo làm gậy. Chúng tôi đi qua hố lửa – giờ đã tắt, tro màu trắng, trong đó trộn lẫn cả xác tên phù thủy và con mèo kinh khủng của hắn – đi trước là người dẫn đường câm lặng của chúng tôi, trong lớp vải tái nhợt, người dân trong bộ lạc đã trở lại ngôi làng quì lạy họ, và cứ duy trì như thế cho đến khi cô ấy biến mất.
Nhưng một trong số họ lại đứng lên, xuyên qua đoàn linh mục hộ tống chúng tôi, chạy tới chỗ Leo, quì xuống trước cậu và hôn lên tay cậu. Đó chính là người phụ nữ trẻ được cậu cứu mạng, một cô gái có dáng vẻ cao quí, mái tóc dày màu đỏ, theo sau là chồng cô, dấu tích gông cùm vẫn hiện trên cánh tay anh ta. Người hướng dẫn có lẽ nhìn thấy cảnh đó, dù cô ấy làm vậy bằng cách nào tôi cũng không biết. Dù sao cô đã quay lại và ra hiệu linh mục giải thích.
Gọi người phụ nữ tới chỗ mình, ông ta lạnh lùng hỏi cô ấy làm sao dám chạm vào thân thể người lạ này bằng đôi môi thấp hèn của cô. Cô đáp rằng, đó là vì lòng biết ơn. Oros nói nếu vì lý do đó, cô được tha thứ; hơn nữa, để thưởng cho những gì họ phải chịu đựng, ông được ra lệnh nâng chồng cô thành người cai trị bộ lạc để làm hài lòng Đức Mẹ. Hơn nữa, ông ấy thông báo, tất cả phải tuân lệnh vị thủ lĩnh mới theo phong tục, và nếu anh ta làm điều xấu, hãy thông báo, anh ta có thể sẽ phải chịu trừng phạt. Rồi xua cặp đôi sang một bên, không nghe họ cám ơn hay lời tung hô của đám đông, ông ấy đi mất.
Khi xuống khe núi chúng tôi đã qua để vào ngôi làng này đêm trước, một tiếng tụng kinh đập vào tai chúng tôi. Giờ con đường có lối rẽ, và chúng tôi nhìn thấy một đám rước long trọng tiến lên hẻm núi ảm đạm không ánh mặt trời. Dẫn đầu, không ai khác là Khania xinh đẹp cưỡi ngựa, theo sau là ông bác vĩ đại của cô ấy, vị Pháp Sư già, sau họ là một đoàn linh mục cạo trọc đầu choàng áo trắng, mang một quan tài ở giữa, trên bề mặt không được che phủ là thi thể của Khan, bọc vải đen. Trông anh ta tốt hơn bất cứ lúc nào, vì giờ đây cái chết đã chạm tới người đàn ông mất trí và phóng đãng này, mang theo chút phẩm giá mà anh ta thiếu khi còn sống.
Chúng tôi gặp nhau như thế. Nhìn thấy thân ảnh màu trắng của người dẫn đường, con ngựa Khania cưỡi lồng lên bạo lực đến mức tôi nghĩ nó có thể ném cô ấy xuống. Nhưng cô dùng roi và giọng nói làm chủ con vật, và gọi to – “Ai là kẻ xấu xí bọc vải từ Ngọn Núi chặn giữa lối đi của Khania Atene và phu quân đã mất? Hỡi các vị khách của ta, ta tìm các ngươi đến phát ốm rồi, hình như các ngươi đã được một linh hồn xấu xa dẫn dắt tới gặp một định mệnh xấu xa. Kẻ dẫn đường kia của các ngươi chắc hẳn phải là thứ gì đó rất đáng ghét và ghê tởm, vì nếu là phụ nữ, cô ta sẽ không sợ lộ ra khuôn mặt.”
Giờ vị Pháp Sư kéo tay áo chủ nhân của mình, còn linh mục Oros cúi chào cô ấy, cầu xin cô im lặng và ngừng nói những lời mang điềm xấu đó trong không gian, mà cô ấy cũng không biết chúng sẽ được mang tới nơi nào. Nhưng sự căm ghét bản năng dường như đã nổi lên trong lòng Atene, cô không muốn im lặng, vì cô nói trực tiếp với người dẫn đường của chúng tôi bằng từ “ngươi”, cách nói chúng tôi thấy rất thông dụng trên Ngọn Núi, nhưng hiếm hoi ở Đồng Bằng.
“Hãy để không gian mang chúng tới nơi chúng sẽ tới,” cô ấy kêu lên. “Nữ phù thủy kia, hãy lột đống giẻ của ngươi ra, nó chỉ dành cho một xác chết quá thấp hèn để xem. Hãy thể hiện cho chúng ta ngươi là ai, ngươi, con cú đêm bay lượn kia, nghĩ rằng sẽ dọa ta sợ với dáng vẻ chết chóc chỉ dành che người chết đó sao.”
“Ngừng lại, tôi cầu xin ngài, thưa quí bà, hãy ngừng lại,” Oros nói, cựa mình khỏi vẻ bình tĩnh bất động. “Người đó là Mục Sư, đi cùng người đó là Quyền Năng.”
“Thế thì nó không chống lại được Atene, Khania của Kaloon,” cô ấy trả lời, “hay ta nghĩ vậy. Quyền Năng, hẳn là thế rồi! hãy để cô ta thể hiện quyền năng đi. Nếu cô ta sở hữu thứ không phải của mình, thì chỉ là Phù Thủy của Ngọn Núi, kẻ giả bộ là một linh hồn, cùng đám phù thủy mang các vị khách của ta đi mất” – rồi cô chỉ vào chúng tôi – “và đưa chồng ta tới chỗ chết.”
“Cháu gái, im lặng đi!” vị Pháp Sư già nói, gương mặt nhăn nhúm đã trắng bệch vì kinh sợ, trong lúc đó Oros đưa tay lên như thể khẩn cầu Sức Mạnh vô hình – “O, xin người hãy lắng nghe và nhìn đi, xin hãy thương xót, ta cầu xin người, hãy tha thứ cho người phụ nữ này vì sự điên rồ của nàng, máu của vị khách sẽ không vấy lên bàn tay tôi tớ của người, danh dự cổ xưa chúng ta tôn thờ sẽ bị hạ thấp trong mắt loài người.”
Ông ấy cầu nguyện nhưng tay vẫn giơ lên, dường như tôi thấy mắt ông dán lên người dẫn đường, giống như chúng tôi. Trong khi ông ấy nói, tôi thấy bàn tay cô ta giơ lên, giống như lúc cô ta giơ lên để giết, hay đúng hơn là kết tội thầy phù thủy. Sau đó cô ta dường như suy tư, đứng giữa không trung, chỉ vào Khania. Cô ta không cử động, không phát ra âm thanh, chỉ trỏ vào, và những lời tức giận ngưng bặt trên môi Atene, sự giận dữ rời khỏi đôi mắt cô và màu sắc rời khỏi gương mặt cô. Đúng, cô ấy trở nên trắng bệch và im lặng giống như cái xác trên chiếc quan tài phía sau. Sau đó, bị thúc đẩy bởi quyền năng vô hình, cô đánh con ngựa mạnh đến nỗi nó đâm vào chúng tôi chạy về hướng ngôi làng, đoàn tang lễ ngẩn người một lúc.
Khi Pháp Sư Simbri định đuổi theo Khania, linh mục Oros giữ dây cương ngựa của ông ta và nói với ông ấy – “Thầy Phù Thủy, chúng ta từng gặp nhau trước đây, khi cha người phụ nữ kia được mang đi chôn cất. Hãy cảnh báo nàng ấy, ngươi biết điều gì đó về sự thật và quyền lực của bà ấy, hãy nói chuyện nhẹ nhàng hơn với người cai trị vùng đất này. Hãy chuyển lời cho nàng ấy từ ta, rằng, nếu nàng không phải là đại sứ của tử thần, do đó bất khả xâm phạm, nếu không chắc chắn giờ nàng đã chia sẻ chung quan tài với chồng nàng rồi. Tạm biệt, ngày mai chúng ta sẽ lại nói chuyện,” rồi buông dây cương của Pháp Sư, Oros đi qua.
Chúng tôi nhanh chóng bỏ lại đám đưa tang phía sau và đi ra khỏi hẻm núi, rẽ lên sườn Ngọn Núi, hướng về phía sườn tuyết màu sáng nằm không xa phía trên. Chính vào lúc chúng tôi bước ra khỏi thung lũng mù mịt này, nơi đám thông nhô lên gần như che khuất ánh sáng, đột nhiên chúng tôi lạc mất người dẫn đường.
“Cô ấy đã quay trở lại – đối phó với Khania ư?” tôi hỏi Oros.
“Không!” ông ấy trả lời bằng nụ cười nhẹ, “Ta nghĩ nàng ấy đã đi trước để thông báo các vị khách của Hesea đã sắp tới.”
“Thật sao,” tôi trả lời, khó nhọc nhìn chằm chằm vào sườn núi trống trải bên trên, không một con chuột nào có thể đi qua mà không bị nhìn thấy. “Tôi hiểu rồi – cô ấy đã đi trước,” và câu chuyện bị bỏ xuống. Nhưng điều tôi không hiểu nổi là – cô ta biến mất như thế nào. Tuy nhiên Ngọn Núi như tổ ong với các hang động và hành lang, tôi cho rằng cô ta đã đi vào một trong số đó.
Suốt cả ngày còn lại, chúng tôi đi bộ lên trên, dần dần tới gần sườn tuyết hơn, đồng thời thu thập thêm ít thông tin trong chừng mực có thể từ linh mục Oros. Đây là tổng hợp của tất cả - Từ khi thế giới bắt đầu hình thành, theo ông ấy diễn tả, đó là từ hàng nghìn hàng nghìn năm trước, Ngọn Núi này đã là ngôi nhà để thờ phụng ngọn lửa đặc biệt, đại tư giáo đứng đầu là một phụ nữ. Tuy nhiên khoảng hai mươi thế kỷ trước, vị tướng quân xâm lược tên là Rassen, đã tự phong mình là Khan của Kaloon. Rassen đã lập một nữ tu sĩ mới trên Ngọn Núi, tín đồ của nữ thần Ai Cập Hes, hay Isis. Vị nữ tu này đưa ra vài sửa đổi trong các học thuyết cổ xưa, thay thế sự sùng bái ngọn lửa, sự tinh khiết và đơn giản, bằng một niềm tin mới, trong đó giữ lại một số nghi lễ cổ, để tôn kính người đứng đầu tín ngưỡng đó là Linh Hồn của Sự Sống, hay Mẹ Tự Nhiên, người ta coi nữ tu sĩ này là người đại diện trần thế của Ngài.
Về nữ tu sĩ này, Oros chỉ nói với chúng tôi rằng bà ấy “luôn luôn hiện diện”, dù chúng tôi thu thập và biết rằng khi một nữ tu chết hay được “đưa vào ngọn lửa”, như ông gọi, đứa con của bà ấy, dù thật hay là con nuôi, đều có một cái tên giống nhau, “Hes” hay “Hesea” hay “Đức Mẹ”. Chúng tôi hỏi liệu có thể gặp được Đức Mẹ này không, ông ấy trả lời, bà ấy rất hiếm khi ra mặt. Ông không nói gì về vẻ ngoài và tính cách của bà ấy, ngoại trừ việc người trước bị biến đổi từ lần này sang lần khác và khi bà ấy lựa chọn sử dụng nó, bà ấy có “tất cả quyền năng”.
Các linh mục nam trong Học Viện, ông ấy bảo chúng tôi, có ba trăm người, chưa bao giờ nhiều hay ít hơn, và cũng có đúng ba trăm nữ linh mục. Một số trong đó mong muốn được phép kết hôn, con cháu họ lại được nuôi nấng thành thế hệ tu sĩ nam và nữ mới. Họ đều là người cùng một dân tộc với nhau, mang đặc trưng chủng tộc riêng biệt. Thực ra điều này rất rõ ràng, vì đoàn hộ tống chúng tôi tất cả đều cực kỳ giống nhau, rất đẹp trai và vẻ bề ngoài vô cùng tinh tế, mắt đen, đầu cắt sạch sẽ, da màu ô liu; có lẽ là một chủng tộc có nguồn gốc từ phương Đông mang dòng máu cao quí, có một chút Ai Cập và Hy Lạp bị ném vào.
Chúng tôi hỏi ông ấy cây cột trụ mang thòng lọng hùng vĩ nhô lên từ đỉnh Ngọn Núi là tác phẩm của con người phải không. Ông ấy trả lời, Không; bàn tay của Mẹ Tự Nhiên đã tạo nên nó, và ánh sáng chiếu xuyên qua nó đến từ lửa cháy ở miệng ngọn núi lửa. Vị nữ tu sĩ đầu tiên đã nhận ra cây cột khổng lồ này là Biểu Tượng Sự Sống quen thuộc trong tập tục thờ phụng của người Ai Cập, nên đã lập bàn thờ của mình dưới bóng nó.
Phần còn lại, Ngọn Núi hùng vĩ được cư ngụ bởi vô số người bán hoang dã, chấp nhận sự cai trị của Hesea, tiến cống bà mọi thứ cần thiết, như thức ăn và kim loại. Tuy nhiên các tu sĩ cũng tự gieo trồng được nhiều thịt và ngũ cốc trên những trang trại có mái che, họ tìm ra kim loại bằng chính bàn tay mình. Tuy nhiên luật lệ này mang tính đạo đức, vì bao thế kỷ qua, Học Viện không tìm cách chinh phạt và Đức Mẹ hài lòng khi trừng phạt tội lỗi theo cách chúng tôi đã nhìn thấy. Đối với những cuộc chiến tranh nhỏ lẻ giữa các bộ lạc và dân tộc vùng Đồng Bằng, họ không có trách nhiệm, các thủ lĩnh thực hiện chúng đều bị phế truất, trừ khi họ bị tấn công. Tuy nhiên tất cả các bộ lạc đều tuyên thệ bảo vệ Hesea và Học Viện, bản thân họ cũng tranh cãi rất nhiều, nhưng nếu nhu cầu phát sinh, họ sẵn sàng hi sinh vì bà ấy tới người cuối cùng. Một lần, chiến tranh đã nổ ra giữa các tu sĩ trên Ngọn Núi và nhân dân Kaloon; họ đã cố gắng chuẩn bị cho trận chiến vĩ đại cuối cùng này.
Đại ý câu chuyện của ông ấy là như vậy, sau này chúng tôi biết, mỗi chi tiết cụ thể đó đều là sự thật.
Gần hoàng hôn, chúng tôi tới sơn cốc rộng lớn trải dài hàng ngàn mẫu, nằm dưới tràng tuyết trên đỉnh và phủ đầy đất màu mỡ bị rửa trôi xuống từ bên trên, tôi cho là như vậy. Chỗ này có mái che do kết cấu của nó và ngọn núi treo bên trên, quay mặt về hướng tây nam, nhờ độ cao này, nó sản sinh ra ngô và các cây ôn đới khác vô cùng phong phú. Học viện có trang trại ở đây, có vẻ được nuôi trồng rất tốt. Sơn cốc tuyệt vời này không thể nhìn thấy được từ bên dưới, chúng tôi đi vào đó qua một cánh cổng tự nhiên, có lẽ dễ dàng phòng thủ với chủ nhân.
Có nhiều đặc thù khác, nhưng không cần thiết mô tả sâu hơn ngoài việc nói rằng, tôi nghĩ đất đai được hưởng lợi từ sức nóng tự nhiên của núi lửa, khi nó tuôn trào như thường thấy, các dòng dung nham luôn trào ra phía bắc và phía nam của sơn cốc. Quả thật, chính các dòng dung nham đã tạo thành những vách đá phòng thủ bảo vệ.
Vượt qua vùng đất như khu vườn này, chúng tôi tới một thị trấn nhỏ xinh đẹp bằng dung nham đá. Nơi đây các tu sĩ cư ngụ, ngoại trừ những người theo bổn phận, không ai trong các bộ lạc hay người lạ được phép đặt chân vào nơi này.
Đi theo con đường chính trong thị trấn, chúng tôi đến trước mặt vách đá ngoài cùng, và thấy mình đang đứng trước một cổng tò vò lớn đang đóng, cánh cổng bằng sắt khổng lồ được rèn ra một cách thần kỳ. Dắt con ngựa đi, đoàn hộ tống bỏ lại chúng tôi một mình với Oros. Khi chúng tôi tới gần hơn, cánh cổng lớn xoay bản lề ngược lại. Chúng tôi đi qua – cảm giác tôi không thể tả nổi – rồi lò dò đi xuống hành lang hẹp có điểm cuối là những cánh cửa cao bằng sắt. Chúng cũng xoay mở theo hướng chúng tôi, ngay sau đó chúng tôi lại bị lảo đảo vì kinh ngạc và gần như mù mịt trước ánh sáng dữ dội từ bên trong.
Bạn là người đọc, hãy tưởng tượng đang ở gian giữa của điện thờ mênh mông. Sau đó kích thước tăng lên gấp đôi gấp ba, bạn sẽ có khái niệm về đền thờ chúng tôi nhìn thấy. Có lẽ ban đầu nó là một cái hang, ai biết được? Nhưng giờ bức tường sâu hoắm, vô số cột mọc lên mái vòm xa xa phía trên chúng tôi, tất cả đều được tạo ra nhờ công sức và theo cách thức của những người đã chết từ lâu; không nghi ngờ gì đó hẳn là những tín đồ của ngọn lửa cổ xưa từ hàng nghìn năm trước.
Bạn sẽ tự hỏi làm sao một nơi lại được chiếu sáng đến như vậy, nhưng tôi nghĩ bạn sẽ không bao giờ đoán được. Đó là – bởi những cột lửa sống động đang xoắn lại! Tôi đếm được mười tám cột lửa, nhưng có thể còn những cột khác. Chúng sinh ra từ sàn một cách đều đặn theo từng hàng trong điện thờ tạo thành các lối đi. Ngay ở mái nhà chúng lại tách ra, theo chiều cao và chu vi, khốc liệt như có lực khí thiên nhiên đang điều khiển chúng, và biến mất thông qua những ống khói bằng đá dày cộm. Chúng không có mùi hay có khói, ở nơi mênh mông lạnh lẽo này, sức nóng nào cũng có thể nhận thấy, chỉ có một ánh sáng trắng cường độ lớn đủ để nung chảy sắt, rít lên âm thanh sắc nét như hàng triệu con rắn đang giận dữ.
Ngôi đền khổng lồ hoàn toàn vắng vẻ, ngoại trừ tiếng rít tràn ngập, còn lại hoàn toàn im ắng; một nơi tuyệt vời, mang sức mạnh áp đảo.
“Những cây nến này đã bao giờ tắt chưa?” Leo hỏi Oros, che bàn tay trước mắt vì chói lóa.
“Làm sao có thể chứ,” vị linh mục đáp, giọng nói trơn tru và rất thực tế, “nhìn này, chúng sinh ra từ ngọn lửa vĩnh hằng được những người xây dựng khán đường này tôn thờ? Thế nên ngay từ đầu chúng đã cháy và sẽ cháy vĩnh viễn, dù nếu chúng ta muốn, chúng ta có thể tắt ánh sáng đi. 4 Xin mời theo ta: các ngươi sẽ thấy những thứ còn hùng vĩ hơn.”
4 Điều này sau đó tôi đã xác định chắc chắn, được thực hiện bằng cách đẩy một tảng đá rộng có độ dày lớn hơn khẩu độ mà khí hay lửa đi qua rồi cắt ngang không khí. Những hòn đá đó được thao tác qua lại bằng các ròng rọc nối với nhau qua những thanh sắt. – L.H.H.
Thế là chúng tôi đi theo trong im lặng đến kinh ngạc, ôi! Ba người chúng tôi mới nhỏ bé và khốn khổ làm sao, đơn độc trong ngôi đền khổng lồ đượi soi rọi nhờ ánh sáng chói lọi kia. Cuối cùng chúng tôi cũng tới cuối đền thờ, chỉ thấy ngay bên phải và bên trái cũng chạy ra các gian ngang có cùng kích cỡ và được chiếu sáng theo cùng cách thức kinh ngạc như vậy. Oros chặn chúng tôi dừng ở đây, và đợi một lúc, tới khi từ gian ngang sinh ra lời cầu nguyện, chúng tôi nhận ra hai đám rước mang áo choàng trắng tiến lên phía chúng tôi từ dưới sâu.
Khi họ từ từ đi đến, chúng tôi nhìn thấy đám rước bên phải là đoàn các nam tu sĩ, đám bên trái là đoàn các nữ tu sĩ, tất cả khoảng một trăm người.
Giờ đây những người đàn ông xếp hàng trước mặt chúng tôi, trong khi phụ nữ xếp hàng phía sau, theo sự ra hiệu từ Oros, tất cả họ cất lên lời tụng kinh hoang dại và ly kì, chúng tôi lại nhìn chằm chằm về phía trước một lần nữa, lúc này dọc theo hành lang hẹp, cặp cửa gỗ đã đóng lại ở cuối. Khi đám rước chúng tôi tới, cặp cửa mở ra, phía trước chúng tôi, một kỳ quan uốn vòng của ngôi miếu kỳ diệu này đang nằm đó, một khu tụng niệm hình elip khổng lồ. Giờ chúng tôi đã hiểu. Cách bố trí ngôi đền là cách bố trí cây cột trụ có thòng lọng đứng trên đỉnh Ngọn Núi, và chúng tôi đoán đúng, kích thước của chúng là như nhau.
Các cột lửa bùng lên quanh hình elip đều đặn theo nhịp, nhưng phần còn lại nơi này đều trống không.
Không, không hoàn toàn thế, vì ở đầu khu tụng niệm, gần giữa hai cột lửa, một bàn thờ bằng phẳng vuông vắn nhô lên, có kích thước một căn phòng nhỏ, phía trước, khi đến gần hơn chúng tôi thấy treo rèm dệt bằng sợi bạc. Trên bàn thờ đặt một tượng lớn bằng bạc, quay lưng lại tảng đá đen, dường như để thu lại và phản xạ ánh sáng cường độ lớn của hai cột trụ rực lửa trên bề mặt được đánh bóng của nó.
Thật là đẹp, nhưng rất khó mô tả. Thân ảnh có cánh đại diện cho một phụ nữ trưởng thành bị bọc vải, hình dáng tinh khiết nhưng duyên dáng, nửa ẩn dấu dưới đôi cánh nghiêng về phía trước. Được che chở, và hiện ra giữa đôi cánh, là hình ảnh một chú bé, được siết chặt vào ngực người mẹ bên tay trái, còn tay phải giơ lên bầu trời. Một tác phẩm về tình Mẹ, rõ ràng vậy, nhưng tôi viết thế nào đây về những gì các gương mặt được chạm khắc kia truyền đạt lại?
Bắt đầu với đứa trẻ. Đó là cậu bé mạnh mẽ, đầy sức khỏe và niềm vui với cuộc đời. Nhưng cậu đang ngủ, và trong giấc ngủ có gì đó kinh hoàng phủ lên cậu màu tối tăm của cái chết và quỉ dữ. Có sự sợ hãi trên khóe miệng ngọt ngào của cậu, và đôi môi cùng cặp má dường như đang run rẩy. Cậu quàng cánh tay nhỏ lên cổ mẹ, áp gần ngực bà, nhìn lên phía bà cho an toàn, tay phải cậu xòe ra chỉ xuống và ra phía sau, như thể ám chỉ nguy hiểm đến từ đâu. Nhưng nó đã đi qua, gần như bị quên lãng, vì đôi mắt ngước lên bày tỏ lòng tin hồi sinh, thanh thản trong lòng đã đạt được.
Còn người mẹ. Bà dường như không chế nhạo hay rầy la sự sợ hãi của đứa trẻ, vì gương mặt đẹp đẽ của bà đầy lo lắng và cảnh giác. Nhưng nó mang một bầu không khí dịu dàng không đổi và sức mạnh bất khả chiến bại; quan tâm cho người bất lực, mạnh mẽ che chở khỏi mọi nguy hại. Đôi mắt lớn và bình tĩnh kể câu chuyện của họ, đôi môi hé mở thì thầm câu chuyện về hy vọng, cẩn thận và bất tử; bàn tay giơ lên tiết lộ hy vọng sinh ra từ đâu. Toàn bộ tình yêu dường như tụ tập trong hình ảnh che chở đó, thật nhân bản, thật thiêng liêng; toàn bộ bầu trời như nằm trên lối đi đã khai thông trước đôi cánh run rẩy đó. Và nhìn xem, mu bàn chân cong lên, gót chân như nhảy lên, gợi ý những đôi cánh kia đang bị trói buộc, mang theo gánh nặng Chúa ban cho thoát khỏi sự khủng bố trên trần thế, ẩn sâu trong lòng phần bất biến còn lại.
Bức tượng chỉ nói về một đứa bé đang sợ hãi trong cánh tay mẹ; ý nghĩa rõ ràng dựa trên vẻ vô tri nhất mang tính biểu tượng hóa đơn giản của một thiên tài – Nhân Loại được Thần Thánh cứu rỗi.
Trong khi chúng tôi mải nhìn chằm chằm vào vẻ đẹp mê hoặc của nó, các nam nữ tu sĩ đã đi sang phải và trái, xếp hàng luân phiên, một đàn ông rồi tới một phụ nữ, trong vòng những cây cột lửa rực cháy mang hình chiếc thòng lọng thần thánh. Cảnh thật tuyệt vời, cả trăm người họ phải đứng cách xa nhau và trong tầm nhìn của chúng tôi, giống như lũ trẻ nhỏ đơn độc khoác quần áo lóng lánh, bài ca thờ phụng của họ chạm đến chúng tôi như tiếng vọng ném ra từ vách núi phía xa xa. Rất nhanh chóng, ảnh hưởng của thánh tích và các cư dân của nó áp đảo tuyệt vời, ít ra tôi biết nó làm tôi tràn đầy cảm giác giống như sợ hãi.
Oros chờ đợi tới khi vị tu sĩ cuối cùng đi tới vị trí định trước. Rồi ông ấy quay lại và bảo, bằng âm thanh nhẹ nhàng, tôn kính – “Hãy tới đêm nay, ngay bây giờ, O, hỡi những kẻ lang thang đáng mến, và hãy gửi lời chào tới Đức Mẹ,” và ông ấy chỉ về phía bức tượng.
“Bà ấy ở đâu?” Leo hỏi bằng giọng thì thầm, vì nơi này chúng tôi không dám nói to. “Tôi không thấy ai cả.”
“Hesea ngự ở kia,” ông ấy trả lời, cầm tay mỗi người chúng tôi, dẫn đi lên trước dọc theo không gian trống trải rộng lớn của khu tụng niệm tới bàn thờ phía trước.
Khi chúng tôi tới gần, lời tụng kinh phía xa của các tu sĩ tăng dần âm lượng, như niềm vui mừng, chiến thắng, đối với tôi – có lẽ là dễ chịu – ánh sáng từ các cột lửa xoắn có vẻ sáng hơn.
Cuối cùng chúng tôi tới đó, Oros bỏ tay chúng tôi ra, tự quì lạy ba lần trước bàn thờ. Rồi ông ấy đứng dậy, lùi lại sau chúng tôi, đứng im lặng cúi đầu và gập các ngón tay lại. Chúng tôi cũng đứng im lặng, tâm hồn chúng tôi tràn đầy hy vọng trộn lẫn sợ hãi như một cốc rượu.
Sức lực của chúng tôi đã chấm dứt? Chúng tôi đã tìm thấy bà ấy, người chúng tôi đang tìm kiếm, hay không chừng chúng tôi lại vướng vào tấm mạng kỳ quái thần bí nào đó và sẵn sàng làm quen với bí mật của một nghi lễ tôn thờ thần bí mới nữa chăng? Chúng tôi đã tìm kiếm năm này qua năm khác, chịu đựng mọi gian khổ thể xác và linh hồn mà con người có thể chịu được, giờ chúng tôi sẽ biết mình có chịu đựng trong vô vọng hay không. Đúng, và Leo có thể biết lời hứa hẹn có được cậu hoàn thành hay không, hay người cậu yêu thương đã trở thành một giấc mơ xa xôi chỉ được tìm thấy ngoài cánh cổng Tử Thần. Không ngạc nhiên khi cậu run rẩy và trắng bệch trước đau thương và hồi hộp lớn lao này.
Thời gian trở nên dài, rất dài. Hàng giờ, hàng năm, hàng niên đại, hàng kiếp, dường như ào ạt chảy về phía chúng tôi khi chúng tôi đứng đó, trước tấm rèm bạc lấp lánh che phía trước bàn thờ tối đen, bên dưới là vẻ bí ẩn của gương mặt như nhân sư, hình ảnh vinh quang của một người bảo vệ, mang nụ cười băng giá của tình yêu vĩnh hằng và lòng thương xót. Toàn bộ quá khứ đi ra trước chúng tôi như thể vật lộn trong dòng nước tối tăm của hoài nghi. Từng thứ từng thứ một, từng sự kiện nối tiếp từng sự kiện, chúng tôi nghe thấy câu chuyện bắt đầu ở Khu Hang Động Kôr, theo dòng suy tư cứ dài ra mãi như thế, mở rộng và sáng lên trong tâm hồn.
Ôi! Giờ chúng tôi đã biết, chúng cũng được mở thông tới tâm hồn khác. Chúng tôi không thể thấy gì ngoài Bàn Thờ và Hình Nộm, chúng tôi chỉ nghe thấy lời tụng kinh chậm rãi của các nam nữ tu sĩ và tiếng rít như rắn của đống lửa bùng cháy. Nhưng chúng tôi thấy trái tim mình như một quyển sách đã mở cho Người quan sát dưới đôi cánh che chở của Đức Mẹ.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...