Thứ Tư, 15 tháng 7, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 13



Chương 13: Dưới Đôi Cánh che chở

Đám người trong bộ lạc kinh sợ lần lượt từng người một bò đi mất. Khi người cuối cùng biến mất, linh mục tiến tới chỗ Leo và chào cậu bằng cách đặt tay lên trán.
“Thưa Ngài,” ông ấy nói, bằng phương ngữ Hy Lạp lộn xộn giống đám cận thần ở Kaloon, “Ta sẽ không hỏi liệu ngài có đau không, vì từ lúc ngài bước vào dòng sông cấm và đặt chân lên mảnh đất này, ngài và bạn đồng hành của ngài đã được bảo vệ dưới quyền năng vô hình và không ai hay linh hồn nào có thể làm hại, nhưng nguy hiểm của ngài vẫn rất lớn. Nhưng những bàn tay thấp hèn đã đặt lên ngài, và đây là lệnh từ Đức Mẹ ta phụng sự, nếu ngài muốn, mọi người chạm vào ngài sẽ phải chết trước mắt ngài. Hãy nói đi, đó có phải là ý nguyện của ngài không?”
“Không,” Leo trả lời; “bọn họ điên cuồng và mù quáng, đừng để máu đổ vì chúng tôi nữa. Tất cả những gì chúng tôi yêu cầu từ ngài, ông bạn – nhưng ông gọi là gì nhỉ?”
“Hãy gọi ta là Oros,” ông ấy trả lời.
“Ông bạn Oros – một cái tên hay với người cư ngụ trên Ngọn Núi – tất cả những gì chúng tôi yêu cầu là thức ăn và nơi trú ẩn, và được dẫn đường nhanh chóng tới nơi hiện diện của người ngài gọi là Đức Mẹ, Vị Tiên Tri mà chúng tôi đã qua bao hành trình tìm kiếm sự thông thái của bà ấy.”
Ông ấy cúi đầu trả lời: “Thức ăn và chỗ ở đã được chuẩn bị, ngày mai khi ngài đã nghỉ ngơi, ta được ra lệnh dẫn ngài tới nơi ngài muốn. Hãy đi theo ta, ta sẽ cầu nguyện cho ngài;” ông ấy đưa chúng tôi đi qua hố lửa tới ngôi nhà cách đó năm mươi thước cạnh tường đá của đấu trường.
Có lẽ là nhà khách, hoặc ít ra cũng sẵn sàng dùng cho mục đích đó, trong đó đèn đã thắp lên và một đống lửa đang cháy, vì ở đây không khí rất lạnh. Ngôi nhà chia thành hai phòng, phòng thứ hai là chỗ ngủ, ông ấy dẫn chúng tôi vào phòng đầu tiên.
“Vào đi,” ông ấy nói, “vì các ngài cần tắm rửa sạch sẽ,” – ông ấy tự nói với tôi – “còn ngài, sẽ được điều trị vết thương trên tay do con chó săn lớn cắn.”
“Làm sao ngài biết điều đó?” tôi hỏi.
“Không sao nếu ta biết và đã sẵn sàng,” Oros nghiêm túc trả lời.
Phòng thứ hai được thắp sáng và sưởi ấm như phòng thứ nhất, nước nóng đặt trong các chậu kim loại và trên giường có quần áo vải lanh sạch sẽ cùng áo choàng trùm đầu màu tối, lót bằng lông thú dày dặn. Trên bàn nhỏ là thuốc mỡ, băng, nẹp, thật kỳ diệu khi thấy vậy, vì nó nói cho tôi biết đặc điểm vết thương của mình đã được nhận biết. Nhưng tôi không hỏi thêm gì nữa; tôi cũng rất mệt; hơn nữa, tôi biết chắc sẽ vô dụng.
Giờ vị linh mục Oros giúp tôi cởi áo choàng rách nát, và tháo đống băng thô sơ trên cánh tay, rửa sạch nó nhẹ nhàng bằng nước ấm, rồi ông ấy trộn ít tinh dầu, và kiểm tra vết thương như một bác sĩ đã được đào tạo bài bản.
“Răng nanh đã cắm vào rất sâu,” ông ấy nói, “xương nhỏ đã bị vỡ, nhưng sẽ không có hại với ngài, chỉ còn lưu lại các vết sẹo thôi.” Sau khi điều trị vết thương bằng thuốc mỡ, ông ấy quấn tay tôi rất chặt và tinh tế, hầu như không hề gây đau đớn, rồi bảo ngày mai vết sưng tấy sẽ giảm dần, và ông ấy sẽ nắn xương. Thực sự đúng vậy.
Sau khi xong xuôi, ông ấy giúp tôi tắm gội và mặc quần áo sạch cho tôi, rồi đặt băng đeo ở cổ cho phần còn lại của cánh tay. Trong lúc đó, Leo cũng mặc xong quần áo, chúng tôi cùng nhau rời phòng, là những người rất khác với những kẻ lang thang hôi hám, nhuốm đầy máu vừa bước vào lúc trước. Ở phòng ngoài, chúng tôi thấy thức ăn đã được chuẩn bị cho mình, chúng tôi ăn với lòng biết ơn và không nói chuyện. Sau đó, mờ mịt và mỏi mệt, chúng tôi trở về phòng kia, cởi áo ngoài, quăng mình lên giường và nhanh chóng rơi vào giấc ngủ.
Một lần giữa đêm, tôi đột nhiên tỉnh giấc, tôi không biết vào lúc mấy giờ, nhưng vài người chắc đã thức dậy, tôi chỉ là một trong số họ, khi đó căn phòng đã bị mở ra không một tiếng động. Trước khi mở mắt, tôi đã cảm nhận được ai đó đang ở bên chúng tôi chỗ này. Tôi đã không nhầm. Ngọn đèn nhỏ vẫn cháy trong phòng, cái bấc duy nhất đang nổi trong dầu, dưới ánh đèn, tôi thấy thân ảnh lờ mờ như bóng ma đứng gần cửa. Tôi thực sự nghĩ đó là một con ma, giờ tôi mới nhớ ra, đó là người dẫn đường như xác ướp của chúng tôi, người đó dường như đang nhìn chăm chú vào chiếc giường nơi Leo nằm, hoặc tôi nghĩ vậy, vì đầu đang quay về hướng đó.
Lúc đầu, cô ấy hoàn toàn đứng yên, sau đó cô ấy lớn tiếng rên rỉ, một tiếng rên trầm và kinh khủng, như đi từ tận đáy lòng.
Cô ấy không câm như tôi tưởng. Rõ ràng đang đau khổ, và thể hiện nỗi đau khổ theo cách của con người. Nhìn kìa! Cô ấy đang vắt tay như trong nỗi đau đớn tột đỉnh. Giờ có lẽ Leo cũng bắt đầu cảm thấy ảnh hưởng của cô ấy, vì cậu cựa mình và nói trong giấc ngủ, nhỏ đến mức tôi chỉ có thể phân biệt theo giọng lưỡi cậu sử dụng, đó là tiếng Ả Rập. Giờ tôi đã nghe được vài từ.
“Ayesha,” cậu ấy nói, “Ayesha!”
Thân ảnh kia lướt về phía cậu và dừng lại. Cậu ngồi dậy trên giường trong khi vẫn ngủ say, đôi mắt vẫn nhắm chặt. Cậu giang đôi tay, như thể tìm kiếm ai đó cậu muốn ôm, và nói lại trong giọng trầm thấp đầy khao khát – “Ayesha, ta đã tìm nàng lâu lắm rồi, xuyên qua cả sự sống và cái chết. Hãy đến với ta, nữ thần của ta, tình yêu của ta.”
Thân ảnh trượt lại gần hơn, và tôi có thể thấy nó đang run rẩy, giờ cánh tay nó cũng mở rộng ra.
Cô ấy dừng lại bên giường, Leo lại tự nằm xuống. Giờ chăn đã rơi xuống, để lộ ngực cậu, trên đó có chiếc túi da cậu luôn luôn đeo, có chứa lọn tóc của Ayesha. Cậu ấy đang ngủ say, thân ảnh đó dán mắt lên chiếc túi. Hiện giờ còn hơn thế, vì ngạc nhiên, những ngón tay bọc vải trắng đã mở nắp túi, đúng, và lôi ra túm tóc dài óng ánh. Cô ấy nhìn chằm chằm vào nó rất lâu và tha thiết, rồi nhẹ nhàng đặt lại di vật vào đó, đóng túi lại và dường như khóc một chút. Trong lúc cô ấy đứng đó, Leo lại mơ màng một lần nữa giang tay ra và nói, bằng giọng nặng trĩu khát khao – “Hãy đến với ta, người yêu ơi, người đẹp của ta, người đẹp của ta!”
Trước những lời đó, một tiếng kêu mang chút nghẹn ngào vang lên như của con cú đêm đang kinh sợ, thân ảnh đó quay đi và lướt qua cửa ra vào.
Khi tôi hoàn toàn chắc chắn cô ấy đã biến mất, tôi thở hổn hển thành tiếng.
Điều này có nghĩa là gì, tôi tự hỏi trong cơn gấp gáp hoang mang. Chắc không phải là mơ: đó là sự thật, vì tôi rõ ràng đã tỉnh. Quả thật, toàn bộ chuyện này có ý nghĩa gì? Ai là vật ma quái như xác ướp dẫn đường cho chúng tôi lành lặn vượt qua những hiểm nguy kia; Sứ Giả mà mọi người khiếp sợ, có thể làm ngừng khí thế tấn công của đám người hoang dã chỉ bằng chuyển động bàn tay là ai? Tại sao cô ấy lại tới đây vào đêm khuya như một linh hồn thăm lại người yêu thương? Tại sao sự hiện diện của cô ấy khiến tôi tỉnh giấc còn Leo mơ màng? Tại sao cô ấy lấy lọn tóc ra; thực ra làm sao cô ấy biết lọn tóc bị giấu trong đó? Và tại sao – ôi! Tại sao, trước những lời dịu dàng và đầy khao khát kia, cô ấy lại bay mất như con dơi đang sợ hãi?
Linh mục Oros gọi người dẫn đường của chúng tôi là Mục Sư, và Thanh Gươm, là một trong những người thực thi các mệnh lệnh. Nhưng có chuyện gì nếu chúng đều là các mệnh lệnh của chính cô ấy? Chuyện gì đây nếu cô ấy chính là người chúng tôi tìm kiếm, Ayesha? Tại sao tôi lại run sợ trước suy nghĩ này, nếu vậy, cuộc tìm kiếm của chúng tôi đã kết thúc, chúng tôi đã thành công phải không? Ôi! Hẳn là thế vì sinh vật kia mang điều gì đó kinh khủng, phi nhân tính và gây khiếp sợ. Nếu Ayesha sống trong lớp vải xác ướp này, thì đó là một Ayesha khác với người chúng tôi biết và tôn thờ. Tôi vẫn còn nhớ rõ thân ảnh quấn vải trắng của Bà ấy – Người chúng ta phải tuân lệnh, và bao lâu sau mới tiết lộ gương mặt kiều diễm cho chúng tôi, chúng tôi đã đoán vẻ đẹp và sự uy nghi ẩn sau tấm mạng che vì sức sống rạng ngời và thân thể yêu kiều của bà không thể ngụy trang được.
Nhưng còn sinh vật này? Tôi không muốn theo đuổi suy nghĩ đó. Tôi đã lầm lẫn rồi. Không nghi ngờ nữa, cô ấy chính là những gì mà linh mục Oros đã nói – một con người nửa siêu nhiên được ban cho những quyền năng cụ thể nào đó, cô ấy có thể là gián điệp ở chỗ chúng tôi, có thể báo cáo lại mọi chuyện với người ban cho những quyền năng này.
Để an ủi bản thân, tôi cảm thấy buồn ngủ trở lại, vì mệt mỏi vượt qua cả nghi ngờ và sợ hãi. Buổi sáng, khi tự nhiên chúng bớt sống động đi, tôi quyết định, vì nhiều lý do, khôn ngoan nhất là không nói những gì tôi đã thấy cho Leo. Thực ra tôi đã không làm thế cho đến vài ngày sau.
Khi tôi tỉnh dậy, ánh sáng đã tràn đầy căn phòng, tôi thấy linh mục Oros đang đứng bên giường tôi. Tôi ngồi dậy, hỏi ông ấy mấy giờ rồi, ông ấy mỉm cười trả lời bằng giọng trầm lắng, đã gần hai giờ trưa, và nói thêm ông sẽ cố định cánh tay cho tôi. Giờ tôi biết tại sao ông ấy nói nhỏ, vì Leo vẫn ngủ say.
“Hãy để anh ta nghỉ ngơi tiếp,” ông ấy nói, rồi tháo lớp vải quấn tay tôi, “vì anh ta đã chịu đau đớn rất nhiều,” ông ấy nói tiếp một cách rõ ràng, “và có lẽ sẽ phải chịu nhiều đau đớn hơn.”
“Ngài có ý gì, Oros thân mến?” tôi sắc bén hỏi lại. “Tôi nghĩ ngài đã bảo rằng chúng tôi sẽ an toàn trên Ngọn Núi này.”
“Ta kể cho ngươi, anh bạn” và ông ấy nhìn tôi.
“Holly là tên tôi”.
“Anh bạn Holly, thể xác các vị an toàn. Ta không nói gì về phần còn lại của các vị. Con người không chỉ có da thịt và máu. Họ có đầu óc và linh hồn nữa, những cái đó có thể bị tổn thương.”
“Ai có thể làm chúng bị tổn thương chứ?” tôi hỏi.
“Anh bạn,” ông ấy nghiêm nghị trả lời, “anh và bạn đồng hành của anh đã tới một vùng đất bị ma ám, không phải chỉ là những kẻ lang thang, vì các người có thể đã chết trước cả bây giờ, mà còn vì mục đích tìm kiếm để vén tấm màn bí ẩn đã bị che dấu bao năm tháng. Phải, mục đích của các ngươi đã bị biết đến và có lẽ sẽ đạt được. Nhưng nếu tấm mạng che đó được vén lên, cũng có khả năng các ngươi sẽ thấy linh hồn mình run rẩy đến tuyệt vọng và điên cuồng. Nói đi, ngươi không sợ sao?”
“Cũng hơi sợ,” tôi trả lời. “Nhưng con trai nuôi của tôi và tôi đã nhìn thấy những chuyện ly kỳ và vẫn sống sót. Chúng tôi đã thấy Ánh Sáng của Sự Sống cuộn chảy thần bí; chúng tôi đã làm khách của một người Bất Tử, và quan sát Tử Thần chinh chiến với bà ấy rồi rời bỏ mà không chạm được vào chúng tôi. Ngài nghĩ xem, chúng tôi giờ sẽ biến thành những kẻ hèn nhát ư? Không, chúng tôi sẽ bước tiếp để thực hiện sứ mệnh của mình.”
Trước những lời đó, Oros không thể hiện sự tò mò hay kinh ngạc; như thể tôi nói một điều ông đã biết.
“Tốt,” ông ấy đáp, mỉm cười, lịch sự gật cái đầu trọc, “trong một giờ nữa các ngươi sẽ đi tiếp – để thực hiện sứ mệnh của các ngươi. Nếu ta đã cảnh cáo ngươi, hãy tha lỗi cho ta, vì ta được ra lệnh làm thế, có lẽ để thử dũng khí của các ngươi. Liệu có cần ta nhắc lại lời cảnh báo này với chàng trai – “ ông ấy lại nhìn tôi.
“Leo Vincey” Tôi đáp.
“Leo Vincey, phải, Leo Vincey,” ông ấy lặp lại, như thể cái tên đó quen thuộc với ông ta nhưng vừa trượt khỏi đầu. “Nhưng ngươi chưa trả lời câu hỏi của ta. Có cần ta nhắc lại lời cảnh báo đó không?”
“Không; nhưng ngài có thể làm vậy nếu ngài muốn khi cậu ấy tỉnh dậy.”
“Không, ta nghĩ với ngươi thì có thể, nhưng sẽ phí lời, – tha thứ cho sự so sánh này – vì những gì sói muốn” – ông ta nhìn tôi – “hổ không thể thoát được,” rồi ông ta gật đầu về phía Leo. “Nào, nhìn xem vết thương trên tay ngươi đã tốt hơn bao nhiêu rồi, không còn bị sưng nữa. Giờ ta sẽ băng lại, vài tuần nữa xương sẽ tốt lại giống trước khi ngươi bị Khan Rassen săn đuổi trên bình nguyên. Dù sao, ngươi sẽ gặp lại hắn sớm thôi, và cả cô vợ xinh đẹp của hắn nữa.”
“Gặp lại hắn ư? Làm người chết trở thành sống trên Ngọn Núi này ư?”
“Không, nhưng chắc chắn họ được mang tới đây để mai táng. Đó là đặc quyền của tầng lớp thống trị ở Kaloon; ta cũng nghĩ, Khania sẽ có nhiều câu hỏi để hỏi Nhà Tiên Tri.”
“Ai là Nhà Tiên Tri?” tôi háo hức hỏi.
“Nhà Tiên Tri,” ông ấy trả lời mơ hồ, “là Giọng Nói. Luôn là như vậy, không phải sao?”
“Vâng; tôi đã nghe được từ Atene, nhưng giọng nói hàm ý chỉ người nói. Người nói này là người ngài gọi là Đức Mẹ phải không?”
“Cõ lẽ vậy, anh bạn Holly ạ.”
“Đức Mẹ này là một linh hồn ư?”
“Đó là điều gây nhiều tranh cãi. Người ta nói với ngươi như thế trên Đồng Bằng, đúng không? Các bộ lạc trên Ngọn Núi cũng nghĩ vậy. Nhưng ngươi có thể tự xét đoán rồi chúng ta sẽ tranh luận vấn đề này sau. Được rồi, tay ngươi đã xong. Giờ hãy cẩn thận đừng đánh vào nó hay bị ngã, nhìn kìa, bạn đồng hành của ngươi đã thức dậy.”
Một giờ sau đó, chúng tôi bắt đầu lên đường. Tôi lại trèo lên con ngựa của Khan, đã được chăm sóc và cho ăn nên được nghỉ ngơi phần nào, trong khi đó một chiếc kiệu được đưa cho Leo. Tuy nhiên cậu từ chối, bảo rằng giờ cậu đã hồi phục và không muốn bị khiêng như một phụ nữ. Vì thế cậu đi bộ bên cạnh ngựa của tôi, dùng giáo làm gậy. Chúng tôi đi qua hố lửa – giờ đã tắt, tro màu trắng, trong đó trộn lẫn cả xác tên phù thủy và con mèo kinh khủng của hắn – đi trước là người dẫn đường câm lặng của chúng tôi, trong lớp vải tái nhợt, người dân trong bộ lạc đã trở lại ngôi làng quì lạy họ, và cứ duy trì như thế cho đến khi cô ấy biến mất.
Nhưng một trong số họ lại đứng lên, xuyên qua đoàn linh mục hộ tống chúng tôi, chạy tới chỗ Leo, quì xuống trước cậu và hôn lên tay cậu. Đó chính là người phụ nữ trẻ được cậu cứu mạng, một cô gái có dáng vẻ cao quí, mái tóc dày màu đỏ, theo sau là chồng cô, dấu tích gông cùm vẫn hiện trên cánh tay anh ta. Người hướng dẫn có lẽ nhìn thấy cảnh đó, dù cô ấy làm vậy bằng cách nào tôi cũng không biết. Dù sao cô đã quay lại và ra hiệu linh mục giải thích.
Gọi người phụ nữ tới chỗ mình, ông ta lạnh lùng hỏi cô ấy làm sao dám chạm vào thân thể người lạ này bằng đôi môi thấp hèn của cô. Cô đáp rằng, đó là vì lòng biết ơn. Oros nói nếu vì lý do đó, cô được tha thứ; hơn nữa, để thưởng cho những gì họ phải chịu đựng, ông được ra lệnh nâng chồng cô thành người cai trị bộ lạc để làm hài lòng Đức Mẹ. Hơn nữa, ông ấy thông báo, tất cả phải tuân lệnh vị thủ lĩnh mới theo phong tục, và nếu anh ta làm điều xấu, hãy thông báo, anh ta có thể sẽ phải chịu trừng phạt. Rồi xua cặp đôi sang một bên, không nghe họ cám ơn hay lời tung hô của đám đông, ông ấy đi mất.
Khi xuống khe núi chúng tôi đã qua để vào ngôi làng này đêm trước, một tiếng tụng kinh đập vào tai chúng tôi. Giờ con đường có lối rẽ, và chúng tôi nhìn thấy một đám rước long trọng tiến lên hẻm núi ảm đạm không ánh mặt trời. Dẫn đầu, không ai khác là Khania xinh đẹp cưỡi ngựa, theo sau là ông bác vĩ đại của cô ấy, vị Pháp Sư già, sau họ là một đoàn linh mục cạo trọc đầu choàng áo trắng, mang một quan tài ở giữa, trên bề mặt không được che phủ là thi thể của Khan, bọc vải đen. Trông anh ta tốt hơn bất cứ lúc nào, vì giờ đây cái chết đã chạm tới người đàn ông mất trí và phóng đãng này, mang theo chút phẩm giá mà anh ta thiếu khi còn sống.
Chúng tôi gặp nhau như thế. Nhìn thấy thân ảnh màu trắng của người dẫn đường, con ngựa Khania cưỡi lồng lên bạo lực đến mức tôi nghĩ nó có thể ném cô ấy xuống. Nhưng cô dùng roi và giọng nói làm chủ con vật, và gọi to – “Ai là kẻ xấu xí bọc vải từ Ngọn Núi chặn giữa lối đi của Khania Atene và phu quân đã mất? Hỡi các vị khách của ta, ta tìm các ngươi đến phát ốm rồi, hình như các ngươi đã được một linh hồn xấu xa dẫn dắt tới gặp một định mệnh xấu xa. Kẻ dẫn đường kia của các ngươi chắc hẳn phải là thứ gì đó rất đáng ghét và ghê tởm, vì nếu là phụ nữ, cô ta sẽ không sợ lộ ra khuôn mặt.”
Giờ vị Pháp Sư kéo tay áo chủ nhân của mình, còn linh mục Oros cúi chào cô ấy, cầu xin cô im lặng và ngừng nói những lời mang điềm xấu đó trong không gian, mà cô ấy cũng không biết chúng sẽ được mang tới nơi nào. Nhưng sự căm ghét bản năng dường như đã nổi lên trong lòng Atene, cô không muốn im lặng, vì cô nói trực tiếp với người dẫn đường của chúng tôi bằng từ “ngươi”, cách nói chúng tôi thấy rất thông dụng trên Ngọn Núi, nhưng hiếm hoi ở Đồng Bằng.
“Hãy để không gian mang chúng tới nơi chúng sẽ tới,” cô ấy kêu lên. “Nữ phù thủy kia, hãy lột đống giẻ của ngươi ra, nó chỉ dành cho một xác chết quá thấp hèn để xem. Hãy thể hiện cho chúng ta ngươi là ai, ngươi, con cú đêm bay lượn kia, nghĩ rằng sẽ dọa ta sợ với dáng vẻ chết chóc chỉ dành che người chết đó sao.”
“Ngừng lại, tôi cầu xin ngài, thưa quí bà, hãy ngừng lại,” Oros nói, cựa mình khỏi vẻ bình tĩnh bất động. “Người đó là Mục Sư, đi cùng người đó là Quyền Năng.”
“Thế thì nó không chống lại được Atene, Khania của Kaloon,” cô ấy trả lời, “hay ta nghĩ vậy. Quyền Năng, hẳn là thế rồi! hãy để cô ta thể hiện quyền năng đi. Nếu cô ta sở hữu thứ không phải của mình, thì chỉ là Phù Thủy của Ngọn Núi, kẻ giả bộ là một linh hồn, cùng đám phù thủy mang các vị khách của ta đi mất” – rồi cô chỉ vào chúng tôi – “và đưa chồng ta tới chỗ chết.”
“Cháu gái, im lặng đi!” vị Pháp Sư già nói, gương mặt nhăn nhúm đã trắng bệch vì kinh sợ, trong lúc đó Oros đưa tay lên như thể khẩn cầu Sức Mạnh vô hình – “O, xin người hãy lắng nghe và nhìn đi, xin hãy thương xót, ta cầu xin người, hãy tha thứ cho người phụ nữ này vì sự điên rồ của nàng, máu của vị khách sẽ không vấy lên bàn tay tôi tớ của người, danh dự cổ xưa chúng ta tôn thờ sẽ bị hạ thấp trong mắt loài người.”
Ông ấy cầu nguyện nhưng tay vẫn giơ lên, dường như tôi thấy mắt ông dán lên người dẫn đường, giống như chúng tôi. Trong khi ông ấy nói, tôi thấy bàn tay cô ta giơ lên, giống như lúc cô ta giơ lên để giết, hay đúng hơn là kết tội thầy phù thủy. Sau đó cô ta dường như suy tư, đứng giữa không trung, chỉ vào Khania. Cô ta không cử động, không phát ra âm thanh, chỉ trỏ vào, và những lời tức giận ngưng bặt trên môi Atene, sự giận dữ rời khỏi đôi mắt cô và màu sắc rời khỏi gương mặt cô. Đúng, cô ấy trở nên trắng bệch và im lặng giống như cái xác trên chiếc quan tài phía sau. Sau đó, bị thúc đẩy bởi quyền năng vô hình, cô đánh con ngựa mạnh đến nỗi nó đâm vào chúng tôi chạy về hướng ngôi làng, đoàn tang lễ ngẩn người một lúc.
Khi Pháp Sư Simbri định đuổi theo Khania, linh mục Oros giữ dây cương ngựa của ông ta và nói với ông ấy – “Thầy Phù Thủy, chúng ta từng gặp nhau trước đây, khi cha người phụ nữ kia được mang đi chôn cất. Hãy cảnh báo nàng ấy, ngươi biết điều gì đó về sự thật và quyền lực của bà ấy, hãy nói chuyện nhẹ nhàng hơn với người cai trị vùng đất này. Hãy chuyển lời cho nàng ấy từ ta, rằng, nếu nàng không phải là đại sứ của tử thần, do đó bất khả xâm phạm, nếu không chắc chắn giờ nàng đã chia sẻ chung quan tài với chồng nàng rồi. Tạm biệt, ngày mai chúng ta sẽ lại nói chuyện,” rồi buông dây cương của Pháp Sư, Oros đi qua.
Chúng tôi nhanh chóng bỏ lại đám đưa tang phía sau và đi ra khỏi hẻm núi, rẽ lên sườn Ngọn Núi, hướng về phía sườn tuyết màu sáng nằm không xa phía trên. Chính vào lúc chúng tôi bước ra khỏi thung lũng mù mịt này, nơi đám thông nhô lên gần như che khuất ánh sáng, đột nhiên chúng tôi lạc mất người dẫn đường.
“Cô ấy đã quay trở lại – đối phó với Khania ư?” tôi hỏi Oros.
“Không!” ông ấy trả lời bằng nụ cười nhẹ, “Ta nghĩ nàng ấy đã đi trước để thông báo các vị khách của Hesea đã sắp tới.”
“Thật sao,” tôi trả lời, khó nhọc nhìn chằm chằm vào sườn núi trống trải bên trên, không một con chuột nào có thể đi qua mà không bị nhìn thấy. “Tôi hiểu rồi – cô ấy đã đi trước,” và câu chuyện bị bỏ xuống. Nhưng điều tôi không hiểu nổi là – cô ta biến mất như thế nào. Tuy nhiên Ngọn Núi như tổ ong với các hang động và hành lang, tôi cho rằng cô ta đã đi vào một trong số đó.
Suốt cả ngày còn lại, chúng tôi đi bộ lên trên, dần dần tới gần sườn tuyết hơn, đồng thời thu thập thêm ít thông tin trong chừng mực có thể từ linh mục Oros. Đây là tổng hợp của tất cả - Từ khi thế giới bắt đầu hình thành, theo ông ấy diễn tả, đó là từ hàng nghìn hàng nghìn năm trước, Ngọn Núi này đã là ngôi nhà để thờ phụng ngọn lửa đặc biệt, đại tư giáo đứng đầu là một phụ nữ. Tuy nhiên khoảng hai mươi thế kỷ trước, vị tướng quân xâm lược tên là Rassen, đã tự phong mình là Khan của Kaloon. Rassen đã lập một nữ tu sĩ mới trên Ngọn Núi, tín đồ của nữ thần Ai Cập Hes, hay Isis. Vị nữ tu này đưa ra vài sửa đổi trong các học thuyết cổ xưa, thay thế sự sùng bái ngọn lửa, sự tinh khiết và đơn giản, bằng một niềm tin mới, trong đó giữ lại một số nghi lễ cổ, để tôn kính người đứng đầu tín ngưỡng đó là Linh Hồn của Sự Sống, hay Mẹ Tự Nhiên, người ta coi nữ tu sĩ này là người đại diện trần thế của Ngài.
Về nữ tu sĩ này, Oros chỉ nói với chúng tôi rằng bà ấy “luôn luôn hiện diện”, dù chúng tôi thu thập và biết rằng khi một nữ tu chết hay được “đưa vào ngọn lửa”, như ông gọi, đứa con của bà ấy, dù thật hay là con nuôi, đều có một cái tên giống nhau, “Hes” hay “Hesea” hay “Đức Mẹ”. Chúng tôi hỏi liệu có thể gặp được Đức Mẹ này không, ông ấy trả lời, bà ấy rất hiếm khi ra mặt. Ông không nói gì về vẻ ngoài và tính cách của bà ấy, ngoại trừ việc người trước bị biến đổi từ lần này sang lần khác và khi bà ấy lựa chọn sử dụng nó, bà ấy có “tất cả quyền năng”.
Các linh mục nam trong Học Viện, ông ấy bảo chúng tôi, có ba trăm người, chưa bao giờ nhiều hay ít hơn, và cũng có đúng ba trăm nữ linh mục. Một số trong đó mong muốn được phép kết hôn, con cháu họ lại được nuôi nấng thành thế hệ tu sĩ nam và nữ mới. Họ đều là người cùng một dân tộc với nhau, mang đặc trưng chủng tộc riêng biệt. Thực ra điều này rất rõ ràng, vì đoàn hộ tống chúng tôi tất cả đều cực kỳ giống nhau, rất đẹp trai và vẻ bề ngoài vô cùng tinh tế, mắt đen, đầu cắt sạch sẽ, da màu ô liu; có lẽ là một chủng tộc có nguồn gốc từ phương Đông mang dòng máu cao quí, có một chút Ai Cập và Hy Lạp bị ném vào.
Chúng tôi hỏi ông ấy cây cột trụ mang thòng lọng hùng vĩ nhô lên từ đỉnh Ngọn Núi là tác phẩm của con người phải không. Ông ấy trả lời, Không; bàn tay của Mẹ Tự Nhiên đã tạo nên nó, và ánh sáng chiếu xuyên qua nó đến từ lửa cháy ở miệng ngọn núi lửa. Vị nữ tu sĩ đầu tiên đã nhận ra cây cột khổng lồ này là Biểu Tượng Sự Sống quen thuộc trong tập tục thờ phụng của người Ai Cập, nên đã lập bàn thờ của mình dưới bóng nó.
Phần còn lại, Ngọn Núi hùng vĩ được cư ngụ bởi vô số người bán hoang dã, chấp nhận sự cai trị của Hesea, tiến cống bà mọi thứ cần thiết, như thức ăn và kim loại. Tuy nhiên các tu sĩ cũng tự gieo trồng được nhiều thịt và ngũ cốc trên những trang trại có mái che, họ tìm ra kim loại bằng chính bàn tay mình. Tuy nhiên luật lệ này mang tính đạo đức, vì bao thế kỷ qua, Học Viện không tìm cách chinh phạt và Đức Mẹ hài lòng khi trừng phạt tội lỗi theo cách chúng tôi đã nhìn thấy. Đối với những cuộc chiến tranh nhỏ lẻ giữa các bộ lạc và dân tộc vùng Đồng Bằng, họ không có trách nhiệm, các thủ lĩnh thực hiện chúng đều bị phế truất, trừ khi họ bị tấn công. Tuy nhiên tất cả các bộ lạc đều tuyên thệ bảo vệ Hesea và Học Viện, bản thân họ cũng tranh cãi rất nhiều, nhưng nếu nhu cầu phát sinh, họ sẵn sàng hi sinh vì bà ấy tới người cuối cùng. Một lần, chiến tranh đã nổ ra giữa các tu sĩ trên Ngọn Núi và nhân dân Kaloon; họ đã cố gắng chuẩn bị cho trận chiến vĩ đại cuối cùng này.
Đại ý câu chuyện của ông ấy là như vậy, sau này chúng tôi biết, mỗi chi tiết cụ thể đó đều là sự thật.
Gần hoàng hôn, chúng tôi tới sơn cốc rộng lớn trải dài hàng ngàn mẫu, nằm dưới tràng tuyết trên đỉnh và phủ đầy đất màu mỡ bị rửa trôi xuống từ bên trên, tôi cho là như vậy. Chỗ này có mái che do kết cấu của nó và ngọn núi treo bên trên, quay mặt về hướng tây nam, nhờ độ cao này, nó sản sinh ra ngô và các cây ôn đới khác vô cùng phong phú. Học viện có trang trại ở đây, có vẻ được nuôi trồng rất tốt. Sơn cốc tuyệt vời này không thể nhìn thấy được từ bên dưới, chúng tôi đi vào đó qua một cánh cổng tự nhiên, có lẽ dễ dàng phòng thủ với chủ nhân.
Có nhiều đặc thù khác, nhưng không cần thiết mô tả sâu hơn ngoài việc nói rằng, tôi nghĩ đất đai được hưởng lợi từ sức nóng tự nhiên của núi lửa, khi nó tuôn trào như thường thấy, các dòng dung nham luôn trào ra phía bắc và phía nam của sơn cốc. Quả thật, chính các dòng dung nham đã tạo thành những vách đá phòng thủ bảo vệ.
Vượt qua vùng đất như khu vườn này, chúng tôi tới một thị trấn nhỏ xinh đẹp bằng dung nham đá. Nơi đây các tu sĩ cư ngụ, ngoại trừ những người theo bổn phận, không ai trong các bộ lạc hay người lạ được phép đặt chân vào nơi này.
Đi theo con đường chính trong thị trấn, chúng tôi đến trước mặt vách đá ngoài cùng, và thấy mình đang đứng trước một cổng tò vò lớn đang đóng, cánh cổng bằng sắt khổng lồ được rèn ra một cách thần kỳ. Dắt con ngựa đi, đoàn hộ tống bỏ lại chúng tôi một mình với Oros. Khi chúng tôi tới gần hơn, cánh cổng lớn xoay bản lề ngược lại. Chúng tôi đi qua – cảm giác tôi không thể tả nổi – rồi lò dò đi xuống hành lang hẹp có điểm cuối là những cánh cửa cao bằng sắt. Chúng cũng xoay mở theo hướng chúng tôi, ngay sau đó chúng tôi lại bị lảo đảo vì kinh ngạc và gần như mù mịt trước ánh sáng dữ dội từ bên trong.
Bạn là người đọc, hãy tưởng tượng đang ở gian giữa của điện thờ mênh mông. Sau đó kích thước tăng lên gấp đôi gấp ba, bạn sẽ có khái niệm về đền thờ chúng tôi nhìn thấy. Có lẽ ban đầu nó là một cái hang, ai biết được? Nhưng giờ bức tường sâu hoắm, vô số cột mọc lên mái vòm xa xa phía trên chúng tôi, tất cả đều được tạo ra nhờ công sức và theo cách thức của những người đã chết từ lâu; không nghi ngờ gì đó hẳn là những tín đồ của ngọn lửa cổ xưa từ hàng nghìn năm trước.
Bạn sẽ tự hỏi làm sao một nơi lại được chiếu sáng đến như vậy, nhưng tôi nghĩ bạn sẽ không bao giờ đoán được. Đó là – bởi những cột lửa sống động đang xoắn lại! Tôi đếm được mười tám cột lửa, nhưng có thể còn những cột khác. Chúng sinh ra từ sàn một cách đều đặn theo từng hàng trong điện thờ tạo thành các lối đi. Ngay ở mái nhà chúng lại tách ra, theo chiều cao và chu vi, khốc liệt như có lực khí thiên nhiên đang điều khiển chúng, và biến mất thông qua những ống khói bằng đá dày cộm. Chúng không có mùi hay có khói, ở nơi mênh mông lạnh lẽo này, sức nóng nào cũng có thể nhận thấy, chỉ có một ánh sáng trắng cường độ lớn đủ để nung chảy sắt, rít lên âm thanh sắc nét như hàng triệu con rắn đang giận dữ.
Ngôi đền khổng lồ hoàn toàn vắng vẻ, ngoại trừ tiếng rít tràn ngập, còn lại hoàn toàn im ắng; một nơi tuyệt vời, mang sức mạnh áp đảo.
“Những cây nến này đã bao giờ tắt chưa?” Leo hỏi Oros, che bàn tay trước mắt vì chói lóa.
“Làm sao có thể chứ,” vị linh mục đáp, giọng nói trơn tru và rất thực tế, “nhìn này, chúng sinh ra từ ngọn lửa vĩnh hằng được những người xây dựng khán đường này tôn thờ? Thế nên ngay từ đầu chúng đã cháy và sẽ cháy vĩnh viễn, dù nếu chúng ta muốn, chúng ta có thể tắt ánh sáng đi. 4 Xin mời theo ta: các ngươi sẽ thấy những thứ còn hùng vĩ hơn.”
4 Điều này sau đó tôi đã xác định chắc chắn, được thực hiện bằng cách đẩy một tảng đá rộng có độ dày lớn hơn khẩu độ mà khí hay lửa đi qua rồi cắt ngang không khí. Những hòn đá đó được thao tác qua lại bằng các ròng rọc nối với nhau qua những thanh sắt. – L.H.H.
Thế là chúng tôi đi theo trong im lặng đến kinh ngạc, ôi! Ba người chúng tôi mới nhỏ bé và khốn khổ làm sao, đơn độc trong ngôi đền khổng lồ đượi soi rọi nhờ ánh sáng chói lọi kia. Cuối cùng chúng tôi cũng tới cuối đền thờ, chỉ thấy ngay bên phải và bên trái cũng chạy ra các gian ngang có cùng kích cỡ và được chiếu sáng theo cùng cách thức kinh ngạc như vậy. Oros chặn chúng tôi dừng ở đây, và đợi một lúc, tới khi từ gian ngang sinh ra lời cầu nguyện, chúng tôi nhận ra hai đám rước mang áo choàng trắng tiến lên phía chúng tôi từ dưới sâu.
Khi họ từ từ đi đến, chúng tôi nhìn thấy đám rước bên phải là đoàn các nam tu sĩ, đám bên trái là đoàn các nữ tu sĩ, tất cả khoảng một trăm người.
Giờ đây những người đàn ông xếp hàng trước mặt chúng tôi, trong khi phụ nữ xếp hàng phía sau, theo sự ra hiệu từ Oros, tất cả họ cất lên lời tụng kinh hoang dại và ly kì, chúng tôi lại nhìn chằm chằm về phía trước một lần nữa, lúc này dọc theo hành lang hẹp, cặp cửa gỗ đã đóng lại ở cuối. Khi đám rước chúng tôi tới, cặp cửa mở ra, phía trước chúng tôi, một kỳ quan uốn vòng của ngôi miếu kỳ diệu này đang nằm đó, một khu tụng niệm hình elip khổng lồ. Giờ chúng tôi đã hiểu. Cách bố trí ngôi đền là cách bố trí cây cột trụ có thòng lọng đứng trên đỉnh Ngọn Núi, và chúng tôi đoán đúng, kích thước của chúng là như nhau.
Các cột lửa bùng lên quanh hình elip đều đặn theo nhịp, nhưng phần còn lại nơi này đều trống không.
Không, không hoàn toàn thế, vì ở đầu khu tụng niệm, gần giữa hai cột lửa, một bàn thờ bằng phẳng vuông vắn nhô lên, có kích thước một căn phòng nhỏ, phía trước, khi đến gần hơn chúng tôi thấy treo rèm dệt bằng sợi bạc. Trên bàn thờ đặt một tượng lớn bằng bạc, quay lưng lại tảng đá đen, dường như để thu lại và phản xạ ánh sáng cường độ lớn của hai cột trụ rực lửa trên bề mặt được đánh bóng của nó.
Thật là đẹp, nhưng rất khó mô tả. Thân ảnh có cánh đại diện cho một phụ nữ trưởng thành bị bọc vải, hình dáng tinh khiết nhưng duyên dáng, nửa ẩn dấu dưới đôi cánh nghiêng về phía trước. Được che chở, và hiện ra giữa đôi cánh, là hình ảnh một chú bé, được siết chặt vào ngực người mẹ bên tay trái, còn tay phải giơ lên bầu trời. Một tác phẩm về tình Mẹ, rõ ràng vậy, nhưng tôi viết thế nào đây về những gì các gương mặt được chạm khắc kia truyền đạt lại?
Bắt đầu với đứa trẻ. Đó là cậu bé mạnh mẽ, đầy sức khỏe và niềm vui với cuộc đời. Nhưng cậu đang ngủ, và trong giấc ngủ có gì đó kinh hoàng phủ lên cậu màu tối tăm của cái chết và quỉ dữ. Có sự sợ hãi trên khóe miệng ngọt ngào của cậu, và đôi môi cùng cặp má dường như đang run rẩy. Cậu quàng cánh tay nhỏ lên cổ mẹ, áp gần ngực bà, nhìn lên phía bà cho an toàn, tay phải cậu xòe ra chỉ xuống và ra phía sau, như thể ám chỉ nguy hiểm đến từ đâu. Nhưng nó đã đi qua, gần như bị quên lãng, vì đôi mắt ngước lên bày tỏ lòng tin hồi sinh, thanh thản trong lòng đã đạt được.
Còn người mẹ. Bà dường như không chế nhạo hay rầy la sự sợ hãi của đứa trẻ, vì gương mặt đẹp đẽ của bà đầy lo lắng và cảnh giác. Nhưng nó mang một bầu không khí dịu dàng không đổi và sức mạnh bất khả chiến bại; quan tâm cho người bất lực, mạnh mẽ che chở khỏi mọi nguy hại. Đôi mắt lớn và bình tĩnh kể câu chuyện của họ, đôi môi hé mở thì thầm câu chuyện về hy vọng, cẩn thận và bất tử; bàn tay giơ lên tiết lộ hy vọng sinh ra từ đâu. Toàn bộ tình yêu dường như tụ tập trong hình ảnh che chở đó, thật nhân bản, thật thiêng liêng; toàn bộ bầu trời như nằm trên lối đi đã khai thông trước đôi cánh run rẩy đó. Và nhìn xem, mu bàn chân cong lên, gót chân như nhảy lên, gợi ý những đôi cánh kia đang bị trói buộc, mang theo gánh nặng Chúa ban cho thoát khỏi sự khủng bố trên trần thế, ẩn sâu trong lòng phần bất biến còn lại.
Bức tượng chỉ nói về một đứa bé đang sợ hãi trong cánh tay mẹ; ý nghĩa rõ ràng dựa trên vẻ vô tri nhất mang tính biểu tượng hóa đơn giản của một thiên tài – Nhân Loại được Thần Thánh cứu rỗi.
Trong khi chúng tôi mải nhìn chằm chằm vào vẻ đẹp mê hoặc của nó, các nam nữ tu sĩ đã đi sang phải và trái, xếp hàng luân phiên, một đàn ông rồi tới một phụ nữ, trong vòng những cây cột lửa rực cháy mang hình chiếc thòng lọng thần thánh. Cảnh thật tuyệt vời, cả trăm người họ phải đứng cách xa nhau và trong tầm nhìn của chúng tôi, giống như lũ trẻ nhỏ đơn độc khoác quần áo lóng lánh, bài ca thờ phụng của họ chạm đến chúng tôi như tiếng vọng ném ra từ vách núi phía xa xa. Rất nhanh chóng, ảnh hưởng của thánh tích và các cư dân của nó áp đảo tuyệt vời, ít ra tôi biết nó làm tôi tràn đầy cảm giác giống như sợ hãi.
Oros chờ đợi tới khi vị tu sĩ cuối cùng đi tới vị trí định trước. Rồi ông ấy quay lại và bảo, bằng âm thanh nhẹ nhàng, tôn kính – “Hãy tới đêm nay, ngay bây giờ, O, hỡi những kẻ lang thang đáng mến, và hãy gửi lời chào tới Đức Mẹ,” và ông ấy chỉ về phía bức tượng.
“Bà ấy ở đâu?” Leo hỏi bằng giọng thì thầm, vì nơi này chúng tôi không dám nói to. “Tôi không thấy ai cả.”
“Hesea ngự ở kia,” ông ấy trả lời, cầm tay mỗi người chúng tôi, dẫn đi lên trước dọc theo không gian trống trải rộng lớn của khu tụng niệm tới bàn thờ phía trước.
Khi chúng tôi tới gần, lời tụng kinh phía xa của các tu sĩ tăng dần âm lượng, như niềm vui mừng, chiến thắng, đối với tôi – có lẽ là dễ chịu – ánh sáng từ các cột lửa xoắn có vẻ sáng hơn.
Cuối cùng chúng tôi tới đó, Oros bỏ tay chúng tôi ra, tự quì lạy ba lần trước bàn thờ. Rồi ông ấy đứng dậy, lùi lại sau chúng tôi, đứng im lặng cúi đầu và gập các ngón tay lại. Chúng tôi cũng đứng im lặng, tâm hồn chúng tôi tràn đầy hy vọng trộn lẫn sợ hãi như một cốc rượu.
Sức lực của chúng tôi đã chấm dứt? Chúng tôi đã tìm thấy bà ấy, người chúng tôi đang tìm kiếm, hay không chừng chúng tôi lại vướng vào tấm mạng kỳ quái thần bí nào đó và sẵn sàng làm quen với bí mật của một nghi lễ tôn thờ thần bí mới nữa chăng? Chúng tôi đã tìm kiếm năm này qua năm khác, chịu đựng mọi gian khổ thể xác và linh hồn mà con người có thể chịu được, giờ chúng tôi sẽ biết mình có chịu đựng trong vô vọng hay không. Đúng, và Leo có thể biết lời hứa hẹn có được cậu hoàn thành hay không, hay người cậu yêu thương đã trở thành một giấc mơ xa xôi chỉ được tìm thấy ngoài cánh cổng Tử Thần. Không ngạc nhiên khi cậu run rẩy và trắng bệch trước đau thương và hồi hộp lớn lao này.
Thời gian trở nên dài, rất dài. Hàng giờ, hàng năm, hàng niên đại, hàng kiếp, dường như ào ạt chảy về phía chúng tôi khi chúng tôi đứng đó, trước tấm rèm bạc lấp lánh che phía trước bàn thờ tối đen, bên dưới là vẻ bí ẩn của gương mặt như nhân sư, hình ảnh vinh quang của một người bảo vệ, mang nụ cười băng giá của tình yêu vĩnh hằng và lòng thương xót. Toàn bộ quá khứ đi ra trước chúng tôi như thể vật lộn trong dòng nước tối tăm của hoài nghi. Từng thứ từng thứ một, từng sự kiện nối tiếp từng sự kiện, chúng tôi nghe thấy câu chuyện bắt đầu ở Khu Hang Động Kôr, theo dòng suy tư cứ dài ra mãi như thế, mở rộng và sáng lên trong tâm hồn.
Ôi! Giờ chúng tôi đã biết, chúng cũng được mở thông tới tâm hồn khác. Chúng tôi không thể thấy gì ngoài Bàn Thờ và Hình Nộm, chúng tôi chỉ nghe thấy lời tụng kinh chậm rãi của các nam nữ tu sĩ và tiếng rít như rắn của đống lửa bùng cháy. Nhưng chúng tôi thấy trái tim mình như một quyển sách đã mở cho Người quan sát dưới đôi cánh che chở của Đức Mẹ.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 12



Chương 12: Sứ Giả

“Anh ta đã đi rồi,” tôi thở hổn hển, “thế giới không mất mát nhiều lắm.”
“Phải, nó cũng đã chẳng cho anh ta nhiều lắm, tên xấu xa khốn khổ đó, chúng ta đừng nói xấu anh ta như vậy nữa,” Leo trả lời, lăn mình ra đất vì kiệt sức. “Có thể anh ta là người đúng đắn trước khi họ làm anh ta phát điên. Dù sao anh ta đã bị nhổ đi rồi, cháu không muốn giải quyết ai như vậy nữa.”
“Cháu đã làm thế nào?” tôi hỏi.
“Né thanh gươm của anh ta, tiếp cận, quăng anh ta và đập anh ta lên tảng đá. Dùng toàn bộ sức mạnh, thế thôi. Một việc kinh khủng, nhưng đó là mạng anh ta hoặc mạng cháu, và cả bác nữa. May mà cháu kết thúc vừa đúng lúc để kịp giúp bác trước khi con vật miệng như cái lò kia cắn xé cổ bác. Bác từng thấy con chó nào như thế chưa? Nó to như con lừa non. Bác đau lắm phải không, bác Horace?”
“Ôi, cẳng tay của bác đã bị nhai bét nhè, nhưng không sao nữa rồi, bác nghĩ vậy. Chúng ta đi xuống nước đi; nếu không thể uống nước ngay, bác sẽ xỉu mất. Lũ chó còn lại cũng đâu đây thôi, còn khoảng năm mươi con hoặc hơn.”
“Cháu không nghĩ chúng sẽ làm chúng ta khó khăn, chúng đã tóm được lũ ngựa khốn khổ. Đợi một phút, cháu sẽ quay lại.”
Rồi cậu đứng lên, tìm thấy thanh gươm của Khan, một vũ khí cổ xưa và đẹp đẽ, chỉ bằng một nhát cắt duy nhất bằng cạnh gươm đã giết chết con chó thứ hai làm tôi bị thương vẫn đang thoi thóp và gầm gừ nhìn chúng tôi. Sau đó, cậu ấy thu lại hai cây giáo và dao, bảo rằng chúng có thể vẫn còn có ích, rồi dễ dàng bắt được con ngựa của Khan đang lúc lắc đầu gần đó, mệt mỏi đến mức cuộc chiến tuyệt vọng này cũng không dọa nó chạy mất.
“Bây giờ,” cậu nói, “bác lên đi, nhà nghiên cứu sinh già. Bác không thể đi bộ xa hơn được đâu,” với sự trợ giúp của cậu ấy, tôi trèo lên yên ngựa.
Sau đó để dây cương trượt xuống tay, cậu dắt con ngựa bước khó nhọc ra phía bờ sông, khoảng một phần tư dặm, dù đối với tôi, đúng là tra tấn vì tôi đang đau đớn gần như mê sảng vì kiệt sức, hành trình có vẻ khá dài.
Chúng tôi vẫn đi tới đó, quên cả thương tích của mình, tôi nhảy xuống ngựa, lao mình ra uống, và uống thật nhiều, tôi nghĩ, như thể chưa từng làm vậy từ trước tới giờ. Suốt đời tôi chưa bao giờ nếm thứ gì ngon lành như dòng nước này. Khi đã thỏa mãn cơn khát, tôi nhúng đầu và đưa cánh tay bị thương vào nước, vẻ mát lành vẫn gây đau đớn. Hiện tại Leo đã đứng lên, nước chảy xuống từ mặt và râu cậu, cậu ấy nói – “Giờ chúng ta sẽ làm gì? Con sông có vẻ rất rộng, trên một trăm thước, nó khá nông, nhưng có lẽ lòng sông sẽ sâu. Nếu cố vượt qua, chúng ta có thể chết đuối, hoặc dừng ở đây, chúng ta đợi tới ban ngày và có thể gặp bầy chó săn tử thần.”
“Bác không thể đi bộ nữa,” tôi thì thào yếu ớt, “ít nhiều hãy cố lội qua con sông vô danh này.”
Khoảng ba mươi thước từ bờ là một đảo phủ đầy lau sậy và cỏ.
“Có lẽ chúng ta có thể tới được chỗ kia,” cậu nói. “Đi nào, lên lưng cháu, chúng ta sẽ cố.”
Tôi nghe theo một cách khó nhọc, và chúng tôi đi, cậu ấy dò đường bằng cây giáo. Nước khá nông; quả thực, chưa bao giờ quá đầu gối cậu ấy, vì thế chúng tôi đến hòn đảo không chút khó khăn. Leo đặt tôi xuống ở đây, trên đống cỏ mềm, rồi trở lại bờ, mang theo con ngựa đen và đống vũ khí, tháo yên cương cho cho ngựa, để nó khụy xuống thả lỏng, nó nằm ngay xuống, thật quá dễ nuôi.
Sau đó cậu ấy chăm sóc vết thương của tôi. Rõ ràng tôi nhận ra tay áo mình quá dày, thậm chí da thịt ở cẳng tay bị xé tả tơi, xương cũng bị vỡ. Leo lượm được đầy hai bàn tay rêu mềm ẩm ướt, rửa sạch cánh tay tôi, quấn quanh nó bằng chiếc khăn tay mà cậu đã lót rêu. Còn với chiếc khăn tay thứ hai cùng ít vải lanh bị xé từ quần áo lót, cậu buộc chặt vào cặp gậy dùng làm nẹp thô sơ cho tay bị thương. Khi cậu đang làm chuyện đó, tôi cho rằng mình đã ngủ hoặc bất tỉnh. Dù sao, tôi cũng không nhớ gì nữa.
Suốt đêm đó, Leo có một giấc mơ lạ, cậu kể cho tôi vào sáng hôm sau. Tôi nghĩ hẳn là mơ vì chắc mình không nhìn thấy hay nhận ra điều gì. Phải, cậu đã mơ – tôi dùng chính lời cậu ‘gần như có thể là thế’ – rằng cậu lại nghe thấy đàn chó tử thần đáng nguyền rủa kia đang than khóc. Chúng tới càng lúc càng gần, theo dấu chúng tôi đến bờ sông – cả đàn đã cắn xé lũ ngựa. Tại mép nước, chúng dừng lại im lặng. Đột nhiên một làn gió mang mùi của chúng tôi từ đảo tới một con trong số đó, khiến nó ngẩng đầu dậy và sủa vang một tiếng. Những con còn lại chụm vào nó, tất cả chúng bỗng chốc làm thành hàng ngang dàn trên mặt nước.
Leo có thể nhìn thấy và nghe thấy mọi thứ. Cậu cảm thấy ngày tận số của chúng tôi đã cận kề, nằm trong vòng kìm kẹp của cơn ác mộng, nếu đó là ác mộng, cậu hoàn toàn không thể tỉnh dậy hay kêu khóc để đánh thức và cảnh báo tôi.
Hiện giờ đã diễn ra theo ảo cảnh kỳ diệu đó. Chúng đưa lưỡi ra, nửa bơi nửa chìm, đám chó săn tới gần hòn đảo chúng tôi ngủ. Sau đó, đột nhiên Leo thấy chúng tôi không còn đơn độc nữa. Phía trước chúng tôi, bên mép nước, một thân hình phụ nữ choàng áo tối màu đứng đó. Cậu không thể mô tả được gương mặt hay dáng vẻ người đó, vì người đó quay lưng về phía cậu.
Tất cả những gì cậu biết là cô ấy đứng đó, như một người bảo vệ, giữ một vật gì đó trong bàn tay giơ lên, đột nhiên những con chó săn đi đầu nhìn thấy người đó. Phút chốc chúng tê liệt vì sợ hãi – tiếng sủa biến thành tiếng gầm gừ sợ sệt. Một hai con gần đảo nhất dường như bị trượt chân và bị dòng nước cuốn trôi. Số còn lại vật lộn vào bờ, điên cuồng chạy trốn như bị quất roi.
Sau đó thân ảnh uy quyền màu tối đó biến mất, trong giấc mơ của mình Leo nghĩ đó là người bảo vệ Linh Hồn Ngọn Núi. Không có dấu vết gì để lại phía sau để xác minh, nhưng vào buổi sáng chúng tôi sẽ nhìn thấy.
Khi bị đánh thức bởi những cơn đau nhức ê buốt cánh tay, tôi mở mắt, bình minh đã lên. Làn sương mỏng manh lững lờ trôi trên sông và hòn đảo, xuyên qua sương tôi có thể thấy Leo đang nặng nề ngủ bên cạnh và hình bóng con ngựa đen đang đứng thong thả gần đó. Tôi vẫn nằm một lúc, nhớ lại mọi chuyện chúng tôi đã trải qua và tự hỏi mình vẫn còn sống và thức dậy sao, tới khi trong tiếng nước róc rách, tôi nghe thấy âm thanh làm tôi khiếp sợ, âm thanh của tiếng người nói. Tôi ngồi dậy và nhìn xuyên qua đám sậy, trên bờ sông, hiện lên rõ ràng trong màn sương mù, tôi thấy hai thân ảnh đang trên lưng ngựa, một phụ nữ và một đàn ông.
Họ chỉ trỏ trên mặt đất như thể đang kiểm tra dấu vết trên cát. Tôi nghe thấy người đàn ông nói gì đó về những con chó không dám đi vào lãnh thổ của Ngọn Núi, nhận xét gợi lại trong tâm trí tôi giấc mơ Leo đã kể. Sau đó tôi nhớ ra chúng tôi đã vào đây như thế nào.
“Dậy!” Tôi thì thào với Leo. “Dậy, chúng ta bị đuổi theo.”
Cậu đứng dậy, dụi mắt và giật ngay một cây giáo. Giờ những người bên bờ sông đã nhìn thấy cậu, một giọng ngọt ngào cất lên trong sương mù – “Bỏ vũ khí xuống, vị khách của ta, vì chúng ta sẽ không làm hại ngươi.”
Đó là giọng nói của Khania Atene, còn người đàn ông bên cạnh cô ấy là vị Pháp Sư già Simbri.
“Giờ chúng ta làm gì đây, bác Horace?” Leo rên rỉ hỏi, vì trên thế giới này đó là hai người cậu không muốn gặp lại nhất.
“Không làm gì cả,” tôi trả lời, “đến lượt họ diễn.”
“Lại chỗ chúng ta,” Khania gọi bên kia sông. “Ta thề chúng ta không làm hại. Các ngươi không chỉ có một mình à?”
“Tôi không biết,” Leo trả lời, “nhưng có lẽ không có khả năng. Nơi này chúng tôi dừng chân cho đến khi sẵn sàng đi tiếp.”
Atene nói chuyện với Simbri. Những gì cô ấy nói chúng tôi không thể nghe được, vì cô thì thầm, nhưng dường như cô đang tranh cãi và thuyết phục ông ấy điều gì đó, tất nhiên ông ta mạnh mẽ từ chối. Đột nhiên hai người họ cưỡi ngựa xuống nước và tới chỗ chúng tôi qua vùng nước nông. Tới hòn đảo, họ xuống ngựa, chúng tôi nhìn nhau chằm chằm. Ông già có lẽ rất mệt mỏi về thể xác và bị áp lực trong tâm trí, nhưng Khania lại mạnh mẽ và xinh đẹp như mọi khi, đam mê và mệt mỏi không để lại bất kỳ dấu vết nào trên gương mặt khó hiểu của cô. Chính cô phá vỡ sự im lặng – “Các ngươi đã cưỡi ngựa đi rất nhanh và rất xa kể từ lần cuối chúng ta gặp nhau, các vị khách ạ, còn bỏ lại một tên quỉ dữ đánh dấu đường các ngươi đi. Hắn đã nằm chết ở tảng đá đằng kia. Nói đi, hắn đi tới kết cục đó như thế nào, không hề có vết thương trên người hắn?”
“Bằng cái này,” Leo trả lời, duỗi tay ra.
“Ta biết điều đó,” cô trả lời, “ta không đổ lỗi cho ngươi, vì số phận đã phán cái chết cho hắn, giờ nó đã được thực hiện. Nhưng ngươi vẫn phải trả lời trước mọi người vì huyết thống của hắn ta, và ta chỉ có thể bảo vệ ngươi khỏi họ.”
“Hoặc phản bội tôi khi đứng trước họ,” Leo nói. “Khania, người tìm kiếm điều gì?”
“Câu trả lời ngươi nên đưa cho ta đã trôi qua mười hai tiếng rồi. Nhớ đấy, trước khi ngươi nói, ta là người duy nhất có thể cứu mạng ngươi – phải, và sẽ làm điều đó, rồi mặc cho ngươi trang phục cùng vương miện của tên điên đã chết kia.”
“Người sẽ có câu trả lời của tôi trên Ngọn Núi kia,” Leo nói, chỉ lên đỉnh núi phía trên chúng tôi, “tôi tìm kiếm câu trả lời của tôi ở đó.”
Cô tái mặt một chút và đáp, “Đó là chỗ chết, vì ta đã nói với ngươi, chỗ đó được bảo vệ bởi những kẻ hoang dã không biết đến lòng thương hại.”
“Thế cũng được. Thế thì Tử Thần là câu trả lời chúng tôi tìm kiếm. Đi thôi, bác Horace, hãy để chúng tôi đi gặp Tử Thần.”
“Ta thề với ngươi,” cô ngắt lời, “chỗ đó không có người phụ nữ trong giấc mơ của ngươi đâu. Ta là người phụ nữ đó, phải, chính là ta, vì ngươi là người đàn ông của ta.”
“Thế thì thưa quí bà, hãy chứng mình điều đó trên Ngọn Núi,” Leo trả lời.
“Không có người phụ nữ nào sống ở đó,” Atene vội vã tiếp tục, “không gì sống ở đó. Đó là ngôi nhà của lửa và – một Giọng Nói.”
“Giọng nói gì?”
“Giọng Nói của Nhà Tiên Tri phát ra từ ngọn lửa. Giọng Nói của một Linh Hồn chưa ai từng thấy, hoặc sẽ thấy.”
“Đi thôi, bác Horace,” Leo nói, và cậu tiến về phía con ngựa.
“Hỡi những người kia,” Vị Pháp Sư già ngắt lời, “các ngươi vội vã chạy tới chỗ diệt vong sao? Nghe này; ta đã tới nơi bị ma ám kia, vì theo phong tục, chính ta là người mang xác Khan, cha của Atene đi chôn ở nơi đó, ta cảnh báo các ngươi đừng đặt chân vào các đền thờ của nó.”
“Nơi chủ nhân của ngài bảo chúng tôi không bao giờ được tới sao,” Tôi hỏi, nhưng Leo chỉ trả lời – “Chúng tôi cám ơn ngài đã cảnh báo,” rồi nói thêm, “Bác Horace, hãy trông chừng họ trong khi cháu đóng yên ngựa, để họ ít gây hại cho chúng ta.”
Thế là tôi cầm cây giáo trên tay không bị thương và sẵn sàng đứng đó. Nhưng họ không cố gắng làm hại chúng tôi, chỉ quay ra sau một chút và bắt đầu nói chuyện trong những lời thì thầm vội vã. Với tôi, rõ ràng họ đang bị nhiễu loạn rất nhiều. Sau ít phút, ngựa đã được đóng yên xong, Leo giúp tôi lên ngựa. Rồi cậu bảo – “Chúng tôi đi hoàn thành định mệnh của mình đây, dù nó là bất cứ thứ gì đi chăng nữa, nhưng trước khi chia tay, Khania, tôi xin cám ơn lòng tốt của nàng dành cho chúng tôi, cầu nguyện nàng hãy khôn ngoan và quên đi chúng tôi đã từng tồn tại. Dù không phải là ý định của tôi, nhưng máu của chồng nàng đã rơi trên tay tôi, chỉ điều đó thôi đã chia lìa chúng ta vĩnh viễn. Chúng ta bị chia cắt bởi cánh cửa của thần chết và định mệnh. Hãy trở về với nhân dân của nàng, và thứ lỗi cho ta nếu ta mang lại cho nàng bao hoài nghi và rắc rối không mong muốn. Tạm biệt.”
Cô ấy cúi đầu lắng nghe, rồi buồn bã đáp lại – “Ta cảm ơn chàng vì những lời dịu dàng đó, nhưng Leo Vincey, chúng ta sẽ không chia tay dễ dàng thế. Chàng đã gọi ta tới Ngọn Núi, và dù có lên Ngọn Núi, ta cũng sẽ đi theo chàng. Phải, ở đó ta sẽ gặp Linh Hồn của nó, ta luôn biết mình sẽ phải gặp và Pháp Sư đây cũng luôn biết ta sẽ phải gặp. Đúng, ta sẽ dùng sức mạnh và phép thuật chống lại bà ta, như ta được ra lệnh phải làm thế. Để chiến thắng và mang vương miện này, chúng ta đã phải chiến đấu bao thế hệ qua.”
Rồi đột nhiên Atene nhảy lên yên ngựa, quay đầu trở lại bờ, theo sau là Simbri già nua, người vừa giơ đôi tay cong queo của mình lên như thể đau đớn và sợ hãi, lẩm bẩm khi ông đi qua – “Các người đã vào dòng sông cấm và bây giờ, hỡi Atene, ngày phán xét đã rơi trên đầu tất cả chúng ta – trên đầu tất cả chúng ta và nàng – ngày báo trước của điêu tàn và chiến tranh.”
“Họ có ý gì?” Leo hỏi tôi.
“Bác không biết,” tôi trả lời; “nhưng bác chắc rằng chúng ta sẽ tìm ra sớm thôi và hẳn sẽ không vui vẻ gì. Giờ lại vì con sông này.”
Trước khi chúng tôi vật vã vượt qua nó, tôi đã nghĩ hơn một lần về ngày chết đuối trên đó, do nhiều chỗ có ghềnh sâu đều gần như muốn cuốn phăng chúng tôi đi. Nhưng Leo đang lội và cầm cương dẫn con ngựa của Khan, tự cảm nhận đường đi với sự hỗ trợ của cây giáo, vì thế cuối cùng chúng tôi cũng tới bờ bên kia an toàn.
Bên ngoài là những vùng đất sình lầy rộng lớn, chắc chắn sẽ bị ngập khi có lũ. Chúng tôi đẩy tốc độ trên đường qua đó nhanh nhất có thể, vì chúng tôi sợ Khania đi gọi đội hộ tống tới, dù cô có thể vừa bỏ đi sau khi xúc động, nhưng cũng có thể quay lại để săn đuổi chúng tôi. Lúc đó chúng tôi không biết sẽ thế nào, với con sông làm đường biên giới, đất đai của Ngọn Núi hoàn toàn trở thành nơi linh thiêng và bất khả xâm phạm trong thực tế. Đúng, nó từng bị người Kaloon xâm lược trong nhiều cuộc chiến, nhưng mỗi lần quân đội của họ đều bị đánh bại hoặc gặp tai họa khủng khiếp. Hơi kỳ lạ, rồi sau đó họ bắt đầu tin rằng Cung Điện Lửa nằm dưới sự bảo vệ của một Linh Hồn bất khả chiến bại.
Rời đầm lầy, chúng tôi tới một bình nguyên nhô lên trần trụi, dẫn đến sườn núi đầu tiên của Ngọn Núi cách đó khoảng ba hay bốn dặm. Lúc này mỗi lúc chúng tôi đều dự định sẽ bị tấn công bởi đám người hoang dã chúng tôi đã nghe kể rất nhiều, nhưng vẫn chưa thấy một sinh vật sống nào. Chỗ này là một sa mạc nằm trên gân đá từng là dung nham nóng chảy. Tôi không nhớ gì về nó nữa; quả thực cánh tay đau đớn kinh người khiến tôi không thể nhìn nổi đặc điểm địa chất xung quanh. Cuối cùng, bình nguyên nhô lên kết thúc trong một khe sâu rộng và trơ trụi, thảm thực vật vô cùng nghèo nàn, đáy bị chôn vùi trong nham thạch và những mảnh đá vỡ bị cuốn trôi xuống do mưa hay tuyết tan từ các sườn núi bên trên. Bên kia khe sâu được bao bởi một vách đá, có lẽ cao khoảng năm mươi feet, chúng tôi thấy không thông đi đâu.
Chúng tôi vẫn đi xuống chỗ đó, tối đen và lởm chởm; hơn nữa tràn ngập vẻ u ám bất thường, chúng tôi nhận ra tầng nham thạch của nó được rải trên vô số đối tượng màu trắng. Chúng tôi tới ngay đối tượng đầu tiên và thấy đó là bộ xương người. Đây là một Thung Lũng Xương Người Chết thực sự, hàng nghìn hàng vạn bộ; một nghĩa địa khổng lồ. Như thể một đội quân lớn đã bị giết hại ở đây.
Quả thực sau đó chúng tôi biết đúng vậy, vì ở quá khứ rất xa xôi, vào một trong những lần dân tộc Kaloon tấn công các bộ lạc trên Ngọn Núi, họ đã bị mắc kẹt và bị tàn sát trong khe sâu này, để lại xương trắng như lời cảnh báo và tín hiệu. Chúng tôi thất vọng đi lang thang giữa đống xương thê thảm đó, tìm đường đi lên vách đá đối diện, nhưng không tìm thấy gì, cuối cùng chúng tôi dừng lại, không biết rẽ đường nào. Rồi chính lúc đó chúng tôi gặp trải nghiệm kỳ lạ đầu tiên trên Ngọn Núi.
Khe sâu và các phế tích vỡ nát của nó làm chúng tôi chán nản, vì vậy chúng tôi im lặng một lúc, nói thật, hơi sợ hãi. Đúng, ngay cả con ngựa cũng có vẻ sợ hãi, vì nó khịt khịt mũi, cúi đầu và rùng mình. Gần chúng tôi nằm một đống xương, rõ ràng là phần còn lại của một số sinh vật bất hạnh chết hay sống, đã bị quăng xuống từ vách đá bên trên, đỉnh đống xương là một đống nhỏ lộn xộn còn nhiều xương hơn.
“Trừ khi chúng ta có thể tìm được đường ra khỏi nhà mồ đáng nguyền rủa này trước khi quá lâu, nếu không bác nghĩ chúng ta sẽ thêm vào đội quân này thôi,” tôi nói và nhìn quanh.
Khi lời vừa thốt ra khỏi miệng, dường như từ khóe mắt, tôi thấy cái đống nhỏ trên đỉnh đống xương động đậy. Đúng, nó đang động đậy. Nó nhô lên, rồi đứng lên, một hình người, dường như là một phụ nữ - nhưng tôi không chắc lắm – bọc từ đầu đến chân bằng màu trắng và mang mạng che mặt, hay đúng hơn là mặt nạ cho hai hố mắt. Nó tiến lên phía chúng tôi trong khi chúng tôi vẫn chằm chằm nhìn nó, tới lúc con ngựa nhìn thấy cảnh đó, né tránh dữ dội và suýt hất tôi xuống. Khi còn cách khoảng mười bước, bộ xương dừng lại và dùng tay ra hiệu, bàn tay cũng bị quấn trắng như tay xác ướp.
“Ngươi là thứ quỉ quái gì thế?” Leo hét lên, giọng cậu vang vọng sầu thảm giữa những tảng đá trần trụi. Nhưng sinh vật đó không trả lời, nó tiếp tục vẫy.
Leo bước tới chỗ nó để đảm bảo chúng tôi không phải là nạn nhân của ảo giác. Khi cậu tới, nó lướt trở về đống xương của mình như bóng ma một người chết vùng dậy từ đám nhân chứng đang cười toe toét, đúng hơn là một xác chết được quấn băng, vì nó giống thế. Leo đi theo với ý định chạm vào nó để đảm bảo đó là thật, nhưng nó nâng cánh tay quấn vải trắng lên nhẹ nhàng đánh vào ngực cậu. Khi cậu lùi lại, nó dùng tay chỉ lên phía trên trước tiên, như thể ý nói lên Đỉnh Ngọn Núi hay bầu trời, rồi sau đó chỉ vào bức tường đá đối diện chúng tôi.
Cậu ấy quay lại nói với tôi, “Chúng ta phải làm gì?”
“Đi theo, bác cho là thế. Có lẽ đó là một sứ giả từ bên trên,” tôi gật đầu hướng về đỉnh núi.
“Từ đây có nhiều khả năng,” Leo lẩm bẩm, “cháu không thích hình hài của kẻ dẫn đường này.”
Nhưng cậu vẫn dùng tay ra hiệu sinh vật kia tiếp tục. Rõ ràng nó hiểu, vì nó rẽ sang trái và bắt đầu tìm đường nhanh chóng giữa đống đá và xương mà không một tiếng ồn. Chúng tôi đi theo vài trăm thước tới một khe cạn trong đá. Khe này chúng tôi đã nhìn thấy trước đó, nhưng có lẽ sâu khoảng ba mươi feet, chúng tôi đi vào. Sinh vật kia đi vào đây và biến mất.
“Nó hẳn là một cái bóng,” Leo nghi ngờ nói.
“Vớ vẩn,” tôi trả lời, “cái bóng không đánh được ai. Đi tiếp nào.”
Vì vậy cậu dắt ngựa lên khe cạn, cuối khe lại rẽ phải, thân ảnh đó đang đứng chỗ này đợi chúng tôi. Nó lại đi trước và chúng tôi đi theo sau xuống một hẻm núi nhỏ tối tăm hơn tới khi kết thúc trong một hang động, hay một hành lang cắt qua đá.
Lúc này người hướng dẫn của chúng tôi quay lại dường như có ý lấy dây cương ngựa, nhưng thấy nó tới gần hơn, con vật khịt mũi và lồng lên, gần như ngã ngược về phía tôi. Khi ngựa chạm chân xuống đất, sinh vật kia đánh vào đầu nó một cách lạnh lùng và vô nhân đạo như đã đánh Leo, khiến con ngựa run lên và tuôn mồ hôi vì sợ hãi, không cố trốn thoát hay không vâng lời nữa. Rồi sinh vật đó lấy một bên dây cương quấn vào tay, Leo bám theo, chúng tôi đi vào đường hầm.
Vị trí của chúng tôi không hề dễ chịu, vì chúng tôi không biết mình bị dẫn đi đâu bởi kẻ dẫn đường kinh khủng này, ngờ rằng sẽ phải chết trong bóng tối. Hơn nữa, tôi đoán lối đi rất hẹp và bao quanh bởi vực sâu, vì khi đi qua, tôi nghe thấy đá rơi, rõ ràng là tương đối sâu, còn con ngựa khốn khổ rón rén nâng chân và khịt khịt mũi trong sợ hãi thấp hèn. Cuối cùng chúng tôi cũng nhìn thấy ánh sáng ban ngày, tôi chưa bao giờ vui hơn thế trong đời, dù biết có một vực sâu bên phải, còn con đường chúng tôi đi không rộng quá mười feet.
Bây giờ chúng tôi đã ra khỏi đường hầm, rõ ràng một đường vòng rộng đã cứu chúng tôi, lần đầu tiên đứng trên một sườn núi thực sự của Ngọn Núi, kéo dài rất nhiều dặm tới dải tuyết bên trên. Nơi đây chúng tôi cũng nhìn thấy dấu hiệu của sự sống con người, vì đất được canh tác theo từng mảnh và những đàn cừu núi cùng gia súc hiện diện phía xa.
Hiện tại chúng tôi đi vào một khe hẹp, theo con đường gập ghềnh chạy dọc viền một dòng nước hung dữ. Một nơi hoang vắng, rộng nửa dặm hoặc hơn, có hàng trăm tảng đá nham thạch kỳ vĩ rải trên sườn. Trước khi đi được chừng một dặm, tôi nghe thấy một tiếng còi chói tai, bỗng nhiên từ sau những tảng đá nhảy ra một đám người, khoảng năm mươi tên. Chúng tôi nhớ tất cả họ đều là những đồng loại rắn chắc, hoang dã, phần lớn tóc và râu đều đỏ, dù da họ khá tối, họ mặc áo choàng da dê trắng, mang theo giáo và khiên. Tôi có thể tưởng tượng ra họ gần giống người Pict và Scotland cổ xưa xuất hiện trước quân La Mã xâm lược. Trước mặt chúng tôi, họ thốt lên những tiếng la hét kêu gào chói tai, rõ ràng định dùng giáo đâm chúng tôi ngay tại chỗ.
“Giờ đến lượt nó,” Leo nói, rút gươm ra, vì không thể trốn thoát được, họ đã vây quanh chúng tôi. “Tạm biệt, bác Horace.”
“Tạm biệt,” tôi yếu ớt đáp lời, hiểu ra Khania và vị Pháp Sư già có lý khi nói chúng tôi sẽ bị giết trước khi lên được sườn núi đầu tiên của Ngọn Núi.
Trong lúc đó kẻ hướng dẫn như bóng ma của chúng tôi đang trượt ra phía sau một tảng đá lớn, với tôi, chuyện xảy ra có phần của cô ta trong vở kịch đang diễn ra, cô ta - nếu đó là một người phụ nữ - đã tự rút lui khi chúng tôi gặp định mệnh khốn cùng. Nhưng tôi đã không công bằng với cô ấy, vì tôi nghĩ cô ấy đã tới cứu chúng tôi khỏi định mệnh đó, mà nếu không có hiện diện đó, chúng tôi chắc chắn sẽ phải chịu đau đớn vô cùng. Khi đám người hoang dã còn cách vài thước, đột nhiên cô ấy xuất hiện trên đỉnh tảng đá, trông như Phù Thủy Endor thứ hai, và giang tay ra. Không nói một từ, chỉ dang cánh tay quấn vải ra, nhưng hiệu ứng rất mạnh và tức thời.
Trước cảnh cô ấy nhìn xuống những gương mặt của đám người điên cuồng kia, mỗi người như thể bị sét đánh, ngay lập tức bị cuốn khỏi sự sống. Rồi cô ấy bỏ tay xuống và ra hiệu, một kẻ to lớn, tôi nghĩ là thủ lĩnh của đám người, đứng dậy và cúi đầu bò về phía cô ấy, ngoan ngoãn như một con chó bị đánh đập. Cô ra hiệu với hắn, chỉ về phía chúng tôi, rồi chỉ lên Đỉnh Ngọn Núi phía xa, đưa qua đưa lại cánh tay phủ đầy vải trắng, nhưng tôi không nghe thấy lời nào. Rõ ràng vị thủ lĩnh hiểu cô ấy, nhưng hắn nói gì đó bằng một thứ ngôn ngữ cổ. Rồi hắn ta huýt sáo chói tai, cả nhóm người đứng dậy và rời đi nhanh chóng, theo đường này hay đường kia, một phút sau họ biến mất cũng nhanh như khi họ xuất hiện.
Giờ người hướng dẫn lại tiếp tục ra hiệu cho chúng tôi đi tiếp, dẫn đường bình thản như không có chuyện gì xảy ra.
Hơn hai giờ sau, chúng tôi vẫn trên con đường từ khe núi đi ra một sườn cỏ dốc, nó xuyên qua và chạm vào con đường. Lúc này vô cùng kinh ngạc, chúng tôi thấy một đống lửa đang cháy, treo trên đống lửa là một nồi đất nung, đã sôi, dù không thấy ai trông coi nó. Người kia ra hiệu tôi xuống ngựa, chỉ vào cái nồi, ra hiệu chúng tôi ăn, chắc cô ấy đã ra lệnh cho những người hoang dã kia chuẩn bị cho chúng tôi, tôi vui vẻ tuân theo. Lương thực cũng được chuẩn bị cho cả con ngựa, vì gần đống lửa đặt một bó cỏ xanh lớn.
Trong lúc Leo tháo cương ngựa và rắc cỏ cho nó, đưa tôi một bình đất nằm sẵn ở đó, tôi tới ven dòng nước xiết để uống và ngâm cánh tay bị thương vào nước lạnh như băng. Thực sự nhẹ nhõm đi rất nhiều, tới giờ tôi đã chắc chắn trong vô số khả năng, răng con Thủ Lĩnh may mắn chỉ làm vỡ hay bị thương đoạn xương nhỏ này, phát hiện đó khiến tôi thấy mình thật biết ơn. Xong xuôi, tôi đổ đầy bình nước.
Trên đường trở lại, một suy nghĩ hiện ra trong tôi, tới chỗ người dẫn đường bí ẩn vẫn đang đứng như vợ của Lot đã hóa thành tượng muối, tôi đưa bình nước cho cô ấy, hy vọng cô vén mạng che mặt để uống nước. Lần đầu tiên cô ấy thể hiện dấu hiệu mình là con người, hoặc tôi nghĩ vậy, vì cô ấy hơi cúi đầu thể hiện phép lịch sự. Nếu vậy – tôi có thể đã nhầm lẫn – chỉ thế thôi, ngay sau đó cô ấy quay lưng lại phía tôi thể hiện sự từ chối. Có nghĩa là cô ấy không muốn, theo tôi hiểu, không thể uống. Cô cũng không muốn ăn, vì sau đó khi Leo cố đưa thức ăn, cô cũng từ chối như vậy.
Trong lúc cậu ấy lấy cái nồi khỏi đống lửa, thức ăn bên trong đã đủ ấm để chúng tôi háo hức ăn, vì chúng tôi đang đói. Sau khi ăn uống xong, Leo quấn lại cánh tay cho tôi một cách chắc nhất có thể và chúng tôi nghỉ ngơi một chút. Tôi nghĩ quả thật rất mệt mỏi, chúng tôi bắt đầu ngủ gật, rồi bị đánh thức bởi một cái bóng rơi trên người, nhìn lên thấy người dẫn đường như xác chết đứng gần đó và chỉ lên mặt trời, rồi chỉ tới con ngựa, như thể nói cho chúng tôi biết chúng tôi còn phải đi rất xa. Thế là chúng tôi lại lên ngựa và tiếp tục đi, tươi tỉnh hơn một chút, vì ít ra chúng tôi không còn bị đói cồn cào nữa.
Phần còn lại trong ngày hôm đó, chúng tôi leo lên các sườn cỏ, không gặp ai, dù thi thoảng nghe thấy tiếng huýt sao hoang dại nói cho chúng tôi biết mình đang bị những kẻ hoang dã của Ngọn Núi quan sát. Vào lúc hoàng hôn, đặc điểm vùng đất đã thay đổi, cỏ được thay bằng đá, chỉ mọc vài ngọn linh sam còi cọc. Chúng tôi rời khỏi các sườn núi và bắt đầu trèo lên chính Ngọn Núi.
Mặt trời chìm xuống và chúng tôi đi trong chạng vạng. Khi cả ánh chạng vạng cũng biến mất, chúng tôi tiếp tục đi xuyên qua bóng tối, con đường chỉ được chiếu sáng từ những vì sao và vầng hào quang mờ nhạt của cây cột khói phát sáng trên Đỉnh Ngọn Núi, phản xạ tới chỗ chúng tôi từ lớp vỏ tuyết hùng vĩ. Chúng tôi tiến lên rất vất vả, trong khi phía trước chúng tôi vài bước, người dẫn đường bước đi không hề mệt nhọc. Nếu lúc trước cô ấy có vẻ kỳ quặc và vô nhân đạo, thì giờ cô ấy là một bóng ma thực sự, khoác đồ niệm trắng toát trong ánh sáng mờ nhạt lung linh, không nói, không quay lại, cô ấy trượt đi lặng lẽ giữa những hòn đá và đám linh sam cùng bách xù xanh đen xoắn xít.
Chẳng bao lâu chúng tôi quên sạch lối đi. Chúng tôi rẽ lối này rồi lại rẽ đường kia, qua một khu đất thông thoáng, rồi xuyên tới một khu rừng nhỏ, cuối cùng khi trăng lên, chúng tôi đi vào một khe núi, đi theo lối đi chạy xuống dưới, tới một nơi như giảng đường lớn do bàn tay tự nhiên cắt qua đá của Ngọn Núi. Rõ ràng đó là một nơi phòng vệ, vì lối vào hẹp và quanh co, xây ở cuối, vì vậy chỉ một người có thể qua cửa tại một thời điểm. Trong không gian mở và tại phía bên kia là những ngôi nhà thấp bằng đá xây trên đá núi. Phía trước những ngôi nhà này, ánh trăng tỏa sáng, hàng trăm đàn ông và phụ nữ đang tụ tập xếp thành hình bán nguyệt theo từng nhóm có chọn lọc, có lẽ đang tham gia cử hành nghi lễ nào đó.
Khá hoang dã. Trước mặt họ, ngay giữa vòng bán nguyệt, một người đàn ông khổng lồ, râu đỏ, trần truồng ngoại trừ lớp da trên lưng. Ông ta đánh đu, tay đặt lên hông, rồi quăng mình, thét lên gì đó như “Ho, haha, ho!” Khi ông ta cúi người trước khán giả, họ lại cúi người trước ông ta, mỗi lần ông ta đứng thẳng, lại vang lên thiết thét “Ho!” vì âm thanh đó quay vòng do đập vào vách đá. Không chỉ thế, ngồi trên đầu đầy lông tóc ông ta, cong người lại và vẫy vẫy đuôi là một con mèo trắng to lớn.
Tôi chưa từng chứng kiến chuyện gì kỳ lạ và hoang đường hơn hiệu ứng tổng hợp của cảnh này, chiếu sáng bởi ánh trăng rạng ngời và đặt ở đấu trường hoang dã kia. Đàn ông và đàn bà đều có tóc đỏ, nửa người để trần, vị linh mục khổng lồ, con mèo trắng thần bí nắm chặt da đầu ông ta bằng móng vuốt, vẫy vẫy đuôi như đóng một vai trong màn trình diễn; ca khúc thô thiển và điệp khúc tuôn ra hàng chuỗi của nó, tất cả giúp tạo nên một ấn tượng vô cùng kỳ lạ. Đáng kể hơn, lúc đó chúng tôi không thể phán đoán ra ý nghĩa của nó, dù chúng tôi đã tưởng tượng ra đó hẳn phải là một lễ dâng hiến hay ban tặng từ thời nguyên thủy. Nó giống như một mảnh ác mộng được các giác quan bị đánh thức bảo tồn trong hiện thực điên rồ và vô nghĩa.
Giờ quay tròn quanh không gian mở, đám người hoang dã đang ngợi ca vật thờ phụng của họ, hoặc bất cứ thứ gì đó, chạy tới bức tường đá thô ráp cao khoảng sáu feet, trên đó có một cánh cổng. Chúng tôi tiến về đó mà không hề thấy, vì phía tường bên chúng tôi mọc rất nhiều thông còi. Người dẫn đường đưa chúng tôi qua đám thông, tới cây to nhất cách cánh cổng vài thước và ngay bên phải nó, cô ấy ra hiệu cho chúng tôi dừng lại.
Sau đó cô tới chỗ thấp trên bức tường và đứng đó như thể quan sát cảnh bên ngoài. Có lẽ quả thật cô ấy đã nhìn thấy thứ gì đó không mong muốn nên bỗng bối rối hoặc tức giận. Hiện tại có lẽ cô ấy đã quyết định, vì cô lại ra hiệu cho chúng tôi đứng yên, nghỉ ngơi trong im lặng bằng cách đặt bàn tay quấn băng lên chiếc mặt nạ che đi khuôn mặt cô. Lúc sau cô ấy biến mất. Cô ấy đi như thế nào, đi đâu, tôi không nói được; tất cả những gì chúng tôi biết là cô ấy không ở đây nữa.
“Chúng ta làm gì bây giờ?” Leo thì thầm với tôi.
“Ở laị đây cho đến khi cô ấy trở lại hoặc có gì đó xảy ra,” tôi trả lời.
Vì vậy không có gì nữa để làm, chúng tôi nghỉ ngơi, hy vọng con ngựa không phản bội chúng tôi mà hý lên, hoặc chúng tôi không bị phát hiện, vì chắc chắn nếu như vậy, chúng tôi sẽ nguy hiểm tính mạng. Nhưng rất nhanh chóng sau đó, chúng tôi quên mất nỗi lo lắng về tình trạng của bản thân để nghiên cứu cảnh tượng hoang dã trước mặt, giờ đã phát triển đáng sợ hơn.
Có lẽ bản thân nó là một vở kịch nguyên thủy, vở kịch đó là vụ án liên quan đến tồn vong của tộc người nào đó. Chúng tôi đoán vậy, vì sau khi cầu nguyện ngừng một lúc, đám đông trước mặt người đàn ông to lớn đội con mèo trên đầu đã mở ra, sau ông ta là cột khói bốc lên trong không khí, như thể ánh sáng trong cái lò vừa tắt.
Trong không gian đã được dọn sạch, giờ bảy người được dẫn vào, tay họ bị trói phía sau. Họ có cả hai giới, trong đó có một ông già và một phụ nữ dáng hình cao lớn, xinh đẹp, còn rất trẻ, thực ra không hơn một thiếu nữ. Bảy người này được xếp đứng thành một hàng, rõ ràng rất sợ hãi, vì ông già đã ngã khụy xuống đầu gối và một trong các phụ nữ bắt đầu khóc nức nở. Họ bị bỏ lại một lúc, có lẽ chờ cho đống lửa phía sau họ bùng lên, đống lửa nhanh chóng bùng cháy dữ dội, bắn ra ánh sáng sống động tới từng chi tiết của cảnh tượng.
Giờ đây tất cả đã sẵn sàng, một người đàn ông mang khay gỗ cho linh mục râu đỏ đang ngồi trên ghế, con mèo trắng trên đầu gối ông ta, chúng tôi thấy nó vừa nhảy từ đầu ông ta xuống trước đó. Ông ta cầm quai chiếc khay, nói một lời, con mèo nhảy lên và ngồi trên đó. Giữa lúc im ắng căng thẳng nhất, ông ta đứng lên, thốt ra lời cầu nguyện, có lẽ dành cho con mèo đang ngồi đối mặt với ông ta. Làm xong, ông ta quay vòng cái khay, vì thế lưng con vật giờ đang hướng về phía ông ta, rồi tiến tới dãy tù nhân, bước đi bước lại trước mặt họ vài lần, mỗi lần lại gần hơn một chút.
Giữ lấy cái khay, ông ta giơ nó trước mặt người tù bên trái, con mèo đứng lên, uốn lưng và bắt đầu nhấc chân lên xuống. Ông ta di chuyển tới người tù kế bên và giữ khay trước mặt một lúc, cứ như vậy tới người thứ năm, người phụ nữ trẻ tôi vừa kể. Giờ con mèo đột nhiên rất tức giận, vì trong cảnh tĩnh lặng như chết, chúng tôi có thể nghe thấy nó phun phì phì và gầm gừ. Cuối cùng nó nâng bàn chân lên và cào vào mặt cô gái, cô ấy hét to, tiếng thét khủng khiếp. Sau đó toàn bộ khán giả vỡ òa trong tiếng gào rú, một từ thôi, chúng tôi hiểu từ đó, vì đã từng nghe một từ rất giống nó được người dân vùng Đồng Bằng sử dụng. Đó là “Phù Thủy! Phù Thủy! Phù Thủy!”
Những kẻ hành quyết đang chờ nạn nhân được chọn ra trong thử thách này qua con mèo, vội vã lao ra và tóm lấy cô gái, kéo cô về phía đống lửa. Người tù bên cạnh cô, chúng tôi đoán ngay là chồng cô ấy, đang cố bảo vệ cô, nhưng tay anh ta bị trói, kẻ khốn khổ, anh ta chẳng thể làm được gì. Một kẻ hành quyết dùng gậy đánh anh ta ngã. Một lúc sau người vợ chạy thoát và lao vào anh ta, nhưng đám súc vật kéo cô ấy lại, lôi về phía đống lửa, trong khi đó tất cả khán giả la hét điên dại.
“Cháu không thể chịu được chuyện này,” Leo nói, “Đó là giết người – giết người máu lạnh,” và cậu rút gươm ra.
“Tốt nhất nên kệ đám thú vật đó,” tôi nghi ngại trả lời, dù máu tôi đã sôi lên trong huyết quản.
Cậu ấy có nghe thấy hay không tôi không biết, vì ngay sau đó tôi thấy Leo lao qua cửa, vẫy thanh gươm của Khan và thét bằng giọng cao vút. Tôi đánh gót vào xương sườn con ngựa và đi theo sau cậu ấy. Mười giây sau chúng tôi đã ở giữa đám người. Khi chúng tôi đến, đám người hoang dã lui lại, kinh ngạc nhìn chằm chằm chúng tôi, thoạt tiên tôi nghĩ họ cho chúng tôi là ma quỉ hiện hình. Leo đi bộ còn tôi phi nước đại theo sau, chúng tôi tới nơi.
Những kẻ hành quyết và nạn nhân giờ đang gần đống lửa – một đống lửa rất lớn từ nhựa thông trong hố khoảng tám feet. Gần đó là vị linh mục đang ngồi trên ghế, nhìn cảnh tượng với nụ cười độc ác, thưởng cho con mèo những miếng thịt sống nhỏ ông ta lấy từ túi da bên cạnh, hành động ông ta làm rất thản nhiên đến mức có lẽ ông ta sẽ không bao giờ nhìn đến chúng tôi cho đến lúc chúng tôi ở ngay trước mắt ông ta.
Hét lên, “Để cô ấy lại, lũ tốt đen kia,” Leo lao vào đám người hành quyết, với một đòn duy nhất bằng thanh gươm đã cắt đứt tay một tên đang nắm chặt cổ người phụ nữ.
Thét lên đau đớn và giận dữ, người đó lui lại rồi đứng vung phần tay còn lại về phía đám người nhìn chằm chằm như điên dại. Trong sự hỗn loạn sau đó, tôi thấy nạn nhân trượt khỏi tay những kẻ sắp giết cô ấy còn đang bị kinh hoảng và chạy vào bóng tối, cô ấy đã biến mất. Tôi cũng thấy thầy phù thủy đứng dậy, vẫn cầm cái khay có con mèo đang ngồi, nghe ông ta thét lên một tràng tức giận trước Leo, giờ cậu đang vẫy thanh gươm và nguyền rủa thô tục bằng tiếng Anh và nhiều ngôn ngữ khác.
Sau đó đột nhiên con mèo trên khay tức điên lên, tôi nghĩ do tiếng huyên náo và bị gián đoạn bữa ăn của nó, nó nhảy thẳng vào mặt Leo. Cậu tóm lấy nó giữa không trung bằng tay trái và dùng toàn bộ sức lực ném mạnh nó xuống đất, nó nằm đó quằn quại kêu gào. Rồi như thể vừa nghĩ lại, cậu cúi xuống, nhặt sinh vật như ác quỉ đó lên và ném nó vào giữa đống lửa, cậu ấy đã phát điên vì giận dữ và không biết mình làm gì.
Trước cảnh báng bổ thần thánh kinh khủng đó – vì đám người kia tôn thờ con vật này – đám khán giả nhanh chóng há hốc miệng đầy khủng bố, theo sau là một tiếng tru cay đắng. Như sóng biển, chúng vội vã lao vào chúng tôi. Tôi thấy Leo đâm một tên ngã xuống, rồi tôi rời ngựa và bị kéo về phía cái lò. Cạnh lò, tôi gặp Leo cũng trong cảnh đó, nhưng vẫn chiến đấu dữ dội, do sức cậu rất lớn nên đám người khá e sợ cậu.
“Tại sao cháu không thể để con mèo lại?” tôi hét lên với cậu để rầy la sự ngu ngốc đó, não tôi đã biến mất và tôi biết chúng tôi sắp bị ném vào hố lửa. Tôi đã kết thúc rồi; tôi cảm thấy ngọn lửa liếm vào tóc mình và thấy cái động đỏ chói của nó đang đợi tôi, đột nhiên bàn tay hung ác giữ tôi thả ra, tôi ngã ngược lại phía sau, lăn ra đất, tôi nằm đó nhìn chằm chằm lên trên.
Đây là những gì tôi thấy. Đứng trước đống lửa, thân ảnh che mặt run rẩy vì giận dữ, là người dẫn đường như bóng ma của chúng tôi, giờ đang chỉ tay vào thầy phù thủy đầu đỏ to lớn. Nhưng cô ấy không đơn độc, bên cạnh có một đám đàn ông mặc áo choàng trắng và mang gươm; những người mắt đen, trông khổ hạnh, đầu và mặt cạo sạch sẽ, khiến da đầu của họ sáng bóng trong ánh lửa.
Lúc nhìn thấy họ, vẻ khủng hoảng tràn ngập, vô số những kẻ điên cuồng như lũ bò đực bị kích động vài giây trước đó, giờ đã chạy trốn theo mọi hướng như cừu sợ sói. Thủ lĩnh của các linh mục áo trắng, người đàn ông gương mặt hiền hậu, mang một nụ cười không dứt, đang nói chuyện với tên phù thủy, tôi hiểu một chút những gì ông nói.
“Tên chó,” ông ta nói rất có lực, bằng giọng mượt mà, chừng mực nhưng thật khủng khiếp, “tên chó đáng nguyền rủa, kẻ tôn thờ súc vật, ngươi định làm gì với những vị khách của Đức Mẹ hùng mạnh của Ngọn Núi? Vì điều này mà ngươi và những gì ngươi sùng bái được tha lâu như vậy sao? Trả lời đi, nếu ngươi có gì để nói. Trả lời nhanh lên, thời gian của ngươi còn rất ít.”
Rên rỉ vì sợ hãi, tên phù thủy to lớn khuỵu cả đầu gối, không phải với vị linh mục thủ lĩnh vừa hỏi hắn, mà trước thân ảnh run rẩy của người dẫn đường cho chúng tôi, rồi láng máng cầu xin cô ấy thương xót.
“Ngừng,” linh mục bề trên nói, “cô ấy là Mục Sư Phán Xét và Thanh Gươm tranh đấu. Ta là Đôi Tai và Giọng Nói. Hãy nói với ta – ngươi định quăng những người kia vào đống lửa, những người ngươi được ra lệnh phải tiếp đón trọng thị, vì họ cứu nạn nhân của lũ quỉ dữ các ngươi và giết chết con yêu quái ngươi ấp ủ ư? Không, ta đã nhìn thấy tất cả. Nhớ rằng đó là cái bẫy bắt ngươi, kẻ đã được cho phép sống quá lâu.”
Nhưng kẻ bất hạnh đó vẫn quằn quại trước thân ảnh che mặt và gào rú cầu xin lòng thương xót.
“Thưa Sứ Giả,” linh mục bề trên nói, “quyền năng đi theo người. Hãy ban mệnh lệnh của người đi.”
Rồi người dẫn đường chậm rãi nâng tay và chỉ vào đống lửa. Ngay lập tức người đàn ông biến thành trắng bệch như ma, rú lên và ngã xuống, theo tôi nghĩ, đã chết, bị giết bằng nỗi kinh hoàng.
Giờ nhiều người đã chạy trốn, nhưng một số còn ở lại, linh mục gọi những người đó bằng thanh âm lạnh lẽo, ra lệnh họ đi tới. Họ tuân theo, bò về phía ông ấy.
“Nhìn đi,” ông nói và chỉ vào người đàn ông, “nhìn đi và hãy run sợ trước phán xét của Đức Mẹ Hes. Phải, điều đó là chắc chắn với hắn, cũng sẽ thế với những ai trong các ngươi dám coi thường Ngài và tiến hành làm phép hay giết người. Hãy nâng tên chó chết, thủ lĩnh của các ngươi lên.”
Một số họ bò lên phía trước và làm theo lệnh ông ấy.
“Giờ hãy quăng hắn lên chiếc giường hắn đã làm sẵn cho các nạn nhân.”
Lảo đảo đi về bên cạnh hố lửa, họ tuân theo, và cái xác to lớn rơi vào giữa đống cành cây đang bùng cháy rồi biến mất ở đó.
“Nghe đây, các ngươi,” linh mục nói, “hãy nhớ rằng tên này xứng đáng với kết cục khủng khiếp đó. Các ngươi có biết tại sao hắn muốn giết người phụ nữ được những khách lạ cứu không? Các ngươi cho là vì con vật quen thuộc của hắn đánh dấu nàng là phù thủy ư? Ta nói cho các ngươi biết, không phải vậy. Đó là vì nàng xinh đẹp, hắn muốn cướp nàng khỏi chồng nàng, giống như hắn đã làm với nhiều người khác, nàng ta đã từ chối hắn. Nhưng Đôi Mắt đã nhìn thấy, Giọng Nói đã kể lại, và Sứ Giả đã phán xét. Hắn bị bắt bằng chính cái bẫy của hắn, các ngươi cũng sẽ như thế, nếu dám nghĩ những điều xấu xa trong lòng hay làm điều xấu xa bằng bàn tay kia.”
“Mệnh lệnh của Hesea là như vậy, ngài đã tuyên bố trên ngai vàng giữa lửa cháy của Ngọn Núi.”



Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham