Thứ Năm, 9 tháng 7, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 12



Chương 12: Sứ Giả

“Anh ta đã đi rồi,” tôi thở hổn hển, “thế giới không mất mát nhiều lắm.”
“Phải, nó cũng đã chẳng cho anh ta nhiều lắm, tên xấu xa khốn khổ đó, chúng ta đừng nói xấu anh ta như vậy nữa,” Leo trả lời, lăn mình ra đất vì kiệt sức. “Có thể anh ta là người đúng đắn trước khi họ làm anh ta phát điên. Dù sao anh ta đã bị nhổ đi rồi, cháu không muốn giải quyết ai như vậy nữa.”
“Cháu đã làm thế nào?” tôi hỏi.
“Né thanh gươm của anh ta, tiếp cận, quăng anh ta và đập anh ta lên tảng đá. Dùng toàn bộ sức mạnh, thế thôi. Một việc kinh khủng, nhưng đó là mạng anh ta hoặc mạng cháu, và cả bác nữa. May mà cháu kết thúc vừa đúng lúc để kịp giúp bác trước khi con vật miệng như cái lò kia cắn xé cổ bác. Bác từng thấy con chó nào như thế chưa? Nó to như con lừa non. Bác đau lắm phải không, bác Horace?”
“Ôi, cẳng tay của bác đã bị nhai bét nhè, nhưng không sao nữa rồi, bác nghĩ vậy. Chúng ta đi xuống nước đi; nếu không thể uống nước ngay, bác sẽ xỉu mất. Lũ chó còn lại cũng đâu đây thôi, còn khoảng năm mươi con hoặc hơn.”
“Cháu không nghĩ chúng sẽ làm chúng ta khó khăn, chúng đã tóm được lũ ngựa khốn khổ. Đợi một phút, cháu sẽ quay lại.”
Rồi cậu đứng lên, tìm thấy thanh gươm của Khan, một vũ khí cổ xưa và đẹp đẽ, chỉ bằng một nhát cắt duy nhất bằng cạnh gươm đã giết chết con chó thứ hai làm tôi bị thương vẫn đang thoi thóp và gầm gừ nhìn chúng tôi. Sau đó, cậu ấy thu lại hai cây giáo và dao, bảo rằng chúng có thể vẫn còn có ích, rồi dễ dàng bắt được con ngựa của Khan đang lúc lắc đầu gần đó, mệt mỏi đến mức cuộc chiến tuyệt vọng này cũng không dọa nó chạy mất.
“Bây giờ,” cậu nói, “bác lên đi, nhà nghiên cứu sinh già. Bác không thể đi bộ xa hơn được đâu,” với sự trợ giúp của cậu ấy, tôi trèo lên yên ngựa.
Sau đó để dây cương trượt xuống tay, cậu dắt con ngựa bước khó nhọc ra phía bờ sông, khoảng một phần tư dặm, dù đối với tôi, đúng là tra tấn vì tôi đang đau đớn gần như mê sảng vì kiệt sức, hành trình có vẻ khá dài.
Chúng tôi vẫn đi tới đó, quên cả thương tích của mình, tôi nhảy xuống ngựa, lao mình ra uống, và uống thật nhiều, tôi nghĩ, như thể chưa từng làm vậy từ trước tới giờ. Suốt đời tôi chưa bao giờ nếm thứ gì ngon lành như dòng nước này. Khi đã thỏa mãn cơn khát, tôi nhúng đầu và đưa cánh tay bị thương vào nước, vẻ mát lành vẫn gây đau đớn. Hiện tại Leo đã đứng lên, nước chảy xuống từ mặt và râu cậu, cậu ấy nói – “Giờ chúng ta sẽ làm gì? Con sông có vẻ rất rộng, trên một trăm thước, nó khá nông, nhưng có lẽ lòng sông sẽ sâu. Nếu cố vượt qua, chúng ta có thể chết đuối, hoặc dừng ở đây, chúng ta đợi tới ban ngày và có thể gặp bầy chó săn tử thần.”
“Bác không thể đi bộ nữa,” tôi thì thào yếu ớt, “ít nhiều hãy cố lội qua con sông vô danh này.”
Khoảng ba mươi thước từ bờ là một đảo phủ đầy lau sậy và cỏ.
“Có lẽ chúng ta có thể tới được chỗ kia,” cậu nói. “Đi nào, lên lưng cháu, chúng ta sẽ cố.”
Tôi nghe theo một cách khó nhọc, và chúng tôi đi, cậu ấy dò đường bằng cây giáo. Nước khá nông; quả thực, chưa bao giờ quá đầu gối cậu ấy, vì thế chúng tôi đến hòn đảo không chút khó khăn. Leo đặt tôi xuống ở đây, trên đống cỏ mềm, rồi trở lại bờ, mang theo con ngựa đen và đống vũ khí, tháo yên cương cho cho ngựa, để nó khụy xuống thả lỏng, nó nằm ngay xuống, thật quá dễ nuôi.
Sau đó cậu ấy chăm sóc vết thương của tôi. Rõ ràng tôi nhận ra tay áo mình quá dày, thậm chí da thịt ở cẳng tay bị xé tả tơi, xương cũng bị vỡ. Leo lượm được đầy hai bàn tay rêu mềm ẩm ướt, rửa sạch cánh tay tôi, quấn quanh nó bằng chiếc khăn tay mà cậu đã lót rêu. Còn với chiếc khăn tay thứ hai cùng ít vải lanh bị xé từ quần áo lót, cậu buộc chặt vào cặp gậy dùng làm nẹp thô sơ cho tay bị thương. Khi cậu đang làm chuyện đó, tôi cho rằng mình đã ngủ hoặc bất tỉnh. Dù sao, tôi cũng không nhớ gì nữa.
Suốt đêm đó, Leo có một giấc mơ lạ, cậu kể cho tôi vào sáng hôm sau. Tôi nghĩ hẳn là mơ vì chắc mình không nhìn thấy hay nhận ra điều gì. Phải, cậu đã mơ – tôi dùng chính lời cậu ‘gần như có thể là thế’ – rằng cậu lại nghe thấy đàn chó tử thần đáng nguyền rủa kia đang than khóc. Chúng tới càng lúc càng gần, theo dấu chúng tôi đến bờ sông – cả đàn đã cắn xé lũ ngựa. Tại mép nước, chúng dừng lại im lặng. Đột nhiên một làn gió mang mùi của chúng tôi từ đảo tới một con trong số đó, khiến nó ngẩng đầu dậy và sủa vang một tiếng. Những con còn lại chụm vào nó, tất cả chúng bỗng chốc làm thành hàng ngang dàn trên mặt nước.
Leo có thể nhìn thấy và nghe thấy mọi thứ. Cậu cảm thấy ngày tận số của chúng tôi đã cận kề, nằm trong vòng kìm kẹp của cơn ác mộng, nếu đó là ác mộng, cậu hoàn toàn không thể tỉnh dậy hay kêu khóc để đánh thức và cảnh báo tôi.
Hiện giờ đã diễn ra theo ảo cảnh kỳ diệu đó. Chúng đưa lưỡi ra, nửa bơi nửa chìm, đám chó săn tới gần hòn đảo chúng tôi ngủ. Sau đó, đột nhiên Leo thấy chúng tôi không còn đơn độc nữa. Phía trước chúng tôi, bên mép nước, một thân hình phụ nữ choàng áo tối màu đứng đó. Cậu không thể mô tả được gương mặt hay dáng vẻ người đó, vì người đó quay lưng về phía cậu.
Tất cả những gì cậu biết là cô ấy đứng đó, như một người bảo vệ, giữ một vật gì đó trong bàn tay giơ lên, đột nhiên những con chó săn đi đầu nhìn thấy người đó. Phút chốc chúng tê liệt vì sợ hãi – tiếng sủa biến thành tiếng gầm gừ sợ sệt. Một hai con gần đảo nhất dường như bị trượt chân và bị dòng nước cuốn trôi. Số còn lại vật lộn vào bờ, điên cuồng chạy trốn như bị quất roi.
Sau đó thân ảnh uy quyền màu tối đó biến mất, trong giấc mơ của mình Leo nghĩ đó là người bảo vệ Linh Hồn Ngọn Núi. Không có dấu vết gì để lại phía sau để xác minh, nhưng vào buổi sáng chúng tôi sẽ nhìn thấy.
Khi bị đánh thức bởi những cơn đau nhức ê buốt cánh tay, tôi mở mắt, bình minh đã lên. Làn sương mỏng manh lững lờ trôi trên sông và hòn đảo, xuyên qua sương tôi có thể thấy Leo đang nặng nề ngủ bên cạnh và hình bóng con ngựa đen đang đứng thong thả gần đó. Tôi vẫn nằm một lúc, nhớ lại mọi chuyện chúng tôi đã trải qua và tự hỏi mình vẫn còn sống và thức dậy sao, tới khi trong tiếng nước róc rách, tôi nghe thấy âm thanh làm tôi khiếp sợ, âm thanh của tiếng người nói. Tôi ngồi dậy và nhìn xuyên qua đám sậy, trên bờ sông, hiện lên rõ ràng trong màn sương mù, tôi thấy hai thân ảnh đang trên lưng ngựa, một phụ nữ và một đàn ông.
Họ chỉ trỏ trên mặt đất như thể đang kiểm tra dấu vết trên cát. Tôi nghe thấy người đàn ông nói gì đó về những con chó không dám đi vào lãnh thổ của Ngọn Núi, nhận xét gợi lại trong tâm trí tôi giấc mơ Leo đã kể. Sau đó tôi nhớ ra chúng tôi đã vào đây như thế nào.
“Dậy!” Tôi thì thào với Leo. “Dậy, chúng ta bị đuổi theo.”
Cậu đứng dậy, dụi mắt và giật ngay một cây giáo. Giờ những người bên bờ sông đã nhìn thấy cậu, một giọng ngọt ngào cất lên trong sương mù – “Bỏ vũ khí xuống, vị khách của ta, vì chúng ta sẽ không làm hại ngươi.”
Đó là giọng nói của Khania Atene, còn người đàn ông bên cạnh cô ấy là vị Pháp Sư già Simbri.
“Giờ chúng ta làm gì đây, bác Horace?” Leo rên rỉ hỏi, vì trên thế giới này đó là hai người cậu không muốn gặp lại nhất.
“Không làm gì cả,” tôi trả lời, “đến lượt họ diễn.”
“Lại chỗ chúng ta,” Khania gọi bên kia sông. “Ta thề chúng ta không làm hại. Các ngươi không chỉ có một mình à?”
“Tôi không biết,” Leo trả lời, “nhưng có lẽ không có khả năng. Nơi này chúng tôi dừng chân cho đến khi sẵn sàng đi tiếp.”
Atene nói chuyện với Simbri. Những gì cô ấy nói chúng tôi không thể nghe được, vì cô thì thầm, nhưng dường như cô đang tranh cãi và thuyết phục ông ấy điều gì đó, tất nhiên ông ta mạnh mẽ từ chối. Đột nhiên hai người họ cưỡi ngựa xuống nước và tới chỗ chúng tôi qua vùng nước nông. Tới hòn đảo, họ xuống ngựa, chúng tôi nhìn nhau chằm chằm. Ông già có lẽ rất mệt mỏi về thể xác và bị áp lực trong tâm trí, nhưng Khania lại mạnh mẽ và xinh đẹp như mọi khi, đam mê và mệt mỏi không để lại bất kỳ dấu vết nào trên gương mặt khó hiểu của cô. Chính cô phá vỡ sự im lặng – “Các ngươi đã cưỡi ngựa đi rất nhanh và rất xa kể từ lần cuối chúng ta gặp nhau, các vị khách ạ, còn bỏ lại một tên quỉ dữ đánh dấu đường các ngươi đi. Hắn đã nằm chết ở tảng đá đằng kia. Nói đi, hắn đi tới kết cục đó như thế nào, không hề có vết thương trên người hắn?”
“Bằng cái này,” Leo trả lời, duỗi tay ra.
“Ta biết điều đó,” cô trả lời, “ta không đổ lỗi cho ngươi, vì số phận đã phán cái chết cho hắn, giờ nó đã được thực hiện. Nhưng ngươi vẫn phải trả lời trước mọi người vì huyết thống của hắn ta, và ta chỉ có thể bảo vệ ngươi khỏi họ.”
“Hoặc phản bội tôi khi đứng trước họ,” Leo nói. “Khania, người tìm kiếm điều gì?”
“Câu trả lời ngươi nên đưa cho ta đã trôi qua mười hai tiếng rồi. Nhớ đấy, trước khi ngươi nói, ta là người duy nhất có thể cứu mạng ngươi – phải, và sẽ làm điều đó, rồi mặc cho ngươi trang phục cùng vương miện của tên điên đã chết kia.”
“Người sẽ có câu trả lời của tôi trên Ngọn Núi kia,” Leo nói, chỉ lên đỉnh núi phía trên chúng tôi, “tôi tìm kiếm câu trả lời của tôi ở đó.”
Cô tái mặt một chút và đáp, “Đó là chỗ chết, vì ta đã nói với ngươi, chỗ đó được bảo vệ bởi những kẻ hoang dã không biết đến lòng thương hại.”
“Thế cũng được. Thế thì Tử Thần là câu trả lời chúng tôi tìm kiếm. Đi thôi, bác Horace, hãy để chúng tôi đi gặp Tử Thần.”
“Ta thề với ngươi,” cô ngắt lời, “chỗ đó không có người phụ nữ trong giấc mơ của ngươi đâu. Ta là người phụ nữ đó, phải, chính là ta, vì ngươi là người đàn ông của ta.”
“Thế thì thưa quí bà, hãy chứng mình điều đó trên Ngọn Núi,” Leo trả lời.
“Không có người phụ nữ nào sống ở đó,” Atene vội vã tiếp tục, “không gì sống ở đó. Đó là ngôi nhà của lửa và – một Giọng Nói.”
“Giọng nói gì?”
“Giọng Nói của Nhà Tiên Tri phát ra từ ngọn lửa. Giọng Nói của một Linh Hồn chưa ai từng thấy, hoặc sẽ thấy.”
“Đi thôi, bác Horace,” Leo nói, và cậu tiến về phía con ngựa.
“Hỡi những người kia,” Vị Pháp Sư già ngắt lời, “các ngươi vội vã chạy tới chỗ diệt vong sao? Nghe này; ta đã tới nơi bị ma ám kia, vì theo phong tục, chính ta là người mang xác Khan, cha của Atene đi chôn ở nơi đó, ta cảnh báo các ngươi đừng đặt chân vào các đền thờ của nó.”
“Nơi chủ nhân của ngài bảo chúng tôi không bao giờ được tới sao,” Tôi hỏi, nhưng Leo chỉ trả lời – “Chúng tôi cám ơn ngài đã cảnh báo,” rồi nói thêm, “Bác Horace, hãy trông chừng họ trong khi cháu đóng yên ngựa, để họ ít gây hại cho chúng ta.”
Thế là tôi cầm cây giáo trên tay không bị thương và sẵn sàng đứng đó. Nhưng họ không cố gắng làm hại chúng tôi, chỉ quay ra sau một chút và bắt đầu nói chuyện trong những lời thì thầm vội vã. Với tôi, rõ ràng họ đang bị nhiễu loạn rất nhiều. Sau ít phút, ngựa đã được đóng yên xong, Leo giúp tôi lên ngựa. Rồi cậu bảo – “Chúng tôi đi hoàn thành định mệnh của mình đây, dù nó là bất cứ thứ gì đi chăng nữa, nhưng trước khi chia tay, Khania, tôi xin cám ơn lòng tốt của nàng dành cho chúng tôi, cầu nguyện nàng hãy khôn ngoan và quên đi chúng tôi đã từng tồn tại. Dù không phải là ý định của tôi, nhưng máu của chồng nàng đã rơi trên tay tôi, chỉ điều đó thôi đã chia lìa chúng ta vĩnh viễn. Chúng ta bị chia cắt bởi cánh cửa của thần chết và định mệnh. Hãy trở về với nhân dân của nàng, và thứ lỗi cho ta nếu ta mang lại cho nàng bao hoài nghi và rắc rối không mong muốn. Tạm biệt.”
Cô ấy cúi đầu lắng nghe, rồi buồn bã đáp lại – “Ta cảm ơn chàng vì những lời dịu dàng đó, nhưng Leo Vincey, chúng ta sẽ không chia tay dễ dàng thế. Chàng đã gọi ta tới Ngọn Núi, và dù có lên Ngọn Núi, ta cũng sẽ đi theo chàng. Phải, ở đó ta sẽ gặp Linh Hồn của nó, ta luôn biết mình sẽ phải gặp và Pháp Sư đây cũng luôn biết ta sẽ phải gặp. Đúng, ta sẽ dùng sức mạnh và phép thuật chống lại bà ta, như ta được ra lệnh phải làm thế. Để chiến thắng và mang vương miện này, chúng ta đã phải chiến đấu bao thế hệ qua.”
Rồi đột nhiên Atene nhảy lên yên ngựa, quay đầu trở lại bờ, theo sau là Simbri già nua, người vừa giơ đôi tay cong queo của mình lên như thể đau đớn và sợ hãi, lẩm bẩm khi ông đi qua – “Các người đã vào dòng sông cấm và bây giờ, hỡi Atene, ngày phán xét đã rơi trên đầu tất cả chúng ta – trên đầu tất cả chúng ta và nàng – ngày báo trước của điêu tàn và chiến tranh.”
“Họ có ý gì?” Leo hỏi tôi.
“Bác không biết,” tôi trả lời; “nhưng bác chắc rằng chúng ta sẽ tìm ra sớm thôi và hẳn sẽ không vui vẻ gì. Giờ lại vì con sông này.”
Trước khi chúng tôi vật vã vượt qua nó, tôi đã nghĩ hơn một lần về ngày chết đuối trên đó, do nhiều chỗ có ghềnh sâu đều gần như muốn cuốn phăng chúng tôi đi. Nhưng Leo đang lội và cầm cương dẫn con ngựa của Khan, tự cảm nhận đường đi với sự hỗ trợ của cây giáo, vì thế cuối cùng chúng tôi cũng tới bờ bên kia an toàn.
Bên ngoài là những vùng đất sình lầy rộng lớn, chắc chắn sẽ bị ngập khi có lũ. Chúng tôi đẩy tốc độ trên đường qua đó nhanh nhất có thể, vì chúng tôi sợ Khania đi gọi đội hộ tống tới, dù cô có thể vừa bỏ đi sau khi xúc động, nhưng cũng có thể quay lại để săn đuổi chúng tôi. Lúc đó chúng tôi không biết sẽ thế nào, với con sông làm đường biên giới, đất đai của Ngọn Núi hoàn toàn trở thành nơi linh thiêng và bất khả xâm phạm trong thực tế. Đúng, nó từng bị người Kaloon xâm lược trong nhiều cuộc chiến, nhưng mỗi lần quân đội của họ đều bị đánh bại hoặc gặp tai họa khủng khiếp. Hơi kỳ lạ, rồi sau đó họ bắt đầu tin rằng Cung Điện Lửa nằm dưới sự bảo vệ của một Linh Hồn bất khả chiến bại.
Rời đầm lầy, chúng tôi tới một bình nguyên nhô lên trần trụi, dẫn đến sườn núi đầu tiên của Ngọn Núi cách đó khoảng ba hay bốn dặm. Lúc này mỗi lúc chúng tôi đều dự định sẽ bị tấn công bởi đám người hoang dã chúng tôi đã nghe kể rất nhiều, nhưng vẫn chưa thấy một sinh vật sống nào. Chỗ này là một sa mạc nằm trên gân đá từng là dung nham nóng chảy. Tôi không nhớ gì về nó nữa; quả thực cánh tay đau đớn kinh người khiến tôi không thể nhìn nổi đặc điểm địa chất xung quanh. Cuối cùng, bình nguyên nhô lên kết thúc trong một khe sâu rộng và trơ trụi, thảm thực vật vô cùng nghèo nàn, đáy bị chôn vùi trong nham thạch và những mảnh đá vỡ bị cuốn trôi xuống do mưa hay tuyết tan từ các sườn núi bên trên. Bên kia khe sâu được bao bởi một vách đá, có lẽ cao khoảng năm mươi feet, chúng tôi thấy không thông đi đâu.
Chúng tôi vẫn đi xuống chỗ đó, tối đen và lởm chởm; hơn nữa tràn ngập vẻ u ám bất thường, chúng tôi nhận ra tầng nham thạch của nó được rải trên vô số đối tượng màu trắng. Chúng tôi tới ngay đối tượng đầu tiên và thấy đó là bộ xương người. Đây là một Thung Lũng Xương Người Chết thực sự, hàng nghìn hàng vạn bộ; một nghĩa địa khổng lồ. Như thể một đội quân lớn đã bị giết hại ở đây.
Quả thực sau đó chúng tôi biết đúng vậy, vì ở quá khứ rất xa xôi, vào một trong những lần dân tộc Kaloon tấn công các bộ lạc trên Ngọn Núi, họ đã bị mắc kẹt và bị tàn sát trong khe sâu này, để lại xương trắng như lời cảnh báo và tín hiệu. Chúng tôi thất vọng đi lang thang giữa đống xương thê thảm đó, tìm đường đi lên vách đá đối diện, nhưng không tìm thấy gì, cuối cùng chúng tôi dừng lại, không biết rẽ đường nào. Rồi chính lúc đó chúng tôi gặp trải nghiệm kỳ lạ đầu tiên trên Ngọn Núi.
Khe sâu và các phế tích vỡ nát của nó làm chúng tôi chán nản, vì vậy chúng tôi im lặng một lúc, nói thật, hơi sợ hãi. Đúng, ngay cả con ngựa cũng có vẻ sợ hãi, vì nó khịt khịt mũi, cúi đầu và rùng mình. Gần chúng tôi nằm một đống xương, rõ ràng là phần còn lại của một số sinh vật bất hạnh chết hay sống, đã bị quăng xuống từ vách đá bên trên, đỉnh đống xương là một đống nhỏ lộn xộn còn nhiều xương hơn.
“Trừ khi chúng ta có thể tìm được đường ra khỏi nhà mồ đáng nguyền rủa này trước khi quá lâu, nếu không bác nghĩ chúng ta sẽ thêm vào đội quân này thôi,” tôi nói và nhìn quanh.
Khi lời vừa thốt ra khỏi miệng, dường như từ khóe mắt, tôi thấy cái đống nhỏ trên đỉnh đống xương động đậy. Đúng, nó đang động đậy. Nó nhô lên, rồi đứng lên, một hình người, dường như là một phụ nữ - nhưng tôi không chắc lắm – bọc từ đầu đến chân bằng màu trắng và mang mạng che mặt, hay đúng hơn là mặt nạ cho hai hố mắt. Nó tiến lên phía chúng tôi trong khi chúng tôi vẫn chằm chằm nhìn nó, tới lúc con ngựa nhìn thấy cảnh đó, né tránh dữ dội và suýt hất tôi xuống. Khi còn cách khoảng mười bước, bộ xương dừng lại và dùng tay ra hiệu, bàn tay cũng bị quấn trắng như tay xác ướp.
“Ngươi là thứ quỉ quái gì thế?” Leo hét lên, giọng cậu vang vọng sầu thảm giữa những tảng đá trần trụi. Nhưng sinh vật đó không trả lời, nó tiếp tục vẫy.
Leo bước tới chỗ nó để đảm bảo chúng tôi không phải là nạn nhân của ảo giác. Khi cậu tới, nó lướt trở về đống xương của mình như bóng ma một người chết vùng dậy từ đám nhân chứng đang cười toe toét, đúng hơn là một xác chết được quấn băng, vì nó giống thế. Leo đi theo với ý định chạm vào nó để đảm bảo đó là thật, nhưng nó nâng cánh tay quấn vải trắng lên nhẹ nhàng đánh vào ngực cậu. Khi cậu lùi lại, nó dùng tay chỉ lên phía trên trước tiên, như thể ý nói lên Đỉnh Ngọn Núi hay bầu trời, rồi sau đó chỉ vào bức tường đá đối diện chúng tôi.
Cậu ấy quay lại nói với tôi, “Chúng ta phải làm gì?”
“Đi theo, bác cho là thế. Có lẽ đó là một sứ giả từ bên trên,” tôi gật đầu hướng về đỉnh núi.
“Từ đây có nhiều khả năng,” Leo lẩm bẩm, “cháu không thích hình hài của kẻ dẫn đường này.”
Nhưng cậu vẫn dùng tay ra hiệu sinh vật kia tiếp tục. Rõ ràng nó hiểu, vì nó rẽ sang trái và bắt đầu tìm đường nhanh chóng giữa đống đá và xương mà không một tiếng ồn. Chúng tôi đi theo vài trăm thước tới một khe cạn trong đá. Khe này chúng tôi đã nhìn thấy trước đó, nhưng có lẽ sâu khoảng ba mươi feet, chúng tôi đi vào. Sinh vật kia đi vào đây và biến mất.
“Nó hẳn là một cái bóng,” Leo nghi ngờ nói.
“Vớ vẩn,” tôi trả lời, “cái bóng không đánh được ai. Đi tiếp nào.”
Vì vậy cậu dắt ngựa lên khe cạn, cuối khe lại rẽ phải, thân ảnh đó đang đứng chỗ này đợi chúng tôi. Nó lại đi trước và chúng tôi đi theo sau xuống một hẻm núi nhỏ tối tăm hơn tới khi kết thúc trong một hang động, hay một hành lang cắt qua đá.
Lúc này người hướng dẫn của chúng tôi quay lại dường như có ý lấy dây cương ngựa, nhưng thấy nó tới gần hơn, con vật khịt mũi và lồng lên, gần như ngã ngược về phía tôi. Khi ngựa chạm chân xuống đất, sinh vật kia đánh vào đầu nó một cách lạnh lùng và vô nhân đạo như đã đánh Leo, khiến con ngựa run lên và tuôn mồ hôi vì sợ hãi, không cố trốn thoát hay không vâng lời nữa. Rồi sinh vật đó lấy một bên dây cương quấn vào tay, Leo bám theo, chúng tôi đi vào đường hầm.
Vị trí của chúng tôi không hề dễ chịu, vì chúng tôi không biết mình bị dẫn đi đâu bởi kẻ dẫn đường kinh khủng này, ngờ rằng sẽ phải chết trong bóng tối. Hơn nữa, tôi đoán lối đi rất hẹp và bao quanh bởi vực sâu, vì khi đi qua, tôi nghe thấy đá rơi, rõ ràng là tương đối sâu, còn con ngựa khốn khổ rón rén nâng chân và khịt khịt mũi trong sợ hãi thấp hèn. Cuối cùng chúng tôi cũng nhìn thấy ánh sáng ban ngày, tôi chưa bao giờ vui hơn thế trong đời, dù biết có một vực sâu bên phải, còn con đường chúng tôi đi không rộng quá mười feet.
Bây giờ chúng tôi đã ra khỏi đường hầm, rõ ràng một đường vòng rộng đã cứu chúng tôi, lần đầu tiên đứng trên một sườn núi thực sự của Ngọn Núi, kéo dài rất nhiều dặm tới dải tuyết bên trên. Nơi đây chúng tôi cũng nhìn thấy dấu hiệu của sự sống con người, vì đất được canh tác theo từng mảnh và những đàn cừu núi cùng gia súc hiện diện phía xa.
Hiện tại chúng tôi đi vào một khe hẹp, theo con đường gập ghềnh chạy dọc viền một dòng nước hung dữ. Một nơi hoang vắng, rộng nửa dặm hoặc hơn, có hàng trăm tảng đá nham thạch kỳ vĩ rải trên sườn. Trước khi đi được chừng một dặm, tôi nghe thấy một tiếng còi chói tai, bỗng nhiên từ sau những tảng đá nhảy ra một đám người, khoảng năm mươi tên. Chúng tôi nhớ tất cả họ đều là những đồng loại rắn chắc, hoang dã, phần lớn tóc và râu đều đỏ, dù da họ khá tối, họ mặc áo choàng da dê trắng, mang theo giáo và khiên. Tôi có thể tưởng tượng ra họ gần giống người Pict và Scotland cổ xưa xuất hiện trước quân La Mã xâm lược. Trước mặt chúng tôi, họ thốt lên những tiếng la hét kêu gào chói tai, rõ ràng định dùng giáo đâm chúng tôi ngay tại chỗ.
“Giờ đến lượt nó,” Leo nói, rút gươm ra, vì không thể trốn thoát được, họ đã vây quanh chúng tôi. “Tạm biệt, bác Horace.”
“Tạm biệt,” tôi yếu ớt đáp lời, hiểu ra Khania và vị Pháp Sư già có lý khi nói chúng tôi sẽ bị giết trước khi lên được sườn núi đầu tiên của Ngọn Núi.
Trong lúc đó kẻ hướng dẫn như bóng ma của chúng tôi đang trượt ra phía sau một tảng đá lớn, với tôi, chuyện xảy ra có phần của cô ta trong vở kịch đang diễn ra, cô ta - nếu đó là một người phụ nữ - đã tự rút lui khi chúng tôi gặp định mệnh khốn cùng. Nhưng tôi đã không công bằng với cô ấy, vì tôi nghĩ cô ấy đã tới cứu chúng tôi khỏi định mệnh đó, mà nếu không có hiện diện đó, chúng tôi chắc chắn sẽ phải chịu đau đớn vô cùng. Khi đám người hoang dã còn cách vài thước, đột nhiên cô ấy xuất hiện trên đỉnh tảng đá, trông như Phù Thủy Endor thứ hai, và giang tay ra. Không nói một từ, chỉ dang cánh tay quấn vải ra, nhưng hiệu ứng rất mạnh và tức thời.
Trước cảnh cô ấy nhìn xuống những gương mặt của đám người điên cuồng kia, mỗi người như thể bị sét đánh, ngay lập tức bị cuốn khỏi sự sống. Rồi cô ấy bỏ tay xuống và ra hiệu, một kẻ to lớn, tôi nghĩ là thủ lĩnh của đám người, đứng dậy và cúi đầu bò về phía cô ấy, ngoan ngoãn như một con chó bị đánh đập. Cô ra hiệu với hắn, chỉ về phía chúng tôi, rồi chỉ lên Đỉnh Ngọn Núi phía xa, đưa qua đưa lại cánh tay phủ đầy vải trắng, nhưng tôi không nghe thấy lời nào. Rõ ràng vị thủ lĩnh hiểu cô ấy, nhưng hắn nói gì đó bằng một thứ ngôn ngữ cổ. Rồi hắn ta huýt sáo chói tai, cả nhóm người đứng dậy và rời đi nhanh chóng, theo đường này hay đường kia, một phút sau họ biến mất cũng nhanh như khi họ xuất hiện.
Giờ người hướng dẫn lại tiếp tục ra hiệu cho chúng tôi đi tiếp, dẫn đường bình thản như không có chuyện gì xảy ra.
Hơn hai giờ sau, chúng tôi vẫn trên con đường từ khe núi đi ra một sườn cỏ dốc, nó xuyên qua và chạm vào con đường. Lúc này vô cùng kinh ngạc, chúng tôi thấy một đống lửa đang cháy, treo trên đống lửa là một nồi đất nung, đã sôi, dù không thấy ai trông coi nó. Người kia ra hiệu tôi xuống ngựa, chỉ vào cái nồi, ra hiệu chúng tôi ăn, chắc cô ấy đã ra lệnh cho những người hoang dã kia chuẩn bị cho chúng tôi, tôi vui vẻ tuân theo. Lương thực cũng được chuẩn bị cho cả con ngựa, vì gần đống lửa đặt một bó cỏ xanh lớn.
Trong lúc Leo tháo cương ngựa và rắc cỏ cho nó, đưa tôi một bình đất nằm sẵn ở đó, tôi tới ven dòng nước xiết để uống và ngâm cánh tay bị thương vào nước lạnh như băng. Thực sự nhẹ nhõm đi rất nhiều, tới giờ tôi đã chắc chắn trong vô số khả năng, răng con Thủ Lĩnh may mắn chỉ làm vỡ hay bị thương đoạn xương nhỏ này, phát hiện đó khiến tôi thấy mình thật biết ơn. Xong xuôi, tôi đổ đầy bình nước.
Trên đường trở lại, một suy nghĩ hiện ra trong tôi, tới chỗ người dẫn đường bí ẩn vẫn đang đứng như vợ của Lot đã hóa thành tượng muối, tôi đưa bình nước cho cô ấy, hy vọng cô vén mạng che mặt để uống nước. Lần đầu tiên cô ấy thể hiện dấu hiệu mình là con người, hoặc tôi nghĩ vậy, vì cô ấy hơi cúi đầu thể hiện phép lịch sự. Nếu vậy – tôi có thể đã nhầm lẫn – chỉ thế thôi, ngay sau đó cô ấy quay lưng lại phía tôi thể hiện sự từ chối. Có nghĩa là cô ấy không muốn, theo tôi hiểu, không thể uống. Cô cũng không muốn ăn, vì sau đó khi Leo cố đưa thức ăn, cô cũng từ chối như vậy.
Trong lúc cậu ấy lấy cái nồi khỏi đống lửa, thức ăn bên trong đã đủ ấm để chúng tôi háo hức ăn, vì chúng tôi đang đói. Sau khi ăn uống xong, Leo quấn lại cánh tay cho tôi một cách chắc nhất có thể và chúng tôi nghỉ ngơi một chút. Tôi nghĩ quả thật rất mệt mỏi, chúng tôi bắt đầu ngủ gật, rồi bị đánh thức bởi một cái bóng rơi trên người, nhìn lên thấy người dẫn đường như xác chết đứng gần đó và chỉ lên mặt trời, rồi chỉ tới con ngựa, như thể nói cho chúng tôi biết chúng tôi còn phải đi rất xa. Thế là chúng tôi lại lên ngựa và tiếp tục đi, tươi tỉnh hơn một chút, vì ít ra chúng tôi không còn bị đói cồn cào nữa.
Phần còn lại trong ngày hôm đó, chúng tôi leo lên các sườn cỏ, không gặp ai, dù thi thoảng nghe thấy tiếng huýt sao hoang dại nói cho chúng tôi biết mình đang bị những kẻ hoang dã của Ngọn Núi quan sát. Vào lúc hoàng hôn, đặc điểm vùng đất đã thay đổi, cỏ được thay bằng đá, chỉ mọc vài ngọn linh sam còi cọc. Chúng tôi rời khỏi các sườn núi và bắt đầu trèo lên chính Ngọn Núi.
Mặt trời chìm xuống và chúng tôi đi trong chạng vạng. Khi cả ánh chạng vạng cũng biến mất, chúng tôi tiếp tục đi xuyên qua bóng tối, con đường chỉ được chiếu sáng từ những vì sao và vầng hào quang mờ nhạt của cây cột khói phát sáng trên Đỉnh Ngọn Núi, phản xạ tới chỗ chúng tôi từ lớp vỏ tuyết hùng vĩ. Chúng tôi tiến lên rất vất vả, trong khi phía trước chúng tôi vài bước, người dẫn đường bước đi không hề mệt nhọc. Nếu lúc trước cô ấy có vẻ kỳ quặc và vô nhân đạo, thì giờ cô ấy là một bóng ma thực sự, khoác đồ niệm trắng toát trong ánh sáng mờ nhạt lung linh, không nói, không quay lại, cô ấy trượt đi lặng lẽ giữa những hòn đá và đám linh sam cùng bách xù xanh đen xoắn xít.
Chẳng bao lâu chúng tôi quên sạch lối đi. Chúng tôi rẽ lối này rồi lại rẽ đường kia, qua một khu đất thông thoáng, rồi xuyên tới một khu rừng nhỏ, cuối cùng khi trăng lên, chúng tôi đi vào một khe núi, đi theo lối đi chạy xuống dưới, tới một nơi như giảng đường lớn do bàn tay tự nhiên cắt qua đá của Ngọn Núi. Rõ ràng đó là một nơi phòng vệ, vì lối vào hẹp và quanh co, xây ở cuối, vì vậy chỉ một người có thể qua cửa tại một thời điểm. Trong không gian mở và tại phía bên kia là những ngôi nhà thấp bằng đá xây trên đá núi. Phía trước những ngôi nhà này, ánh trăng tỏa sáng, hàng trăm đàn ông và phụ nữ đang tụ tập xếp thành hình bán nguyệt theo từng nhóm có chọn lọc, có lẽ đang tham gia cử hành nghi lễ nào đó.
Khá hoang dã. Trước mặt họ, ngay giữa vòng bán nguyệt, một người đàn ông khổng lồ, râu đỏ, trần truồng ngoại trừ lớp da trên lưng. Ông ta đánh đu, tay đặt lên hông, rồi quăng mình, thét lên gì đó như “Ho, haha, ho!” Khi ông ta cúi người trước khán giả, họ lại cúi người trước ông ta, mỗi lần ông ta đứng thẳng, lại vang lên thiết thét “Ho!” vì âm thanh đó quay vòng do đập vào vách đá. Không chỉ thế, ngồi trên đầu đầy lông tóc ông ta, cong người lại và vẫy vẫy đuôi là một con mèo trắng to lớn.
Tôi chưa từng chứng kiến chuyện gì kỳ lạ và hoang đường hơn hiệu ứng tổng hợp của cảnh này, chiếu sáng bởi ánh trăng rạng ngời và đặt ở đấu trường hoang dã kia. Đàn ông và đàn bà đều có tóc đỏ, nửa người để trần, vị linh mục khổng lồ, con mèo trắng thần bí nắm chặt da đầu ông ta bằng móng vuốt, vẫy vẫy đuôi như đóng một vai trong màn trình diễn; ca khúc thô thiển và điệp khúc tuôn ra hàng chuỗi của nó, tất cả giúp tạo nên một ấn tượng vô cùng kỳ lạ. Đáng kể hơn, lúc đó chúng tôi không thể phán đoán ra ý nghĩa của nó, dù chúng tôi đã tưởng tượng ra đó hẳn phải là một lễ dâng hiến hay ban tặng từ thời nguyên thủy. Nó giống như một mảnh ác mộng được các giác quan bị đánh thức bảo tồn trong hiện thực điên rồ và vô nghĩa.
Giờ quay tròn quanh không gian mở, đám người hoang dã đang ngợi ca vật thờ phụng của họ, hoặc bất cứ thứ gì đó, chạy tới bức tường đá thô ráp cao khoảng sáu feet, trên đó có một cánh cổng. Chúng tôi tiến về đó mà không hề thấy, vì phía tường bên chúng tôi mọc rất nhiều thông còi. Người dẫn đường đưa chúng tôi qua đám thông, tới cây to nhất cách cánh cổng vài thước và ngay bên phải nó, cô ấy ra hiệu cho chúng tôi dừng lại.
Sau đó cô tới chỗ thấp trên bức tường và đứng đó như thể quan sát cảnh bên ngoài. Có lẽ quả thật cô ấy đã nhìn thấy thứ gì đó không mong muốn nên bỗng bối rối hoặc tức giận. Hiện tại có lẽ cô ấy đã quyết định, vì cô lại ra hiệu cho chúng tôi đứng yên, nghỉ ngơi trong im lặng bằng cách đặt bàn tay quấn băng lên chiếc mặt nạ che đi khuôn mặt cô. Lúc sau cô ấy biến mất. Cô ấy đi như thế nào, đi đâu, tôi không nói được; tất cả những gì chúng tôi biết là cô ấy không ở đây nữa.
“Chúng ta làm gì bây giờ?” Leo thì thầm với tôi.
“Ở laị đây cho đến khi cô ấy trở lại hoặc có gì đó xảy ra,” tôi trả lời.
Vì vậy không có gì nữa để làm, chúng tôi nghỉ ngơi, hy vọng con ngựa không phản bội chúng tôi mà hý lên, hoặc chúng tôi không bị phát hiện, vì chắc chắn nếu như vậy, chúng tôi sẽ nguy hiểm tính mạng. Nhưng rất nhanh chóng sau đó, chúng tôi quên mất nỗi lo lắng về tình trạng của bản thân để nghiên cứu cảnh tượng hoang dã trước mặt, giờ đã phát triển đáng sợ hơn.
Có lẽ bản thân nó là một vở kịch nguyên thủy, vở kịch đó là vụ án liên quan đến tồn vong của tộc người nào đó. Chúng tôi đoán vậy, vì sau khi cầu nguyện ngừng một lúc, đám đông trước mặt người đàn ông to lớn đội con mèo trên đầu đã mở ra, sau ông ta là cột khói bốc lên trong không khí, như thể ánh sáng trong cái lò vừa tắt.
Trong không gian đã được dọn sạch, giờ bảy người được dẫn vào, tay họ bị trói phía sau. Họ có cả hai giới, trong đó có một ông già và một phụ nữ dáng hình cao lớn, xinh đẹp, còn rất trẻ, thực ra không hơn một thiếu nữ. Bảy người này được xếp đứng thành một hàng, rõ ràng rất sợ hãi, vì ông già đã ngã khụy xuống đầu gối và một trong các phụ nữ bắt đầu khóc nức nở. Họ bị bỏ lại một lúc, có lẽ chờ cho đống lửa phía sau họ bùng lên, đống lửa nhanh chóng bùng cháy dữ dội, bắn ra ánh sáng sống động tới từng chi tiết của cảnh tượng.
Giờ đây tất cả đã sẵn sàng, một người đàn ông mang khay gỗ cho linh mục râu đỏ đang ngồi trên ghế, con mèo trắng trên đầu gối ông ta, chúng tôi thấy nó vừa nhảy từ đầu ông ta xuống trước đó. Ông ta cầm quai chiếc khay, nói một lời, con mèo nhảy lên và ngồi trên đó. Giữa lúc im ắng căng thẳng nhất, ông ta đứng lên, thốt ra lời cầu nguyện, có lẽ dành cho con mèo đang ngồi đối mặt với ông ta. Làm xong, ông ta quay vòng cái khay, vì thế lưng con vật giờ đang hướng về phía ông ta, rồi tiến tới dãy tù nhân, bước đi bước lại trước mặt họ vài lần, mỗi lần lại gần hơn một chút.
Giữ lấy cái khay, ông ta giơ nó trước mặt người tù bên trái, con mèo đứng lên, uốn lưng và bắt đầu nhấc chân lên xuống. Ông ta di chuyển tới người tù kế bên và giữ khay trước mặt một lúc, cứ như vậy tới người thứ năm, người phụ nữ trẻ tôi vừa kể. Giờ con mèo đột nhiên rất tức giận, vì trong cảnh tĩnh lặng như chết, chúng tôi có thể nghe thấy nó phun phì phì và gầm gừ. Cuối cùng nó nâng bàn chân lên và cào vào mặt cô gái, cô ấy hét to, tiếng thét khủng khiếp. Sau đó toàn bộ khán giả vỡ òa trong tiếng gào rú, một từ thôi, chúng tôi hiểu từ đó, vì đã từng nghe một từ rất giống nó được người dân vùng Đồng Bằng sử dụng. Đó là “Phù Thủy! Phù Thủy! Phù Thủy!”
Những kẻ hành quyết đang chờ nạn nhân được chọn ra trong thử thách này qua con mèo, vội vã lao ra và tóm lấy cô gái, kéo cô về phía đống lửa. Người tù bên cạnh cô, chúng tôi đoán ngay là chồng cô ấy, đang cố bảo vệ cô, nhưng tay anh ta bị trói, kẻ khốn khổ, anh ta chẳng thể làm được gì. Một kẻ hành quyết dùng gậy đánh anh ta ngã. Một lúc sau người vợ chạy thoát và lao vào anh ta, nhưng đám súc vật kéo cô ấy lại, lôi về phía đống lửa, trong khi đó tất cả khán giả la hét điên dại.
“Cháu không thể chịu được chuyện này,” Leo nói, “Đó là giết người – giết người máu lạnh,” và cậu rút gươm ra.
“Tốt nhất nên kệ đám thú vật đó,” tôi nghi ngại trả lời, dù máu tôi đã sôi lên trong huyết quản.
Cậu ấy có nghe thấy hay không tôi không biết, vì ngay sau đó tôi thấy Leo lao qua cửa, vẫy thanh gươm của Khan và thét bằng giọng cao vút. Tôi đánh gót vào xương sườn con ngựa và đi theo sau cậu ấy. Mười giây sau chúng tôi đã ở giữa đám người. Khi chúng tôi đến, đám người hoang dã lui lại, kinh ngạc nhìn chằm chằm chúng tôi, thoạt tiên tôi nghĩ họ cho chúng tôi là ma quỉ hiện hình. Leo đi bộ còn tôi phi nước đại theo sau, chúng tôi tới nơi.
Những kẻ hành quyết và nạn nhân giờ đang gần đống lửa – một đống lửa rất lớn từ nhựa thông trong hố khoảng tám feet. Gần đó là vị linh mục đang ngồi trên ghế, nhìn cảnh tượng với nụ cười độc ác, thưởng cho con mèo những miếng thịt sống nhỏ ông ta lấy từ túi da bên cạnh, hành động ông ta làm rất thản nhiên đến mức có lẽ ông ta sẽ không bao giờ nhìn đến chúng tôi cho đến lúc chúng tôi ở ngay trước mắt ông ta.
Hét lên, “Để cô ấy lại, lũ tốt đen kia,” Leo lao vào đám người hành quyết, với một đòn duy nhất bằng thanh gươm đã cắt đứt tay một tên đang nắm chặt cổ người phụ nữ.
Thét lên đau đớn và giận dữ, người đó lui lại rồi đứng vung phần tay còn lại về phía đám người nhìn chằm chằm như điên dại. Trong sự hỗn loạn sau đó, tôi thấy nạn nhân trượt khỏi tay những kẻ sắp giết cô ấy còn đang bị kinh hoảng và chạy vào bóng tối, cô ấy đã biến mất. Tôi cũng thấy thầy phù thủy đứng dậy, vẫn cầm cái khay có con mèo đang ngồi, nghe ông ta thét lên một tràng tức giận trước Leo, giờ cậu đang vẫy thanh gươm và nguyền rủa thô tục bằng tiếng Anh và nhiều ngôn ngữ khác.
Sau đó đột nhiên con mèo trên khay tức điên lên, tôi nghĩ do tiếng huyên náo và bị gián đoạn bữa ăn của nó, nó nhảy thẳng vào mặt Leo. Cậu tóm lấy nó giữa không trung bằng tay trái và dùng toàn bộ sức lực ném mạnh nó xuống đất, nó nằm đó quằn quại kêu gào. Rồi như thể vừa nghĩ lại, cậu cúi xuống, nhặt sinh vật như ác quỉ đó lên và ném nó vào giữa đống lửa, cậu ấy đã phát điên vì giận dữ và không biết mình làm gì.
Trước cảnh báng bổ thần thánh kinh khủng đó – vì đám người kia tôn thờ con vật này – đám khán giả nhanh chóng há hốc miệng đầy khủng bố, theo sau là một tiếng tru cay đắng. Như sóng biển, chúng vội vã lao vào chúng tôi. Tôi thấy Leo đâm một tên ngã xuống, rồi tôi rời ngựa và bị kéo về phía cái lò. Cạnh lò, tôi gặp Leo cũng trong cảnh đó, nhưng vẫn chiến đấu dữ dội, do sức cậu rất lớn nên đám người khá e sợ cậu.
“Tại sao cháu không thể để con mèo lại?” tôi hét lên với cậu để rầy la sự ngu ngốc đó, não tôi đã biến mất và tôi biết chúng tôi sắp bị ném vào hố lửa. Tôi đã kết thúc rồi; tôi cảm thấy ngọn lửa liếm vào tóc mình và thấy cái động đỏ chói của nó đang đợi tôi, đột nhiên bàn tay hung ác giữ tôi thả ra, tôi ngã ngược lại phía sau, lăn ra đất, tôi nằm đó nhìn chằm chằm lên trên.
Đây là những gì tôi thấy. Đứng trước đống lửa, thân ảnh che mặt run rẩy vì giận dữ, là người dẫn đường như bóng ma của chúng tôi, giờ đang chỉ tay vào thầy phù thủy đầu đỏ to lớn. Nhưng cô ấy không đơn độc, bên cạnh có một đám đàn ông mặc áo choàng trắng và mang gươm; những người mắt đen, trông khổ hạnh, đầu và mặt cạo sạch sẽ, khiến da đầu của họ sáng bóng trong ánh lửa.
Lúc nhìn thấy họ, vẻ khủng hoảng tràn ngập, vô số những kẻ điên cuồng như lũ bò đực bị kích động vài giây trước đó, giờ đã chạy trốn theo mọi hướng như cừu sợ sói. Thủ lĩnh của các linh mục áo trắng, người đàn ông gương mặt hiền hậu, mang một nụ cười không dứt, đang nói chuyện với tên phù thủy, tôi hiểu một chút những gì ông nói.
“Tên chó,” ông ta nói rất có lực, bằng giọng mượt mà, chừng mực nhưng thật khủng khiếp, “tên chó đáng nguyền rủa, kẻ tôn thờ súc vật, ngươi định làm gì với những vị khách của Đức Mẹ hùng mạnh của Ngọn Núi? Vì điều này mà ngươi và những gì ngươi sùng bái được tha lâu như vậy sao? Trả lời đi, nếu ngươi có gì để nói. Trả lời nhanh lên, thời gian của ngươi còn rất ít.”
Rên rỉ vì sợ hãi, tên phù thủy to lớn khuỵu cả đầu gối, không phải với vị linh mục thủ lĩnh vừa hỏi hắn, mà trước thân ảnh run rẩy của người dẫn đường cho chúng tôi, rồi láng máng cầu xin cô ấy thương xót.
“Ngừng,” linh mục bề trên nói, “cô ấy là Mục Sư Phán Xét và Thanh Gươm tranh đấu. Ta là Đôi Tai và Giọng Nói. Hãy nói với ta – ngươi định quăng những người kia vào đống lửa, những người ngươi được ra lệnh phải tiếp đón trọng thị, vì họ cứu nạn nhân của lũ quỉ dữ các ngươi và giết chết con yêu quái ngươi ấp ủ ư? Không, ta đã nhìn thấy tất cả. Nhớ rằng đó là cái bẫy bắt ngươi, kẻ đã được cho phép sống quá lâu.”
Nhưng kẻ bất hạnh đó vẫn quằn quại trước thân ảnh che mặt và gào rú cầu xin lòng thương xót.
“Thưa Sứ Giả,” linh mục bề trên nói, “quyền năng đi theo người. Hãy ban mệnh lệnh của người đi.”
Rồi người dẫn đường chậm rãi nâng tay và chỉ vào đống lửa. Ngay lập tức người đàn ông biến thành trắng bệch như ma, rú lên và ngã xuống, theo tôi nghĩ, đã chết, bị giết bằng nỗi kinh hoàng.
Giờ nhiều người đã chạy trốn, nhưng một số còn ở lại, linh mục gọi những người đó bằng thanh âm lạnh lẽo, ra lệnh họ đi tới. Họ tuân theo, bò về phía ông ấy.
“Nhìn đi,” ông nói và chỉ vào người đàn ông, “nhìn đi và hãy run sợ trước phán xét của Đức Mẹ Hes. Phải, điều đó là chắc chắn với hắn, cũng sẽ thế với những ai trong các ngươi dám coi thường Ngài và tiến hành làm phép hay giết người. Hãy nâng tên chó chết, thủ lĩnh của các ngươi lên.”
Một số họ bò lên phía trước và làm theo lệnh ông ấy.
“Giờ hãy quăng hắn lên chiếc giường hắn đã làm sẵn cho các nạn nhân.”
Lảo đảo đi về bên cạnh hố lửa, họ tuân theo, và cái xác to lớn rơi vào giữa đống cành cây đang bùng cháy rồi biến mất ở đó.
“Nghe đây, các ngươi,” linh mục nói, “hãy nhớ rằng tên này xứng đáng với kết cục khủng khiếp đó. Các ngươi có biết tại sao hắn muốn giết người phụ nữ được những khách lạ cứu không? Các ngươi cho là vì con vật quen thuộc của hắn đánh dấu nàng là phù thủy ư? Ta nói cho các ngươi biết, không phải vậy. Đó là vì nàng xinh đẹp, hắn muốn cướp nàng khỏi chồng nàng, giống như hắn đã làm với nhiều người khác, nàng ta đã từ chối hắn. Nhưng Đôi Mắt đã nhìn thấy, Giọng Nói đã kể lại, và Sứ Giả đã phán xét. Hắn bị bắt bằng chính cái bẫy của hắn, các ngươi cũng sẽ như thế, nếu dám nghĩ những điều xấu xa trong lòng hay làm điều xấu xa bằng bàn tay kia.”
“Mệnh lệnh của Hesea là như vậy, ngài đã tuyên bố trên ngai vàng giữa lửa cháy của Ngọn Núi.”



Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 11



Chương 11: Cuộc Săn Giết

Chúng tôi về phòng, không gặp ai trên đường đi, và chúng tôi chuẩn bị mọi thứ ở đó. Thoạt tiên thay áo choàng cho ngày lễ bằng quần áo ấm hơn đã từng dùng khi tới thành phố Kaloon. Sau đó chúng tôi ăn uống mọi lương thực có thể ở phòng ngoài, vì không biết khi nào sẽ tìm được thức ăn, rồi bỏ đầy phần còn lại của thịt, rượu và vài nhu yếu phẩm vào hai túi giống như người dân ở đây vẫn đeo trên vai. Chúng tôi cũng dắt dao lớn dùng cho săn bắn vào thắt lưng và bản thân trang bị thêm mấy cây giáo ngắn đã làm ra lúc đi săn.
“Có lẽ hắn đã sắp sẵn âm mưu ám sát chúng ta, chúng ta cần phải bảo vệ bản thân tốt nhất có thể,” Leo đề nghị.
Tôi gật đầu, vì tiếng cười cuối cùng của Khan vẫn vang vọng trong tai tôi. Đó là một nụ cười rất độc ác.
“Tương đối đủ rồi,” Tôi nói. “Bác không tin tên điên đó. Nhưng hắn vẫn mong tống cổ được chúng ta đi.”
“Đúng, nhưng như hắn đã nói, người sống có thể quay lại, còn người chết thì không.”
“Atene nghĩ ngược lại,” tôi nhận xét.
“Nhưng nàng đe dọa chúng ta bằng cái chết,” Leo trả lời.
“Vì nỗi hổ thẹn và sự khao khát làm nàng trở nên điên cuồng,” tôi đáp, sau đó chúng tôi im lặng.
Giờ cánh cửa đã mở ra, Khan bước vào, quấn trong chiếc áo choàng lớn như thể muốn ngụy trang.
“Đi thôi,” anh ta nói, “nếu các ngươi đã sẵn sàng.” Rồi nhìn vào những cây giáo chúng tôi cầm, anh ta nói thêm: “Các ngươi không cần những thứ đó. Các ngươi không đi săn.”
“Không,” tôi trả lời, “nhưng ai biết được – chúng tôi có thể bị săn đuổi.”
“Nếu các ngươi tin thế, có lẽ tốt nhất nên ở lại đây tới khi Khania phát chán vì tên Râu Vàng và mở cửa cho các ngươi,” anh ta đáp lại, mắt vẫn liếc nhìn tôi đầy xảo quyệt.
“Tôi nghĩ là không,” tôi nói, và chúng tôi bắt đầu xuất phát, Khan dẫn đường và ra hiệu cho chúng tôi im lặng.
Chúng tôi đi qua những căn phòng trống tới hiên, rồi từ hiên xuống sân, ở đó anh ta thì thào bảo chúng tôi ẩn mình trong bóng tối. Vì trăng soi rất rạng rỡ đêm nay, tôi nhớ sáng rõ tới mức tôi có thể nhìn thấy từng ngọn cỏ mọc giữa các ô vỉa hè, bóng tối ít ỏi bị ném ra từ mỗi hình khối riêng lẻ trên bề mặt đá đã bị mài mòn. Giờ tôi tự hỏi chúng tôi sẽ đi qua cánh cổng thế nào, vì một người bảo vệ đang canh gác ở đó, khi tối muộn còn được tăng gấp đôi theo lệnh của Khania. Nhưng chúng tôi rời khỏi cánh cổng từ bên phải, trên con đường dẫn ra khu vườn có tường bao lớn, nơi Rassen đưa chúng tôi qua một cửa dấu sau lùm cây bụi được anh ta mở khóa với chìa mang theo.
Giờ đây chúng tôi đã ở bên ngoài bức tường cung điện, con đường của chúng tôi chạy qua khu trại của bầy chó. Khi chúng tôi đi tới đó, bầy chó săn tử thần to lớn không ngủ, vẫn lang thang qua lại như sư tử đang rình mò, bắt được hơi gió của chúng tôi liền rú lên chuỗi sủa vang đột ngột và kinh khủng. Tôi rùng mình trước âm thanh đó, vì nó thật đáng sợ trong sự im lặng thế này, tôi cũng nghĩ nó sẽ làm đám người trông giữ tỉnh giấc. Nhưng Khan đi tới đám cọc sắt và hiện diện, bầy súc vật đó biết anh ta nên dừng gầm rú.
“Đừng sợ,” anh ta nói khi quay lại, “những tay săn đuổi đó biết chúng bị bỏ đói đêm nay, thì ngày mai nhất định có vài phạm nhân được ném cho chúng.”
Giờ chúng tôi đã tới cổng cung điện. Ở đó Khan ra lệnh cho chúng tôi ẩn trong một lối đi có mái vòm rồi đi qua. Chúng tôi nhìn nhau, cùng một suy nghĩ xuất hiện trong đầu hai chúng tôi – hắn đi dẫn những kẻ giết người tới kết thúc đời mình. Nhưng chúng tôi đã sai, vì hiện tại nghe thấy âm thanh tiếng vó ngựa trên đá, và anh ta quay lại dẫn theo hai con ngựa trắng mà Atene đã ban cho chúng tôi.
“Ta đã tự tay thắng yên cho chúng,” anh ta thì thầm. “Ai có thể làm nhiều hơn thế để đẩy nhanh tốc độ tiễn khách chứ? Giờ lên ngựa đi, hãy giấu mặt trong áo choàng như ta, và đi theo ta.”
Chúng tôi lên ngựa, còn anh ta chạy lon ton trước chúng tôi như người hầu dẫn đường, giống các lãnh chúa của Kaloon thường sử dụng khi họ đi làm ăn hay giải trí. Rời khỏi đường chính, anh ta dẫn chúng tôi đi qua một ngã tư mang nhiều tiếng xấu trong thành phố, rồi đi xuống những con đường phụ quanh co. Ở đó chúng tôi gặp vài kẻ rượu chè, trong khi đám khách ăn sương lướt qua từng ô cửa, vén một bên mạng che mặt nhìn chúng tôi, nhưng chúng tôi không ra hiệu sẽ quay lại, họ cho rằng chúng tôi đang đi hẹn hò. Chúng tôi tới bến tàu bỏ hoang bên bờ sông và ra chỗ một cầu cảng nhỏ, cạnh đó đã có sẵn một phà rộng.
“Các ngươi phải đưa ngựa lên và chèo thuyền qua,” Rassen nói, “vì mọi cây cầu đều được canh gác, không muốn để phát hiện, ta sẽ không thể ra lệnh cho binh sĩ cho các ngươi đi qua.”
Vì thế hơi rắc rối một chút, chúng tôi thúc ép mấy con ngựa lên tàu, tôi giữ chúng bằng dây cương còn Leo đi lấy mái chèo.
“Giờ hãy đi theo con đường của các ngươi, những kẻ lang thang đáng nguyền rủa,” Khan kêu lên khi đẩy chúng tôi khỏi cầu cảng, “hãy cầu nguyện Linh Hồn Ngọn Núi để con Chuột già kia và học trò của hắn – tình yêu của ngươi, Râu Vàng, tình yêu của ngươi – đừng nhìn thấy các ngươi qua chiếc kính thần bí. Vì nếu vậy, chúng ta có lẽ lại gặp lại nhau thôi.”
Khi dòng nước bắt được chúng tôi, quét con thuyền ra giữa con sông, anh ta bắt đầu phá lên cười đầy ghê rợn, gọi với theo chúng tôi – “Đi nhanh lên, đi nhanh lên cho an toàn, hỡi những kẻ xa lạ kia; cái chết đang ở phía sau đấy.”
Leo dùng hết sức lùi lại trên dòng nước, vì thế con thuyền lơ lửng bên mép sông.
“Cháu nghĩ chúng ta tốt hơn nên trở lại mặt đất và giết tên kia, vì hắn đúng là một mối nguy hại,” cậu nói.
Cậu nói bằng tiếng Anh, nhưng Rassen đã tóm được chuỗi giọng nói của cậu nên đoán ra ý nghĩa nhờ sự xảo quyệt điên cuồng. Hắn thét lên – “Quá muộn rồi, lũ ngốc,” rồi cười lớn và quay lại, chạy trên cầu cảng nhanh đến mức chiếc áo choàng tung bay trên không trung sau anh ta, và biến mất trong bóng tối trước mắt.
“Chèo thôi,” tôi nói, Leo cúi mình chèo thuyền.
Nhưng con thuyền như cái phà khá cồng kềnh còn dòng nước chảy xiết, vì thế chúng tôi bị cuốn xuống một đoạn dài trước khi có thể vượt qua. Cuối cùng chúng tôi tới vùng nước tĩnh gần bờ phía xa, thấy chỗ đậu, điều khiển con thuyền lại và kéo ngựa lên bờ. Sau đó bỏ con thuyền trôi dạt, vì chúng tôi không có thời gian đánh chìm nó, chúng tôi tìm đai và cương, rồi lên ngựa, đi về phía cột khói phát sáng xa xa giống như ngọn hải đăng trên đỉnh Cung Điện Lửa.
Ban đầu hành trình của chúng tôi rất chậm, vì nơi này dường như không có đường đi, chúng tôi buộc phải đi qua các cánh đồng, tìm những cây cầu vượt qua kênh mương khi chúng quá rộng không thể nhảy qua. Mất hơn một giờ vì việc đó, chúng tôi mới tới một ngôi làng chưa thức dậy, rồi từ đó đi theo con đường có lẽ chạy tới ngọn núi, dù sau đó chúng tôi biết, con đường thực sự phải qua rất nhiều dặm. Bây giờ lần đầu tiên chúng tôi có thể cho chạy nước kiệu, đẩy nhanh tốc độ, dù không quá nhanh, vì chúng tôi muốn tha cho hai con ngựa và sợ chúng sẽ gục ngã khi trời chưa sáng.
Trước bình minh, mặt trăng chìm dần phía sau Ngọn Núi, bóng tối dày đặc buộc chúng tôi phải dừng lại, giữ chặt cương ngựa và thả chúng một chút để chúng ăn bắp non. Khi bầu trời chuyển màu xám, ánh sáng mờ nhạt từ cột khói dẫn dắt chúng tôi, rồi bình minh lên, trải đỏ rực xuống tuyết trắng mênh mông trên đỉnh núi xa xa, bắn tên xuyên qua vòng thòng lọng trên cây cột trụ. Chúng tôi để ngựa uống xong nước dưới kênh tưới bắp, rồi lên ngựa, từ từ cưỡi về phía trước.
Giờ đây thoát khỏi bóng tối của màn đêm, nỗi sợ hãi nặng nề dường như được nhấc ra khỏi tim và chúng tôi tràn đầy hy vọng, phải, rất vui vẻ. Thành phố đáng ghét đã lui lại phía sau. Phía sau chúng tôi là Khania với những khát khao không ngừng lớn dần, hướng tới diệt vong và nhan sắc gây bão táp của nàng, là phép tà thuật của ông thầy mắt hóa sừng của nàng, già nua và âm thầm tội lỗi, là sự điên cuồng của thứ sinh vật kỳ lạ nửa quỉ nửa thánh tử vì đạo mỗi khi chúng nổi cơn hung bạo, là kẻ hèn nhát – Khan, chồng nàng, là cung điện ô uế của hắn ta. Phía trước là ngọn lửa, dấu đi tuyết và điều thần bí đã tìm kiếm suốt bao năm trống rỗng qua. Giờ chúng tôi muốn làm sáng tỏ nó hoặc chết. Vì thế chúng tôi vui vẻ ép mình hướng về phía định mệnh, dù nó có thể là bất cứ thứ gì.
Suốt nhiều giờ chạy quanh co trên đường xuyên qua vùng đất canh tác, nơi nông dân lao động đặt cả dụng cụ xuống và tụ tập tại các nút xem chúng tôi đi qua, thật kỳ lạ, những ngôi làng nhà lợp mái bằng, phụ nữ vồ lấy con cái rồi bỏ chạy khi nhìn thấy chúng tôi. Họ tin chúng tôi là đám lãnh chúa từ cung điện tới làm việc với họ, gây hại cho người hay tài sản, nỗi kinh sợ của họ nói cho chúng tôi biết đất nước này đang khổ sở thế nào dưới cây gậy của kẻ áp bức. Đến trưa, dù đỉnh núi chỉ gần hơn một chút, nhưng đặc trưng của đất đai đã thay đổi. Giờ đây nó dốc lên thoai thoải và vì vậy, không thể được tưới tiêu.
Rõ ràng toàn bộ huyện lớn này phụ thuộc vào mưa theo mùa, mà mùa xuân vừa rồi không có mưa. Vì thế dù dân số đông đảo và mỗi sào đất đều đang được cày bừa, mùa màng vẫn thất bát. Màu xanh thật ít ỏi, bắp không đáng có đã hóa vàng vì thiếu độ ẩm, gia súc đói khát tìm kiếm thức ăn trên đồng cỏ, còn người nghèo lang thang trên cánh đồng hoặc cố đào đất cứng như đá.
Mọi người hình như biết chúng tôi là hai người nước ngoài tới đây đã gây huyên náo, nỗi sợ nạn đói làm họ trở nên táo bạo, họ chửi bới chúng tôi khi chúng tôi đi qua, đòi chúng tôi trả lại cho họ mưa đã bị chúng tôi đánh cắp, hoặc chúng tôi đang hiểu lời họ như vậy. Thậm chí cả phụ nữ và trẻ em trong các ngôi làng cũng quì lạy trước chúng tôi, chỉ lên Ngọn Núi rồi chỉ lên trời xanh, kêu khóc đòi chúng tôi mang mưa về cho họ. Quả thực có lần chúng tôi bị một đám nông dân được vũ trang bằng thuổng và lưỡi câu đe dọa, chắn giữa đường, nên buộc phải thúc ngựa phi nước đại vội vã vượt qua họ. Khi đi về phía trước, đất nước này càng khô cằn hơn và càng ít dân hơn, tới khi chúng tôi không còn nhìn thấy ai trông giữ bầy gia súc lang thang từ nơi này sang nơi khác tìm cỏ nữa.
Đến tối, chúng tôi đoán mình đã tới biên giới thường bị các bộ lạc trên Ngọn Núi tàn phá, vì nơi này có những tháp cao hùng vĩ bằng đá, rải rác ít cây thạch nam, chắc dùng làm nhà quan sát hoặc nơi ẩn náu. Tôi không biết quân lính có đóng ở đó hay không, vì chúng tôi không thấy ai cả. Có lẽ các pháo đài này thực sự là di tích của những ngày tháng mảnh đất Kaloon được người cai trị bảo vệ trước các đợt tấn công, đó hẳn là người rất khác với vị Khan hiện tại và những người tiền nhiệm ngay trước đó của anh ta.
Cuối cùng ngay cả các tháp quan sát cũng lui lại phía sau, lúc hoàng hôn chúng tôi thấy mình ở trên một đồng bằng rộng lớn không người, chúng tôi không nhìn thấy thứ gì sống được ở đó. Giờ đây chúng tôi quyết định dừng ngựa nghỉ ngơi một lúc, cho rằng sẽ đi tiếp nhờ ánh trăng, vì cơn thịnh nộ của Khania đang ở phía sau, chúng tôi không dám nán lại. Tối đó chắc chắn cô ấy đã phát hiện ra chúng tôi trốn thoát, vì trước khi mặt trời lặn, như cô ra lệnh, Leo phải đưa ra lựa chọn và cho cô ấy câu trả lời. Vì thế chúng tôi chắc chắn cô ấy sẽ nhanh chóng đuổi theo. Có lẽ các sứ giả của cô đã đánh thức cả nước hòng bắt giữ chúng tôi, còn binh lính đang đuổi theo con đường phía sau.
Chúng tôi tháo yên ngựa, để chúng lấy lại sức bằng cách lăn lộn trên cát, thả trên đống cỏ khô héo mọc xung quanh. Ở đây không có nước; nhưng đó không phải vấn đề lớn, vì cả ngựa và chúng tôi đã uống ở một cái hồ ít bùn tìm thấy không quá một giờ trước. Chúng tôi đang sắp ăn xong bữa ăn với lương thực mang theo, thật ra chúng tôi vô cùng đau nhức sau một đêm không ngủ và cuộc hành trình suốt ngày dài, còn ngựa của tôi, đầu gối sắp khụy xuống, đang nằm lăn qua lăn lại. Nó làm thế không dễ vì có dây buộc ở chân trước, tôi vu vơ dõi theo nỗ lực của nó, cuối cùng, sau lần thứ tư cố gắng, treo được vài giây bằng lưng, chân nó chơi vơi trên không trung, rồi chầm chậm đổ về phía tôi.
“Tại sao móng của nó đỏ như thế nhỉ? Nó tự cắt à?” Leo dửng dưng hỏi.
Thật tình cờ tôi cũng vừa nhận ra ánh đỏ này, lần đầu tiên, vì nó hoàn toàn khác đế guốc động vật, khi con ngựa lăn lộn tôi đã không nhìn ra. Vì thế tôi đứng dậy kiểm tra, do nghĩ có lẽ ánh sáng ban đêm đánh lừa chúng tôi, hoặc chúng tôi có lẽ vừa đi qua vùng đất bùn màu hung đỏ. Chắc chắn chúng màu đỏ, như loại thuốc nhuộm để ngâm sừng và các loại móng guốc. Hơn nữa, nó có mùi hăng và thơm khá khó chịu, loại mùi có lẽ sinh ra từ máu trộn với xạ hương và gia vị.
“Rất kỳ lạ,” Tôi nói. “Chúng ta hãy nhìn con vật của cháu đi, Leo.”
Chúng tôi làm thế và thấy móng nó cũng tương tự.
“Cõ lẽ là hỗn hợp gốc để bảo vệ sừng,” Leo đưa ra giả thiết.
Tôi suy nghĩ một lúc, rồi một ý tưởng ghê sợ hiện ra trong đầu.
“Bác không muốn làm cháu sợ,” tôi nói, “nhưng bác nghĩ tốt hơn chúng ta nên đóng yên và lên đường thôi.”
“Tại sao?” cậu hỏi.
“Vì bác tin rằng vị Khan bất lương kia đã cho ngựa của chúng ta dùng thuốc.”
“Để làm gì? Để chúng đi khập khiễng sao?”
“Không, Leo, để chúng lưu lại mùi hương nồng đậm trên vùng đất khô cằn.”
Cậu tái mặt. “Bác muốn nói – bầy chó săn kia ư?”
Tôi gật đầu. Rồi không lãng phí thêm thời gian nói chuyện, chúng tôi đóng yên vội vàng. Ngay lúc vừa gắn chặt dây cuối cùng vào yên ngựa, tôi nghĩ có âm thanh mờ nhạt vang đến tai mình.
“Nghe đi,” tôi nói. Nó lại dội đến, giờ không nghi ngờ gì nữa, chắc chắn là nó. Đó là âm thanh chó sủa.
“Lạy chúa! Bầy chó tử thần,” Leo nói.
“Đúng,” tôi lặng lẽ trả lời, lúc khủng hoảng này các dây thần kinh của tôi nhưng cứng lại và nỗi sợ hãi rời bỏ tôi, “Khan, anh bạn của chúng ta muốn săn đuổi từ xa. Đó là lý do tại sao hắn ta cười.”
“Chúng ta làm gì đây?” Leo hỏi. “Bỏ ngựa lại sao?”
Tôi nhìn Ngọn Núi. Sườn núi gần nhất cũng còn cách hàng dặm trường.
“Đủ thời gian để làm điều đó nếu chúng ta nỗ lực hết sức. Chúng ta không thể đi bộ tới ngọn núi đó, sau khi vật ngã ngựa, bầy chó sẽ săn đuổi chúng ta theo dấu chân hoặc ánh mắt. Không, chàng trai, hãy cưỡi như cháu chưa bao giờ cưỡi trước đây.”
Chúng tôi nhảy lên yên ngựa, trước khi ghì cương, tôi quay lại nhìn phía sau. Nhớ rằng chúng tôi đã vượt qua con dốc dài dẫn tới một sườn núi cách đó khoảng ba dặm, làm biên giới cho vùng đồng bằng rộng lớn chúng tôi đang đứng. Giờ mặt trời đã chìm dần sau sườn núi đó, dù vẫn còn sáng, nhưng cả vùng đồng bằng này đã chìm trong bóng tối. Vì thế, trong khi không vật ở xa nào có thể nhìn thấy được trên đồng bằng, thì bất kỳ thứ gì vượt qua sườn núi đều có thể nhìn thấy được trong bầu không khí sáng rõ đó, ít ra với những người trong tầm nhìn.
Đây là những gì chúng tôi nhìn thấy. Trên sườn núi đổ ra vô số vật nhỏ xíu, đi cuối cùng là một người đàn ông ngồi trên con ngựa tuyệt đẹp phi nước đại, dẫn theo một con ngựa khác bằng dây cương.
“Cả đàn được thả ra rồi,” Leo hung hăng nói, “Rassen mang theo cả con ngựa thứ hai. Giờ cháu biết tại sao hắn muốn chúng ta bỏ giáo lại,” cậu thét lên khi chúng tôi bắt đầu phi nước đại, “cháu nghĩ trước khi mọi chuyện xong xuôi, Pháp Sư có lẽ đã chứng minh ông ta là nhà tiên tri thực sự.”
Chúng tôi vượt qua bóng tối, hướng về Ngọn Núi. Trong khi đi, tôi tính toán các cơ hội của chúng tôi. Ngựa vẫn tốt dù trên bất kỳ vùng đất nào, chúng vẫn còn khỏe và lanh lợi, dù chúng tôi đã cưỡi đi xa nhưng chúng tôi không quá o ép chúng, tình trạng của chúng vẫn hoàn hảo. Nhưng không chắc bầy chó săn tử thần kia còn đủ lanh lợi, vì đuổi theo chúng tôi suốt đêm do hắn nghĩ sẽ tóm được chúng tôi lúc đang ngủ, Rassen muốn mang chúng đi theo thật dễ dàng, đuổi theo truy tìm chúng tôi giữa đám nông dân và chỉ tìm ra dấu chân chúng tôi sau khi ngôi làng cuối cùng đã bị bỏ lại phía sau.
Hắn có hai con ngựa cưỡi, chúng tôi không biết vì sao – dù sau này biết rằng, hắn muốn làm việc độc ác này một mình và không bị ai nhìn thấy – có lẽ hắn cũng bị đám tùy tùng đuổi theo sau nhưng trễ hơn. Do đó, trừ khi chúng tôi tới được nơi hắn không dám đuổi theo trước cả hắn– đó là sườn của Ngọn Núi cách nhiều dặm phía xa kia, nếu không hắn sẽ xé xác chúng tôi. Khả năng may mắn còn lại là đàn chó mệt mỏi và không muốn theo đuổi cuộc săn lùng.
Tuy nhiên, điều này có lẽ hiếm khi xảy ra, vì chúng cực kỳ nhanh và khỏe, hoang dại tới mức một khi ngửi được mùi máu từ vó ngựa đạp xuống, chúng sẽ thà gục chết vì kiệt sức còn hơn từ bỏ con đường. Thật ra cả Khania và Simbri đã thường kể cho chúng tôi rất nhiều. Còn một cơ hội nữa – chúng bị mất mùi, nhưng xét về bản chất, điều đó lại không thể. Ngay cả một đám người Anh theo dấu cá trích đỏ mình dày không phạm sai lầm nào suốt nhiều giờ, vẫn còn dựa vào thứ khác mạnh hơn – một hỗn hợp mùi khéo léo đã từng nghe kể có thể lưu lại suốt nhiều ngày. Cơ hội cuối cùng. Nếu chúng tôi buộc phải bỏ lại lũ ngựa, người cưỡi chúng có thể trốn thoát, chúng tôi có thể tìm được chỗ nào đó để ẩn nấp trên vùng đồng bằng mênh mông này. Nếu không, chúng tôi đã bị phát hiện ngay khi vừa phát ra mùi, - không, tỉ lệ cược đang chống lại chúng tôi, nhưng chuyện vẫn thường xảy ra như thế trước đây đấy thôi; trong khi đó chúng tôi đã đi được ba dặm, có lẽ sẽ có trợ giúp từ Ngọn Núi, trợ giúp vô hình không đoán trước được. Vì vậy chúng tôi nghiến răng tăng tốc như mũi tên xuyên qua ánh sáng.
Chúng tôi rất nhanh thất bại, khi đó mặt trăng đã dấu mình phía sau dãy núi, màn đêm tối dần.
Bây giờ bầy chó đã sắp đuổi kịp chúng tôi, vì bóng tối với chúng không là gì, còn chúng tôi lại không dám cưỡi quá nhanh, do sợ ngựa vấp ngã. Sau đó, lần thứ hai kể từ lúc chúng tôi tới mảnh đất Kaloon, ngọn lửa đột ngột bùng lên từ trên Đỉnh Ngọn Núi. Chúng tôi đã nhìn thấy nó trước đây, nó dường như bắn ra khắp các vùng trời từ một ngọn hải đăng ánh sáng khổng lồ, tập trung xuyên qua vòng thòng lọng trên cột trụ đá, đêm nay cũng vậy, ánh sáng chạy lan ra xa trên đầu chúng tôi như cây giáo lửa. Nhưng hiện tại chúng tôi ở gần nó hơn, chúng tôi thấy mình tắm trong ánh sáng mềm mại, thần bí, như lân quang trên đại dương mùa hè, phản xạ xuống từ các đám mây và tảng đá khổng lồ hình cây cột mang thòng lọng, rồi bị khuyếch tán bởi dải tuyết bên dưới.
Tia sáng lóe lên siêu thực, mờ ảo đó đã giúp chúng tôi rất nhiều, thật ra nhờ nó chúng tôi đã vượt qua được, hơn nữa mặt đất ở đây rất thô, đầy hố do những con sóc đá marmot đào ra. Rồi trợ giúp đến từ Ngọn Núi lên đến cực độ khi trăng lại mọc ra nhanh chóng ngay khi ánh lửa trên ngọn núi lửa biến mất, bỏ lại phía sau không gì ngoài cột trụ quen thuộc đầy khói đỏ mờ mịt.
Thật tầm thường khi nói về giai điệu của bầy chó đang trong cuộc săn đuổi, nhưng tôi thường đã tự hỏi giai điệu đó sẽ nghe như thế nào trong tai con nai hay con cáo đang chạy trốn vì mạng sống của chúng.
Giờ khi ở vị trí con mồi, định mệnh đã giúp tôi giải đáp câu hỏi đó, và tôi tự tin khẳng định rằng các giống loài đời sau trên thế gian cũng không thể sản sinh ra thứ âm thanh huyên náo ghê tởm hơn. Nó đã đến gần chúng tôi, trong yên lặng hoang vắng của màn đêm, các hợp âm như địa ngục từ âm lượng của chúng nghe thật kinh khủng, tôi thậm chí còn có thể phân biệt được từng nốt riêng biệt được tạo ra, đặc biệt là một tiếng sủa sâu như chuông ngân.
Tôi nhớ đã nghe tiếng sủa này khi ngồi trong khoang thuyền trên sông và nhìn anh chàng cao quí khốn khổ bị xé tới chết vì tội yêu Khania. Khi cuộc săn đuổi đó diễn ra trước mặt chúng tôi, tôi quan sát thấy tiếng sủa đó phát ra từ cổ họng con chó săn dẫn đầu, con vật khổng lồ, màu đỏ, có một tai đen như than, răng trắng bóng như ngà voi, miệng như lò nướng. Tôi thậm chí còn biết tên nó, vì sau đó Khan, kẻ coi đó là thú vui đặc biệt, đã từng chỉ nó cho tôi. Hắn gọi nó là Thủ Lãnh, vì không con chó nào dám đánh lại nó, và bảo tôi nó có thể một mình giết chết một người được vũ trang.
Giờ tiếng sủa của nó đang cảnh báo chúng tôi, con Thủ Lãnh chỉ cách không quá nửa dặm nữa!
Ánh trăng lên cho phép chúng tôi phi nước đại nhanh hơn, đặc biệt khi đất ở đây mịn hơn, phủ lớp cỏ khô mỏng, sau hai giờ tiếp theo, chúng tôi đã vượt xa bầy chó. Đúng, chỉ hai giờ, hoặc có thể ít hơn, nhưng dường như đã qua hàng thế kỷ. Sườn Ngọn Núi giờ không quá mười dặm trước mặt, nhưng lũ ngựa cuối cùng đã kiệt sức. Chúng đã hào hiệp chở chúng tôi, những con vật khốn khổ, dù trong lượng chúng tôi không nhẹ, mà sức lực của chúng có giới hạn. Mồ hôi vã ra trên người chúng, bên sườn thở hổn hển như ống phổi, chúng loạng choạng và hầu như không thể đáp trả khi chúng tôi quất roi. Đi nước đại dần thành nước kiệu, và tôi nghĩ chúng sắp phải tới chỗ chết rồi.
Chúng tôi vượt qua gò đất nhô hơi cao, rải rác bụi cây và đá, dốc xuống chỗ kia, cách chúng tôi vài dặm, con sông chảy qua, tạo thành các sườn đồi khổng lồ cho Ngọn Núi. Chúng tôi đi một đoạn nhỏ xuống sườn dốc này, chúng tôi buộc phải rẽ để vượt qua hai hốc đá lên đỉnh. Ở đó, không quá ba trăm thước, chúng tôi nhìn thấy đàn chó. Giờ số lượng đã ít hơn; không nghi ngờ một số đã gục ngã trong cuộc săn đuổi, nhưng vẫn còn rất nhiều con. Hơn nữa, không xa phía sau chúng là Khan, dù con ngựa thứ hai của hắn đã biến mất, hoặc có lẽ chính là con hắn đang cưỡi và phi nước đại còn con đầu tiên đã dừng lại.
Lũ ngựa khốn khổ của chúng tôi cũng nhìn thấy chúng, cảnh đó như chắp thêm cho chúng đôi cánh, giờ chúng biết phải chạy vì mạng sống của chính chúng. Chúng tôi có thể nói, chúng đã rùng mình run rẩy mỗi khi tiếng sủa đến gần, không phải run rẩy vì phấn khích vui vẻ của cuộc săn đuổi, mà của nỗi kinh hoàng tột độ, như tôi thường thấy khi có tiếng hổ gầm lảng vảng gần trại ngựa. Trên đường đi, dù chúng khỏe mạnh và ổn định, cũng không hề thất bại cho đến khi chỉ còn bốn dặm nữa là tới con sông phía trước, khi chúng tôi đã có thể nghe thấy tiếng nước chảy.
Chậm rãi nhưng chắc chắn, bầy chó sắp vượt qua chúng tôi. Chúng tôi đi qua một lùm cây bụi, nhưng khi đi được cách đó khoảng vài trăm thước dọc theo bình nguyên thoáng đãng này, cảm thấy lũ ngựa đã hoàn toàn kiệt sức, tôi hét to với Leo – “Cưỡi vòng trở lại bụi cây và nấp ở đó đi.” Chúng tôi làm thế, chỉ vừa tới được đó và xuống ngựa thì lũ chó săn chạy qua. Đúng, chúng chỉ cách chúng tôi trong vòng năm mươi thước, lê bước theo dấu chân của chúng tôi, tất cả đều chạy im lặng, vì giờ chúng quá mệt mỏi khi phải lãng phí hơi thở trong vô vọng. “Chạy đi,” tôi nói với Leo ngay khi chúng vừa đi qua, “vì chúng sẽ quay lại đây theo mùi hương hiện nay,” chúng tôi lại đi theo chính đường thẳng bầy chó đã đi, nhờ đó không phải xóa dấu vết.
Khoảng một trăm thước nữa là một tảng đá, may mắn chúng tôi có thể tới được đó trước khi lũ chó quay lại theo dấu chân ngựa, nhờ vậy chúng sẽ không thấy chúng tôi. Chúng tôi dừng lại đó chờ chúng vòng lại, đàn chó chạy qua bụi cây và đi tiếp ra sau. Rồi chúng tôi lại chạy lên trước càng xa càng tốt. Liếc lại phía sau, tôi thấy hai con ngựa khốn khổ của chúng tôi đang nhô lên nhô xuống xa xa trên bình nguyên, thật tốt khi vẫn chạy trên cùng đường thẳng mà chúng tôi đã đi qua. Thế là xong, được giải thoát khỏi sức nặng của chúng tôi và bị nỗi sợ hãi thôi thúc, chúng vẫn phi nước đại và dẫn theo lũ chó săn, dù chúng tôi biết chuyện này sẽ diễn ra không quá lâu. Tôi cũng nhìn thấy Khan, chắc đoán chúng tôi đang đi như chúng tôi dự tính, hắn đang cố gọi lũ chó rời khỏi hai con ngựa, nhưng chưa có hiệu quả, vì chúng vẫn không từ bỏ con mồi chúng đang nhìn thấy.
Tất cả điều này hiện ra trong nháy mắt, nhưng tôi nhớ bức tranh đó thật tuyệt. Đỉnh Ngọn Núi hùng vĩ phủ đầy tuyết nhô lên cột khói phát sáng và ném bóng mình ra xa hàng dặm trên sa mạc mênh mông; bình nguyên lác đác vài tảng đá cùng những bụi cây xám xịt; những con ngựa đến hồi tận số đang tranh đấu cùng bầy chó săn điên cuồng; con đường lần theo dấu vết của bầy chó to lớn đang nhảy lên lũ ngựa thật nhỏ bé và cô độc giữa nơi bao la này, thân ảnh của Khan và con ngựa của hắn ta như chấm đen trong bọt biển. Phía trên, bầu trời xanh dịu mát, ánh trăng tròn tỏa sáng rực rỡ trong tĩnh mịch, không một chi tiết nào dù nhỏ nhất có thể thoát khỏi ánh sáng đó.
Giờ tuổi trẻ và cả tuổi trung niên đã lùi xa tôi, dù là một người đàn ông rất khỏe suốt bao năm qua, tôi cũng không thể chạy như xưa. Tôi cũng vô cùng mệt mỏi, các chi đã cứng lại và xây xát khi cưỡi ngựa quá lâu, vì vậy tôi đi từ từ, điều tệ hơn là tôi va chân trái vào đá và rất đau. Tôi van nài Leo cứ tiếp tục và bỏ lại tôi, vì chúng tôi nghĩ chỉ cần tới được con sông, mùi của chúng tôi có thể biến mất trong nước; dù sao chúng tôi cũng sẽ có cơ hội sống. Ngay sau đó, tôi cũng nghe thấy tiếng sủa của con Thủ Lĩnh, và chờ đợi màn tiếp theo. Phải, nó đã gần chúng tôi hơn. Khan đã tính toán tìm ra con đường chúng tôi đi. Hiện tại chúng tôi phải đối mặt với kết cục này.
“Đi đi! Đi đi!” tôi nói. “Bác có thể giữ chân chúng vài phút và cháu có thể thoát. Đây là cuộc tìm kiếm của cháu, không phải của bác. Ayesha đang đợi cháu, chứ không phải bác, và bác cũng mệt mỏi với cuộc đời rồi. Bác muốn chết và sẽ thực hiện điều đó.”
Rồi tôi thở hổn hển, sau đó, cùng với những lời đó, tôi tập tễnh bám vào cánh tay Leo. Nhưng cậu chỉ trả lời bằng giọng trầm thấp – “Yên lặng, nếu không chúng sẽ nghe thấy bác,” rồi cậu đi và kéo theo tôi.
Giờ chúng tôi đã rất gần mặt nước, vì có thể nhìn thấy nó lấp lánh phía dưới, ôi! Tôi đã khao khát uống thật nhiều thế nào. Tôi nhớ đó là mong muốn trên hết trong đầu tôi, uống, và uống. Nhưng bầy chó săn đã gần chúng tôi hơn, gần tới mức có thể nghe được tiếng lộp cộp chân chúng va trên nền đất khô quyện với tiếng vó ngựa phi nước đại của Khan. Chúng tôi tới chỗ mấy tảng đá hơi nhô lên, ngay bên bờ sông, đột nhiên Leo nói – “Vô dụng, chúng ta không thể làm được. Dừng lại thôi và chúng ta hãy nhìn xem chuyện gì xảy ra tiếp theo.”
Vì thế chúng tôi lăn mình xuống, dựa lưng lên tảng đá. Đằng kia, khoảng một trăm thước, là bầy chó săn tử thần, nhưng tạ ơn Thượng Đế! Chỉ còn ba con. Số còn lại vẫn đang đuổi theo lũ ngựa phi như bay, chắc chắn cuối cùng chúng sẽ tóm được lũ ngựa thôi, dù chạy xa bao nhiêu đi nữa cũng phải dừng bước bị chúng nhai nuốt. Chúng đã ra khỏi cuộc chiến. Chỉ còn ba con, và Khan, thân ảnh điên cuồng phi nước đại cùng chúng; nhưng ba con thú đen đỏ này, có con Thủ Lĩnh, còn hai con kia cũng to lớn hung hăng không kém.
“Có lẽ tệ hơn rồi,” Leo nói. “Nếu bác cố giải quyết lũ chó, cháu sẽ cố hết sức với tên Khan kia,” rồi cậu cúi xuống xoa tay vào đá, vì tay đã bị ướt nước, tôi cũng làm theo. Sau đó chúng tôi nắm chặt giáo bên tay phải và dao tay trái, rồi chờ đợi.
Giờ lũ chó đã thấy chúng tôi và lao vào, gầm gừ sủa lên ghê sợ. Chúng lao tới nhanh chóng, tôi không xấu hổ nói rằng mình vô cùng khiếp sợ, vì lũ súc vật đó như bầy sư tử, thậm chí còn hung hãn hơn. Một con nhỏ nhất trong đó vượt lên hai con kia, nhảy lên cao nhắm thẳng cổ họng tôi.
Tôi không biết tại sao và làm thế nào, nhưng dưới sự thúc đẩy của hoàn cảnh lúc đó, tôi cũng nhảy lên lao vào nó, vì thế toàn bộ trọng lượng của nó đều rơi trên mũi giáo của tôi. Ngọn giáo đâm vào giữa chân trước của nó và thật sốc khi tôi bị đẩy ngược lại. Nhưng khi hạ chân xuống, tôi thấy con chó lăn trên mặt đất trước mặt tôi và bị trục giáo đang xoắn trong tay tôi nghiến qua.
Hai con khác nhảy vào Leo, nhưng không chộp được cậu, dù một con đã xé đi một mảnh lớn trên áo dài của cậu. Khá ngốc nghếch, cậu phi cây giáo vào nó nhưng trượt, vì thanh thép đó chỉ sượt dưới bụng nó và cắm sâu vào đất. Hai con chó đó không quay lại ngay lập tức. Có lẽ cảnh đồng đội chết làm chúng ngừng lại. Dù sao, chúng đứng gầm gữ ở một khoảng cách tương đối, dù giáo không còn nhưng đủ an toàn với chúng tôi.
Hiện tại Khan đang cưỡi trên ngựa và trừng trừng nhìn chúng tôi, gương mặt anh ta như quỉ dữ. Tôi hy vọng hắn sợ tấn công, nhưng lúc nhìn vào mắt hắn, tôi biết điều đó là không thể. Hắn hoàn toàn phát điên vì căm ghét, ghen tuông, và phấn kích kéo dài của cuộc săn đuổi, muốn đi giết hoặc bị giết. Trượt khỏi lưng ngựa, hắn rút một thanh kiếm ngắn – vì hắn đã mất cây giáo hoặc không mang gì theo – rồi huýt sáo với hai con chó, lấy thanh gươm chỉ vào tôi. Tôi thấy chúng nhảy lên và tôi thấy hắn chạy lại chỗ Leo, sau đó ai có thể kể được chính xác chuyện gì đã xảy ra đây?
Con dao của tôi đã cắm vào cơ thể của một con chó – nó lăn ra đất và nằm đó – vì chân sau của nó đã bị tê liệt, gào thét, gầm rít và cắn vào tôi. Còn con kia, con quái vật có tên Thủ Lĩnh, ngoặm vào dưới khuỷu tay phải của tôi, rồi tôi cảm thấy xương mình gãy ra trong quai hàm hầm hố của nó, đau đớn khiến tôi đánh rơi con dao, thế là tôi không còn vũ khí. Con vật kéo tôi khỏi tảng đá và bắt đầu làm tôi rung lắc, dù tôi đá vào bụng nó bằng tất cả sức mạnh. Tôi gục xuống và thật may mắn, tay trái tôi chạm vào viên đá bằng quả cam lớn, tôi nắm chặt lấy. Tôi lại đứng dậy và dùng viên đá đập vào hộp sọ của nó, nhưng nó vẫn không từ bỏ, điều này lại tốt với tôi, vì cú ngoặm tiếp theo có thể vào cổ họng tôi.
Chúng tôi xoắn vào nhau tới lui, người và chó. Có lúc tôi nghĩ đã thấy Leo và Khan cuộn nhau cùng lăn lộn trên mặt đất; lúc khác lại thấy hắn ta, Khan, đang ngồi trên hòn đá nhìn tôi, khiến tôi nghĩ hắn ta đã giết Leo và đang quan sát con chó hành hạ tôi tới chết.
Sau đó mọi thứ đều trở nên đen tối, có gì đó nhảy ra phía trước và tôi thấy con chó khổng lồ bị nhấc khỏi mặt đất. Hàm nó bạnh ra, cánh tay tôi được giải thoát và rơi bên cạnh. Đúng! Con vật đang xoáy tròn trong không khí. Leo giữ hai chân sau của nó và quay nó thành vòng tròn liên tục bằng tất cả sức mạnh tuyệt vời của cậu.
Uỵch!
Cậu đã làm đầu nó đập vào tảng đá, nó ngã xuống và nằm im, thành một đống bùi nhùi đen đỏ. Thật kỳ lạ, tôi không ngất đi; tôi cho rằng sự đau đớn và cú sốc thần kinh giữ tôi tỉnh táo, vì tôi còn nghe thấy Leo nói bằng giọng rất bình tĩnh giữa hơi thở hổn hển của cậu – “Phải, thế là xong, cháu nghĩ cháu đã hoàn thành lời tiên tri của Pháp Sư. Nhìn lại cho chắc chắn đi.”
Sau đó cậu đưa tôi tới một tảng đá, nằm ngửa trên đó là Khan, vẫn sống nhưng không thể cử động tay chân. Kẻ điên cuồng đó đã hoàn toàn mất mặt, hắn nhìn chúng tôi bằng đôi mắt u sầu, giống như mắt của đứa trẻ bệnh tật.
“Các ngươi là những người can đảm,” hắn chậm rãi nói, “cũng rất khỏe, đã giết được mấy con chó săn kia và làm gãy lưng ta. Thế là chuyện này đã xảy ra giống như tiên đoán của con Chuột già. Cuối cùng, ta săn đuổi Atene, chứ không phải ngươi, dù giờ nàng sống để trả thù ta, vì lợi ích của nàng, chứ không phải của ngươi. Râu Vàng, nàng cũng đang săn đuổi ngươi và cùng với bầy chó săn tử thần còn kinh khủng hơn những con chó kia, đó là những đam mê ngang trái của nàng. Tha thứ cho ta và bay nhanh tới Ngọn Núi đi, Râu Vàng, ta sẽ đến đó trước ngươi, vì ở đó cư ngụ một kẻ còn mạnh hơn Atene.”
Rồi quai hàm há ra và hắn đã chết.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...