Thứ Hai, 6 tháng 7, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 8



Chương 8: Bầy chó săn Tử Thần

Có lẽ đã mười giờ sáng hôm sau, hoặc hơn một chút, khi Pháp Sư Simbri bước vào phòng tôi và hỏi tôi ngủ thế nào.
“Như một khúc gỗ,” tôi trả lời, “như một khúc gỗ. Một người bị đánh thuốc cũng không thể ngủ ngon hơn được.”
“Thật ra, anh bạn Holly ạ, trông anh rất mệt mỏi.”
“Những giấc mơ làm phiền tôi đôi chút,” tôi trả lời. “Tôi bị dằn vặt từ những chuyện thế này. Nhưng chắc chắn nhìn mặt ngài, Simbri thân mến, ngài đúng là đã hoàn toàn không thể ngủ được, vì tôi chưa bao giờ thấy ngài có vẻ mệt mỏi đến thế này.”
“Ta đang rất mệt mỏi,” ông ta bảo và thở dài. “Đêm qua ta dành thời gian làm việc – quan sát trên Những Cánh Cổng.”
“Những cánh cổng nào?” tôi hỏi. “Những cánh cổng chúng tôi bước qua để vào vương quốc này ư, nếu vậy, tôi cũng muốn quan sát chúng hơn là du ngoạn qua chúng.”
“Những Cánh Cổng của Quá Khứ và Tương Lai. Đúng, ngươi đã đi qua hai cánh cổng, nếu ngươi muốn nghĩ vậy; vì ngươi đã không đi ra khỏi Quá Khứ kỳ diệu để hướng tới một Tương Lai ngươi không thể đoán được, đúng không?”
“Nhưng cả hai ngài đều rất quan tâm,” tôi giả thiết.
“Có lẽ thế,” ông ta trả lời, rồi nói thêm, “Ta tới để nói với ngươi rằng, trong vòng một giờ nữa, ngươi sẽ khởi hành tới thành phố, nơi Khania đã tới để chuẩn bị cho ngươi.”
“Vâng; ngài chỉ kể cho tôi cô ấy đã đi vài ngày trước. Được rồi, tôi đã khỏe lại và sẵn sàng đi bộ, nhưng còn con trai tôi thì sao?”
“Anh ta đang bình phục, anh ta đang bình phục. Nhưng ngươi sẽ được chính mắt nhìn thấy anh ta thôi. Đó là ý muốn của Khania. Nô lệ đang mang áo choàng cho ngươi rồi kìa, ta sẽ để chúng lại cho ngươi.”
Vì vậy, với sự giúp đỡ của họ, tôi tự mặc quần áo, thoạt nhìn khá tốt, áo trong bằng vải lanh sạch sẽ, quần dài và vest bằng len rộng rãi, cuối cùng là áo khoác từ lông lạc đà nhuộm đen mặc rất thoải mái, nhìn bề ngoài không khác gì một cái áo khoác dài. Một chiếc mũ phẳng cùng chất liệu và đôi ủng làm từ da chưa thuộc hoàn thành bộ trang phục của tôi.
Tôi đã sẵn sàng khi mấy người hầu da vàng vô cùng cung kính đỡ tôi trên tay và đưa tôi theo các lối đi xuống cầu thang của ngôi nhà Cánh Cổng để ra cửa chính. Nơi đây, trong niềm vui sướng tột cùng, tôi thấy Leo, trông nhợt nhạt và khó khăn, nhưng ngược lại đã khỏe mạnh như tôi dự đoán sau trận ốm. Cậu mặc trang phục giống tôi, nhưng quần áo của cậu có chất lượng tốt hơn, chiếc áo choàng màu trắng có thêm mũ trùm đầu, tôi cho rằng để bảo vệ vết thương trên đầu cậu khỏi giá lạnh và mặt trời. Chiếc áo trắng kia tôi nghĩ rất phù hợp với cậu, vì nhờ nó, không có gì trở nên kỳ cục hay quá vượt trội. Cậu nhảy ngay tới chỗ tôi và nắm lấy tay tôi, hỏi tôi thế nào và tôi đã bị dấu đi đâu, chào đón tất cả như tôi nhìn thấy, là vẻ ấm áp không hề mất đi trên người Simbri đang đứng bên cạnh.
Tôi trả lời, giờ đã đủ khỏe để chúng tôi lại bên nhau, còn phần còn lại tôi muốn kể cho cậu nghe sau.
Rồi họ mang chúng tôi lên kiệu, mỗi kiệu có hai con ngựa, một con đi trước và con kia đi sau giữa hai càng xe dài. Chúng tôi ngồi trong đó, theo sự ra hiệu của Simbri, những người nô lệ thúc cương ngựa và chúng tôi lên đường, bỏ lại phía sau ngôi nhà Cánh Cổng cũ kĩ ảm đạm mà chúng tôi là những người lạ đầu tiên tới đó suốt nhiều thế hệ qua.
Sau khoảng hơn một dặm, con đường chạy xuống hẻm núi đá quanh co, tới khi đột ngột rẽ ngoặt, và đất nước Kaloon nằm trải dài trước mặt chúng tôi. Dưới chân chúng tôi là một con sông, có lẽ chính là con sông chúng tôi gặp trong vực thẳm, phủ đầy tuyết trên núi, là khởi nguồn của nó. Chỗ này nó chảy rất nhanh, nhưng trên những vùng đất phù sa mênh mông bên dưới nó lại trở thành dòng suối rộng hiền hòa uốn khúc giữa vùng đồng bằng vô hạn tới khi biến mất trong màu xanh lá phía xa xa.
Nhưng ở phía bắc, vùng rộng lớn mượt mà đơn điệu này bị phá vỡ bởi Ngọn Núi đã chỉ dẫn chúng tôi từ xa về Cung Điện Lửa. Khoảng cách từ chúng tôi tới đó rất lớn, hơn một nghìn dặm, tôi có thể nói đó là khung cảnh uy nghi nhất trong bầu không gian thoáng đãng này. Nhiều dặm quanh chân núi trên mặt đất mọc lên những ngọn đồi nhỏ màu nâu gồ ghề, chúng hướng tới chính Ngọn Núi thần thánh, một điểm màu trắng rực rỡ cao hai mươi nghìn feet giữa trời.
Đúng, trên đó nơi miệng núi lửa một cây cột trụ khổng lồ đứng thẳng, có một vòng đá khổng lồ nữa xuyên qua, nằm trong bóng tối, dứt khoát chống lại bầu trời xanh bên ngoài và tràng tuyết chói mắt bên dưới.
Chúng tôi nhìn chằm chằm nó đầy sợ hãi, ngọn hải đăng mang hy vọng này chúng tôi biết, có lẽ là một tượng đài của họ, thậm chí có cảm giác định mệnh của chúng tôi muốn tự xướng lên đằng kia. Tôi nhớ tất cả mọi người đi cùng chúng tôi đều thể hiện sự cung kính bằng cách cúi đầu khi họ nhìn thấy khung cảnh đỉnh núi kia, rồi đặt ngón trỏ của tay phải bắt chéo với ngón trỏ của tay trái, một biểu tượng sau này chúng tôi biết được, dùng để ngăn chặn ảnh hưởng ma quái của nó. Đúng, thậm chí Simbri cũng cúi đầu, uốn mình trước phong tục mê tín di truyền mà tôi hiếm khi nghi ngờ ông ta.
“Ngài cũng từng tới Ngọn Núi?” Leo hỏi ông ta.
Simbri lắc đầu và lảng tránh trả lời.
“Người dân của Đồng Bằng không được đặt chân tới Ngọn Núi. Giữa các sườn núi của nó có con sông tưới nước, hàng đám người hoang dã và dũng cảm sinh sống, chúng ta thường xảy ra chiến tranh với chúng; vì khi chúng đói, chúng sẽ tấn công cướp bóc gia súc và mùa màng của chúng ta. Hơn nữa, ở đó, khi Ngọn Núi hoạt động, chảy ra hàng suối đá nóng chảy đỏ rực, tro nóng lại rơi xuống và giết chết người đi qua.”
“Đám tro đó có từng rơi xuống đất nước của ngài không?” Leo hỏi.
“Chúng đã từng rơi xuống khi Linh Hồn Ngọn Núi tức giận, đó là lý do tại sao chúng ta sợ bà ấy.”
“Ai là Linh Hồn đó?” Leo háo hức nói.
“Ta không biết,” ông ta không kiên nhẫn trả lời. “Con người có thể thấy nhìn thấy linh hồn sao?”
“Ngài trông như thể ngài có lẽ đã từng thấy cách đây không lâu lắm,” Leo đáp lại, dán mắt nhìn gương mặt như sáp và đôi mắt khó chịu của ông già. Vì giờ đây vẻ bình tĩnh trên lớp sừng đã biến mất khỏi con mắt của Simbri, như thể có gì đó đã ám ảnh ông ấy.
“Ngươi làm ta thấy quá vinh dự rồi, chúa tể ạ,” ông ta đáp; “trình độ và khả năng của ta chưa đạt được xa đến vậy. Nhưng nhìn kìa, kia là bãi đỗ, có thuyền đợi chúng ta, vì phần còn lại của hành trình là trên nước.”
Những con thuyền này rất rộng rãi và thoải mái, có vòm và đuôi phẳng, đôi khi buồm được kéo lên, chúng được thiết kế để kéo, chứ không phải được chèo bằng mái. Leo và tôi đi vào chỗ rộng nhất, vui sướng vì được bỏ lại một mình, trừ người cầm lái.
Phía sau chúng tôi là con thuyền khác, nơi của đám người phục vụ và nô lệ, vài người như binh lính, vì họ mang cung và gươm. Giờ đám ngựa được tháo ra khỏi kiệu, kiệu được đóng gói lại, chằng dây da xanh buộc chặt vào những vòng sắt bên mạn thuyền, những con vật được bọc yên được gắn vào hệ thống dây đợ để lai kéo thuyền. Sau đó chúng tôi lên đường, đám ngựa được bố trí hai con một song song trên mỗi thuyền nhỏ, đi nước kiệu dọc theo đường kéo làm sẵn bằng các cầu gỗ thường được trang bị ở bất kỳ kênh đào hay nhánh sông nào đổ vào sông chính.
“Cảm ơn Thượng Đế,” Leo nói, “cuối cùng chúng ta lại bên nhau! Bác có nhớ không, bác Horace, khi chúng ta vào vùng đất Kôr cũng thế, trên một con thuyền? Câu chuyện lại lặp lại.”
“Bác hoàn toàn tin rồi,” tôi trả lời. “Bác có thể tin bất kỳ điều gì. Leo, bác nói này, chúng ta đang là con muỗi mắc trong cái mạng nhện, Khania kia là con nhện và Simbri, vị Pháp Sư là người bảo vệ cái mạng. Nhưng hãy kể cho bác tất cả những gì cháu nhớ được về mọi chuyện xảy ra với cháu, nhanh lên, vì bác không biết họ bỏ lại chúng ta một mình bao lâu.”
“Vâng,” cậu nói, “tất nhiên cháu nhớ chúng ta tới được Cánh Cổng sau khi người phụ nữ và ông già kia kéo chúng ta khỏi con sông, và bác Horace, nói về nhện lại nhắc cháu nhớ tới lúc bị treo trên đầu sợi dây bằng da con bò. Không phải cháu cần nhớ lại, mà vì cháu hầu như không thể quên được nó. Bác có biết không, cháu cắt sợi dây vì cảm thấy mình sắp phát điên, và mong chết trong tỉnh táo. Chuyện gì xảy ra với bác? Bác đã trượt xuống à?”
“Không; bác nhảy theo cháu. Có lẽ tốt nhất chúng ta nên chết cùng nhau, vì thế chúng ta có thể bắt đầu lại cùng nhau.”
“Ông bác Horace già can đảm của cháu!” cậu trìu mến nói, nước mắt bắt đầu rơi ra từ đôi mắt xám của cậu.
“Thật thú vị, nhưng không quá lâu,” cậu trả lời màu mè. “Cháu đi vào giấc ngủ, và khi tỉnh dậy, cháu thấy một phụ nữ xinh đẹp đang đứng nghiêng trước mặt, bác Horace – thoạt tiên cháu nghĩ đó chính là – bác biết là ai rồi mà, và nàng hôn cháu; nhưng có lẽ tất cả chỉ là một giấc mơ.”
“Đó không phải là mơ,” tôi trả lời. “Bác đã nhìn thấy chuyện này.”
“Cháu rất tiếc khi nghe vậy – rất tiếc. Dù sao đó là một phụ nữ đẹp – Khania – vì sau đó cháu gặp nàng nhiều lần, và nói chuyện với nàng bằng tiếng Hy Lạp hiện đại ở mức tốt nhất của mình – dù sao, Ayesha cũng biết tiếng Hy Lạp cổ mà, thật kỳ lạ.”
“Bà ấy biết vài ngôn ngữ cổ, người khác cũng vậy. Tiếp đi.”
“Vâng, nàng chăm sóc cháu rất tốt, nhưng theo cháu biết, tận tới đêm qua, không gì cảm động hơn thế, cháu đủ cảm xúc để từ chối nói về quá khứ đầy sự kiện của chúng ta. Cháu giả vờ không hiểu, nói rằng chúng ta là những nhà thám hiểm, v.v… và cố hỏi nàng chúng ta đang ở đâu, vì cháu quên mất đã nói thấy bác biến mất. Cháu nghĩ nàng bắt đầu tức giận với cháu, vì nàng muốn biết gì đó, cháu đoán vậy, cháu muốn một vụ giao dịch có hời. Nhưng cháu không nhận được gì ngoài việc biết nàng là Khania – một người quyền lực. Không nghi ngờ về điều đó, vì khi một nô lệ hay người hầu đi vào ngắt lời nàng trong lúc nàng đang cố vẽ ra các sự kiện về cháu, nàng ta đã gọi người ném anh ta khỏi cửa sổ, anh ta chỉ tự cứu mình bằng cách chạy thật nhanh xuống cầu thang.”
“Phải rồi, cháu có thể không chú ý gì tới nàng ta, nhưng nàng có lẽ hơi chú ý tới cháu, đó là tại sao nàng quan tâm tới một khách lạ dịu dàng đến vậy, cháu không biết nữa – trừ khi, trừ khi – ôi, nàng ta là ai, bác Horace?”
“Nếu cháu tiếp tục, bác sẽ nói cho cháu những gì bác nghĩ hiện giờ. Nghe một câu chuyện tại một thời điểm thôi.”
“Rất tốt. Cháu hoàn toàn khỏe lại, nói tương đối thôi, tới đỉnh điểm là đêm qua, khiến cháu lại buồn. Sau khi vị tiên tri già, ngài Simbri, mang cho cháu bữa tối, ngay lúc cháu nghĩ chuẩn bị đi ngủ, Khania đi vào một mình, mặc như một nữ hoàng. Cháu có thể nói với bác rằng nàng ấy thực sự trông rất cao quí, như công chúa trong truyện thần tiên, có vương miện, có mái tóc đen nhánh như hạt dẻ tuôn chảy quanh người.”
“Đúng vậy, bác Horace, sau đó nàng bắt đầu làm tình với cháu một cách tao nhã, hoặc cháu nghĩ vậy, nàng nhìn cháu và thở dài, nói rằng chúng cháu đã biết nhau trong quá khứ - quả thực cháu tập trung rất tốt – nàng ám chỉ mong muốn chúng cháu tiếp tục tình bạn. Cháu ngăn nàng bằng mọi cách có thể; nhưng một người đàn ông đều sẽ cảm thấy bất lực khi nằm trên giường trước một phụ nữ vô cùng xinh đẹp và rất cao quí đứng trước mặt đang ngợi ca anh ta.”
“Cuối cùng, để lái đi câu hỏi của nàng và chấm dứt chuyện này, cháu nói với nàng ấy rằng cháu đang tìm vợ mình, người cháu đã để mất, vì dù sao cuối cùng, Ayesha cũng chính là vợ cháu mà, bác Horace. Nàng ấy mỉm cười đề nghị cháu không cần nhìn đâu xa; nói ngắn gọn, người vợ đã mất kia đã được tìm thấy rồi – chính là nàng ấy, người đã tới cứu cháu thoát chết trên con sông. Quả thực, nàng ấy tin tưởng như vậy và bảo cháu chắc chắn sẽ tin dần dần rằng, nàng không phải chỉ đang vui đùa, cháu cũng cảm thấy rất muốn tin nàng, vì cuối cùng, Ayesha bây giờ có lẽ đã biến đổi.”
“Sau đó vào đoạn cuối trong mưu kế của mình, cháu nhớ ra lọn tóc – những gì còn lại của chúng ta về Ayesha,” và Leo chạm tay vào ngực. “Cháu lấy nó ra và so sánh nó với tóc của Khania, lúc đó nàng ta trở nên hoàn toàn khác biệt, ghen tuông, cháu nghĩ vậy, vì tóc đó dài hơn của nàng ta và hoàn toàn không giống.”
“Bác Horace, cháu kể bác nghe này, cái chạm vào lọn tóc đó – vì nàng ta đã chạm vào nó – dường như khiến nàng ấy hành động đúng bản chất tự nhiên của nàng ta hơn, như axit nitric với vàng giả vậy. Nó biến thành đen; tất cả những gì tồi tệ của nàng ta hiện ra. Trong cơn giận dữ, tiếng nàng ta thật thô tục; đúng, nàng ta như một kẻ thô tục, và bác biết đấy, khi Ayesha giận dữ, nàng có thể độc ác như chúng ta đã biết, chắc chắn rất khủng khiếp, nhưng nàng không bao giờ thô tục, thậm chí còn chói sáng hơn nữa.”
“Phải, từ lúc đó cháu chắc chắn rằng Khania này có thể là bất cứ ai, nhưng nàng ta không có gì với Ayesha; họ khác nhau đến mức họ không thể là cùng một người – giống như lọn tóc vậy. Vì thế cháu im lặng nằm đó nghe nàng ta nói, dụ dỗ, đe dọa, cuối cùng nàng ta đứng dậy đi ra khỏi phòng, cháu nghe tiếng khóa cửa phía sau. Đó là tất cả những gì cháu kể với bác, hoàn toàn đầy đủ, vì cháu không nghĩ Khania đang làm bộ với cháu, nói thật cháu sợ nàng ấy.”
“Đúng,” tôi nói, “thế là đủ rồi. Giờ hãy ngồi đây, đừng đi đâu hay nói to, vì người cầm lái có thể là một gián điệp, và bác có thể cảm nhận được ánh mắt của ông già Simbri vẫn dán lên lưng chúng ta. Cũng đừng ngắt lời, vì thời gian ở riêng bên nhau của chúng ta có thể rất ngắn.”
Rồi tôi ngồi kể cho cậu ấy mọi thứ tôi biết, trong khi cậu ấy lắng nghe đầy kinh ngạc.
“Lạy Chúa! Ôi câu chuyện là thế sao,” cậu thốt lên khi tôi kết thúc. “Giờ đây vị Hesea gửi bức thư từ Ngọn Núi kia là ai? Và Khania là ai đây?”
“Bản năng nói với cháu nàng là ai, Leo?”
“Amenartas?” cậu thì thào nghi ngờ. “Người phụ nữ đã viết trên mảnh gốm, người mà Ayesha bảo đó là công chúa Ai Cập – vợ cháu hai nghìn năm trước ư? Amenartas tái sinh ư?”
Tôi gật đầu. “Bác nghĩ vậy. Tại sao không? Như bác đã nói đi nói lại với cháu, bác luôn chắc chắn một điều, nếu chúng ta được phép xem phần tiếp của vở kịch, chúng ta sẽ tìm thấy Amenartas, hay thực ra là linh hồn của Amenartas, đóng vai chính trong đó; cháu nhớ ra bác đã viết vậy trong bản thảo trước đấy thôi.”
“Nếu nhà sư già theo Phật giáo Kou-en có thể nhớ được quá khứ của mình, như hàng nghìn người trong số họ thề rằng có chuyện đó, ông ấy chắc chắn danh tính mình vẫn tiếp tục từ quá khứ, tại sao người phụ nữ này không thể chứ, với chuyện nan giải này, trợ giúp nàng ấy lại là trò ma thuật của Pháp Sư, bác của nàng, hoàn toàn có thể triệu hồi lại quá khứ của nàng ấy đúng không?”
“Leo, tại sao nàng ta vẫn không chịu nổi ảnh hưởng nó tác động lên mình, khi không hề có sai lầm hay đã tự tìm kiếm theo cách riêng của mình rồi, mà vẫn điên cuồng rơi vào tình yêu từ cái nhìn đầu tiên với người đàn ông nàng ta vẫn luôn từng yêu?”
“Lập luận thế là đủ rồi, bác Horace, nếu vậy cháu thấy tiếc thương cho Khania, người không có nhiều lựa chọn trong vấn đề này – đã bị buộc phải làm thế, có thể nói là như vậy.”
“Đúng, nhưng lúc đó bàn chân cháu lại rơi vào một cái bẫy khác. Hãy tự bảo vệ mình, Leo, hãy tự bảo vệ mình. Bác tin đây là thử thách dành cho cháu, không nghi ngờ gì, sẽ còn nhiều thứ theo sau. Nhưng bác tin, với cháu, chết sẽ tốt hơn làm ra bất kì sai lầm nào.”
“Cháu hiểu rõ điều đó,” cậu trả lời; “và bác đừng sợ. Khania có thể là bất kì cái gì với cháu trong quá khứ - nếu thực sự đúng vậy – chuyện này thế là xong. Cháu tìm kiếm Ayesha, duy nhất một mình Ayesha thôi, và thần Vệ Nữ sẽ không dụ dỗ cháu rời khỏi nàng.”
Sau đó trong hy vọng và sợ hãi, chúng tôi bắt đầu nói về Hesea bí ẩn, người đã gửi bức thư từ Ngọn Núi, ra lệnh cho Pháp Sư Simbri gặp chúng tôi: vị nữ tu sĩ hay linh hồn mà ông ta bảo là ‘hùng mạnh do tuổi tác’ và có ‘những người phục phụ trên mặt đất và trong không gian’.
Hiện giờ, mũi tàu đã cập vào bờ sông, nhìn quanh tôi thấy Simbri đã rời thuyền và chuẩn bị tiến tới chỗ chúng tôi. Ông ta đến ngồi nghiêm túc trên một chỗ trước mặt chúng tôi, giải thích rằng màn đêm sắp buông xuống, ông ấy muốn đưa chúng tôi theo đoàn để bảo vệ trong đêm tối.
“Và để xem chừng khiến chúng ta không trốn được khỏi ông ta,” Leo lẩm bẩm.
Rồi những người điều khiển quất ngựa đi ra, chúng tôi lại tiếp tục.
“Hãy nhìn phía sau các ngươi,” Simbri nói, “các ngươi sẽ thấy thành phố nơi các ngươi ngủ đêm nay.”
Chúng tôi quay lại, nơi đó, cách khoảng mười dặm, nhận ra một thị trấn mái bằng, không lớn lắm. Vị trí của nó khá đẹp, vì nằm trên một đảo lớn cảo hàng trăm feet so với bề mặt đồng bằng, con sông chia làm hai nhánh dưới chân nó, sau đó chúng tôi phát hiện ra chúng lại hợp lại phía xa.
Gò đất mênh mông nơi thành phố này được xây dựng trên đó có vẻ đã qua bàn tay con người tu tạo, nhưng rất có thể đất hình thành nên nó bị rửa sạch nhiều niên đại đã qua trong lũ lụt, do đó lớp bùn đọng lại ở trung tâm con sông rộng tăng dần thành cái đảo hiện tại. Ngoại trừ một dinh thự có cột cao vút lên nằm trên đỉnh thành phố và được bao quanh bởi những khu vườn, chúng tôi không nhìn thấy tòa nhà lớn nào nơi này.
“Thành phố này tên là gì?” Leo hỏi Simbri.
“Kaloon,” ông ta trả lời, “mảnh đất này vẫn mang tên đó khi cha ông ta, những kẻ chinh phạt, hành quân theo dãy núi tới đây hơn hai nghìn năm trước. Họ vẫn giữ cái tên cổ xưa, nhưng lãnh thổ của Ngọn Núi họ gọi là Hes, vì họ bảo vòng thòng lọng trên đỉnh kia là biểu tượng của nữ thần mang tên đó, cũng là người vị tướng của họ tôn thờ.”
“Các nữ tu sĩ vẫn sống ở đó chứ?” Leo hỏi, cố gắng lần lượt tìm ra sự thật.
“Đúng, và cả các nam tu sĩ nữa. Học Viện của họ do những người chinh phạt xây dựng lên, những kẻ đã chinh phục toàn bộ vùng đất. Hay đúng hơn, nó là chỗ Học Viện dành cho những người đã tạo ra Nơi Thiêng Liêng và Đền Thờ, ở đây vị thánh của nó là lửa trong Ngọn Núi, chính là của dân tộc Kaloon ngày nay.”
 “Thế giờ ai được thờ ở đó?”
“Nữ thần Hes, người ta nói vậy; nhưng chúng ta biết rất ít về chuyện này; vì chúng ta và cư dân Ngọn Núi đều đã là kẻ thù nhiều thế hệ rồi. Chúng giết chúng ta và chúng ta giết chúng, vì người ta ghen tị với điện thờ, nơi không ai được phép tới thăm để tham khảo ý kiến vị Tiên Tri, để cầu nguyện hay để dâng hiến mỗi khi tai họa, mỗi khi một vị Khan chết đi, hay khi nguồn nước của con sông cạn dần và mùa màng thất bát, khi tro bụi rơi xuống và động đất rung chuyển vùng đất, hoặc khi dịch bệnh lớn tràn tới. Dù sao, trừ khi chúng tấn công, nếu không chúng ta đều để bọn chúng cô độc ở đó, mọi người dân đều được huấn luyện cách dùng vũ khí, có thể đánh nhau nếu cần, chúng ta là những người yêu hòa bình, chỉ nuôi trồng trên mảnh đất này từ thế hệ này qua thế hệ khác, rồi trở nên giàu có. Hãy nhìn quanh ngươi đi. Khung cảnh không thanh bình sao?”
Chúng tôi đứng trên thuyền và nhìn chăm chú khung cảnh đồng quê phía trước. Nơi nơi đều xuất hiện những đàn gia súc đang ăn cỏ trên đồng, từng bầy la ngựa, hay những cánh đồng vuông vắn trồng ngô và in rõ cây cối. Dân làng cũng mặc áo dài xám, lao động trên mảnh đất, cực nhọc một ngày kết thúc, đưa đàn gia súc về nhà theo các con đường bên bờ đê thủy lợi, hướng về thôn xóm nằm trên những gò đất nhô lên giữa những lùm cây dương cao cao.
Dáng vẻ ngược lại với sa mạc khô cằn và núi non ghê sợ chúng tôi lang thang suốt bao năm qua, đất nước này hiện ra trong mắt chúng tôi thật duyên dáng, quả thật nhìn ánh đỏ của ráng chiều chìm dần ngày xuân, đẹp như vẻ đẹp của Hà Lan. Ai cũng có thể hiểu được chủ đất và nông dân ở đây đều là những người thanh bình, của cải thật cám dỗ với những bộ lạc hoang dã đói khát trên dãy núi.
Cũng thật dễ đoán khi những người sống sót trong quân đoàn của Alexander dưới quyền vị tướng Ai Cập vượt qua dải núi đá phủ đầy tuyết và nhìn thấy đất nước ngọt ngào này, với nhà cửa, gia súc, đồng cỏ chín muồi, họ hẳn phải than khóc, “Chúng ta sẽ không phải hành quân, đánh nhau và chịu mọi gian khổ nữa. Chúng ta sẽ dừng chân ở đây để sống và chết.” Chắc chắn họ đã làm thế, lấy vợ trong số phụ nữ của dân tộc ở vùng đất họ vừa chinh phục – có lẽ chỉ sau một trận đánh nhỏ.
Giờ khi ánh sáng mờ dần, những vòng khói đang lơ lửng phía ngọn núi lửa xa xa bắt đầu bùng lên khủng khiếp. Chúng càng lúc càng đỏ hơn và giận dữ hơn khi đêm tới, cuối cùng chúng biến thành những tảng lửa bùng cháy đẩy ra từ lòng núi lửa, ném những chùm sáng xuyên qua con mắt trên trán, chính là chiếc thòng lọng khổng lồ trên đỉnh núi. Những chùm sáng bắn ra rất xa, rất xa, tạo ra con đường sáng chói trên mặt đất, làm nổi bật các đỉnh trắng xóa của dãy núi bao quanh làm tường chắn. Trên cao trong không trung, vượt qua con đường, vượt qua những mái nhà mờ ảo của thành phố Kaloon, vượt trên con sông, phải, ngay thẳng trước chúng tôi, trên dãy núi, không nghi ngờ gì – xuyên qua những nơi chúng tôi không thể theo tới – qua sa mạc tới đỉnh cao chót vót sườn bên kia nơi chúng tôi từng nằm tắm trong vẻ rực rỡ của nó. Thật là một khung cảnh kỳ diệu và ấn tượng vô cùng, cũng khiến những người đồng hành của chúng tôi tràn đầy sợ hãi, vì người cầm lái trên thuyền và những người điều khiển đẩy thuyền đi đều rên to và bắt đầu thốt ra lời cầu nguyện. “Họ nói gì vậy?” Leo hỏi Simbri.
“Họ nói, Linh Hồn Ngọn Núi đang tức giận, và truyền ánh sáng từ chỗ kia bay xuống gọi là Con Đường của Hes, để gây ra tội lỗi với mảnh đất của chúng ta. Do đó, họ phải cầu nguyện bà ấy đừng tàn phá họ.”
“Thế ánh sáng đó không phải lúc nào cũng chiếu như thế sao?” cậu lại hỏi.
“Không, rất hiếm. Một lần vào ba tháng trước, và giờ là đêm nay, nhưng nhiều năm qua chưa hề như vậy. Chúng ta hãy cầu nguyện để nó không mang bất hạnh tới Kaloon và dân cư nơi đây.”
Ánh sáng ghê sợ vẫn tiếp tục vài phút sau đó, rồi nó ngừng lại đột ngột như lúc bắt đầu, chỉ còn lại ánh mờ nhạt trên đỉnh núi.
Giờ trăng đã lên, một quả cầu trắng sáng lấp lánh, dưới ánh sáng của nó, chúng tôi nhận ra đã gần vào thành phố. Nhưng vẫn có gì đó để xem trước khi chúng tôi tới nơi trú ngụ. Trong lúc chúng tôi đang ngồi im lặng trên thuyền – sự im lặng bị phá vỡ bởi tiếng vỗ nhẹ của nước tĩnh lặng ở hai bên và tiếng bắn lên liên tục của sợi dây kéo bị chùng trên bề mặt – chúng tôi nghe thấy một âm thanh xa xôi như trong cuộc săn đuổi đầy tiếng kêu khóc.
Nó càng lúc càng gần, âm lượng to lên mỗi lúc, tới khi thật gần. Giờ vang vọng lại trên mặt đất chỗ lai dắt thuyền – không phải với đám ngựa kéo, mà là thứ khác trên bờ tây dòng sông – nghe như nhịp đập của tiếng vó ngựa phi nước đại đầy giận dữ. Hiện tại nó đã hiện ra, một con vật trắng mịn đẹp đẽ, trên lưng có một người cưỡi. Nó phi qua chúng tôi như một tia chớp, nhưng người đàn ông nó mang theo quay đầu lại, chúng tôi nhìn thấy gương mặt anh ta dưới ánh trăng; cũng nhìn thấy sự đau đớn vì sợ hãi viết rõ trên đó và trong mắt anh ta.
Con vật hiện ra từ bóng tối. Nó lại biến mất trong bóng tối, theo sau nó là thứ nhạc điệu khủng khiếp. Nhìn kìa! Một con chó xuất hiện, một con chó khổng lồ màu đỏ, rỏ đầy rãi trên đất từ mõm khi phi nhanh qua, sau đó chồm lên và phát ra tiếng sủa sâu từ cuống họng, như tiếng chuông. Những con khác theo sau, rồi lại những con khác nữa: phải có cả trăm con, mỗi con đều sủa vang như đang đánh hơi.
“Bầy chó săn tử thần!” tôi thì thào, siết chặt cánh tay Leo.
“Đúng,” cậu đáp lại, “chúng đang chạy theo kẻ xấu xa khốn khổ kia. Đây là cuộc săn người.”
Khi cậu nói vậy, có một bóng hình thứ hai xuất hiện, phục sức lộng lẫy, áo choàng trên vai, tay cầm cây roi dài, anh ta vẫy tay. Anh ta to lớn nhưng các khớp lỏng lẻo, khi đi qua anh ta cũng quay mặt lại, và chúng tôi nhận ra đó là gương mặt của một người điên. Không nghi ngờ gì về điều đó; vẻ điên rồ bùng lên trong đôi mắt trống rỗng và vang lên trong tiếng cười hoang dại gầm rít đó.
“Khan! Khan!” Simbri nói, và tôi có thể thấy ông ta đang sợ hãi.
Giờ anh ta cũng biến mất, theo sau là những người bảo vệ anh ta. Tôi đếm có tám người, đều mang roi, họ quất ngựa bằng những cây roi đó.
“Thế là sao, Simbri đáng mến?” tôi hỏi, khi những âm thanh đã mờ dần phía xa.
“Có nghĩa là, anh bạn Holly ạ,” ông ta đáp, “Khan đang phán xét theo cách của ngài – săn đuổi tới chết ai đó làm ngài tức giận.”
“Vì tội gì thế? Và ai là kẻ khốn khổ kia?”
“Hắn là một lãnh chúa lớn của vùng này, một trong những người bà con hoàng tộc, tội lỗi của hắn là hắn đã nói với Khania rằng hắn yêu nàng, sẵn sàng gây chiến với chồng nàng và giết Ngài, nếu nàng hứa sẽ cưới hắn. Nhưng nàng ghét hắn, cũng như ghét tất cả đàn ông, và mang chuyện đó nói trước Khan. Đó là toàn bộ câu chuyện.”
“Thật hạnh phúc khi hoàng tử có người vợ đức hạnh đến vậy!” tôi không thể giúp gì ngoài nói ngọt ngào và đầy hàm ý như thế, ông già Pháp Sư xấu xa quay đầu lại trước lời đó và bắt đầu vuốt chòm râu trắng.
Nhưng chỉ một lúc sau, chúng tôi lại nghe thấy tiếng sủa của bầy chó săn tử thần một lần nữa. Đúng, chúng đang đâm đầu hướng thẳng tới chỗ chúng tôi, lúc này chạy dọc theo vùng đất. Con ngựa trắng và người cưỡi nó lại xuất hiện trở lại, cả hai hoàn toàn kiệt sức, vì con vật khốn khổ đó hiếm khi chạy vào đường kéo thuyền. Do đã ngoặm được, con chó đỏ to lớn với cái tai đen kẹp chặt sườn nó, khi bị hàm răng năng chạm vào, nó hí to lên trong kinh sợ theo cách chỉ một con ngựa có thể. Người cưỡi ngựa nhảy khỏi lưng nó, trước sự kinh hoàng của chúng tôi, anh ta chạy tới bờ sông, rõ ràng nghĩ rằng muốn nương tựa nhờ thuyền chúng tôi. Nhưng trước khi anh ta chạm được vào nước, những con quái vật như quỉ dữ đã nhảy chồm vào anh ta.
Những gì tiếp theo tôi sẽ không mô tả nữa, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên được cảnh tượng bầy sói đáng lo ngại kia, và cả vị Khan điên cuồng đã thét lên trong niềm vui tàn bạo, cổ vũ bầy chó săn tử thần hoàn thành công việc đẫm máu đó.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 7



Chương 7: Thử thách đầu tiên

Pháp Sư tiến đến bên tôi và lịch sự hỏi tôi cảm thấy thế nào.
Tôi trả lời, “Tốt hơn rồi. Tốt hơn rất nhiều rồi, ôi, chủ nhân của tôi – nhưng ngài tên là gì?”
“Simbri,” ông đáp, “và, như ta đã nói với ngươi bên dòng nước, chức danh của ta là Người Bảo Vệ Chân Truyền của Cánh Cổng. Với nghề nghiệp đó, ta là Bác Sỹ hoàng gia của mảnh đất này.”
“Ngài là bác sỹ hay phù thủy?” tôi cẩn thận hỏi, như thể tôi không nghe rõ lời. Ông ta tò mò nhìn tôi.
“Ta nói là bác sĩ, sẽ tốt cho ngươi và bạn đồng hành của ngươi khi ta biết vài kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên ta nghĩ có lẽ ngươi sẽ không còn sống hôm nay, vị khách O của ta – nhưng ngươi tên là gì?”
“Holly,” tôi nói.
“Vị khách O của ta, Holly.”
“Nếu không phải vì lo xa khiến ngài và người phụ nữ Khania tới bờ sông tối tăm kia, chắc chắn chúng tôi đã không còn sống rồi, thưa Simbri đáng kính, lo xa khiến tôi dường như được thưởng thức phép màu ở một nơi cô đơn như thế này. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ ngài có lẽ nên được gọi là thầy phù thủy, dù thực tế có lẽ ngài lúc đó đang câu cá ở vùng nước đó.”
“Tất nhiên ta đang câu cá, người lạ Holly ạ - và ta bắt được hai con người.”
“Câu cá ngẫu hứng sao, ngài Simbri?”
“Không, theo kế hoạch, vị khách Holly ạ. Việc làm ăn bằng nghề bác sĩ của ta gồm cả việc nghiên cứu các sự kiện tương lai, vì ta là thủ lãnh của Nhóm Pháp Sư hay Các Nhà Tiên Tri ở mảnh đất này, và gần đây được cảnh báo về chuyến viếng thăm của các ngươi, ta đợi các ngươi tới.”
“Thật li kỳ, cũng vô cùng lịch thiệp. Như vậy ở đây bác sĩ và phù thủy có nghĩa như nhau.”
“Ngươi nói đúng rồi đó,” ông ta trả lời với cái gật đầu nghiêm nghị; “nhưng hãy nói cho ta nếu có thể, làm sao các ngươi tìm ra đường tới một vùng đất các vị khách chưa hề lang thang tới?”
“Ồ!” tôi trả lời, “có lẽ chúng tôi là du khách, hay có lẽ chúng tôi cũng từng nghiên cứu y học.”
“Ta nghĩ các ngươi hẳn phải nghiên cứu nó rất sâu, vì nếu không, các ngươi không thể sống sót để vượt qua dãy núi kia mà tìm kiếm – bây giờ các ngươi tìm kiếm gì nhỉ? Bạn đồng hành của ngươi nói là một nữ hoàng - ở đó, trên bờ bên dòng nước xiết ấy.”
“Cậu ấy à? Cậu ấy nói thế thật sao? Phải, thật kì lạ vì cậu ấy có vẻ như đã tìm thấy người đó, chắc chắn chính là người phụ nữ có phong thái hoàng tộc tên Khania kia, người đã nhảy xuống dòng nước cứu chúng tôi, đó hẳn phải là một nữ hoàng.”
“Nàng là một nữ hoàng, và là một nữ hoàng vĩ đại, vì ở vùng này Khania có nghĩa là nữ hoàng, dù sao đi nữa, anh bạn Holly ạ, một người đang nằm vô tri lại có thể nói được điều này, ta không biết nữa. Ta cũng không biết làm sao ngươi nói được ngôn ngữ của chúng ta.”
“Thật đơn giản, vì ngôn ngữ ngài nói rất lâu đời, thật may ở đất nước tôi, tôi được nghiên cứu và dạy về nó rất nhiều. Đó là tiếng Hy Lạp, nhưng dù nó vẫn được nói trên khắp thế giới, tôi không biết làm sao nó lại tới được dãy núi này.”
“Ta sẽ nói cho ngươi,” ông ta trả lời. “Nhiều thế hệ trước, một kẻ chinh phạt vĩ đại sinh ra từ một quốc gia nói ngôn ngữ này, gây chiến suốt từ đất nước đó tới phía nam của chúng ta. Ông ấy bị buộc phải quay về, nhưng một vị tướng của ông thuộc chủng tộc khác vẫn tiến lên và vượt qua dãy núi, đánh bại tộc người của vùng đất này, và mang tới ngôn ngữ của chủ nhân của ông ta cùng vị thần ông ta thờ phụng. Ông ấy đã xây dựng triều đại của mình ở đây, và nơi này vẫn còn lưu lại, do bị bao quanh bởi sa mạc và núi tuyết không có đường đi, chúng ta không trao đổi với thế giới bên ngoài.”
“Đúng, tôi biết một chút về câu chuyện này, kẻ chinh phạt tên là Alexander, đúng không?” tôi hỏi.
“Đúng vậy, còn vị tướng tên là Rassen, quê ở Ai Cập, các bản ghi chép nói như vậy. Các con cháu của ông ấy giữ vương miện tới tận ngày nay, và Khania mang huyết thống của ông ấy.”
“Vị nữ thần ông ấy thờ phụng gọi là thần Isis phải không?”
“Không,” ông ấy trả lời, “nàng gọi là Hes.”
“Nhưng đó là tên khác của Isis thôi.” Tôi ngắt lời, “Hãy nói cho tôi, việc thờ phụng nữ thần vẫn tiếp tục ở nơi đây chứ? Tôi hỏi thế vì giờ việc đó đã biến mất ở Ai Cập, quê hương của việc thờ phụng này.”
“Có một ngôi đền trên Ngọn Núi đằng kia,” ông ta thờ ơ đáp, “trong đó là các nam nữ linh mục thực hiện các nghi lễ cổ xưa. Nhưng vị thần thực sự của dân tộc này ngày nay, cũng như từ rất lâu trước thời Rassen chinh phạt họ, là lửa ngự trên chính Ngọn Núi này, chính nó hết lần này tới lần khác bùng lên và giết chết họ.”
“Và một nữ thần ngự trong ngọn lửa ư?” tôi hỏi.
Ông ta lại dò xét gương mặt tôi bằng đôi mắt lạnh lẽo, rồi trả lời – “Người lạ Holly, ta không biết gì về nữ thần nào hết. Ngọn Núi đó rất thiêng liêng, muốn tìm hiểu bí mật về nó đều phải chết. Tại sao ngươi lại hỏi những câu như vậy?”
“Chỉ vì tôi rất tò mò với những tôn giáo xa xưa, và nhìn thấy biểu tượng của Sự Sống trên đỉnh đằng kia, nên tới đây để nghiên cứu về tôn giáo của ngài, quả thực truyền thống vẫn được bảo trì giữa những người có học vấn.”
“Thế thì hãy từ bỏ nghiên cứu đó đi, anh bạn Holly ạ, vì đường tới đó đi qua bàn chân của bầy chó săn tử thần, và ngọn giáo của những kẻ hoang dã. Quả thực cũng chẳng có gì có học vấn.”
“Gì cơ, thưa Bác Sĩ, bầy chó săn tử thần là gì vậy?”
“Tất nhiên là những con chó, theo phong tục cổ xưa của chúng ta, tất cả những kẻ chống lại luật pháp hay ý chí của Khan, đều bị quăng đi để chúng xé thành từng mảnh.”
“Ý chí của Khan! Đó là chồng của Khania cháu ngài phải không?”
“Đúng,” ông ta trả lời, “họ hàng của nàng, là kẻ thống trị một nửa vùng đất này. Giờ họ và vùng đất là một. Nhưng ngươi đã nói đủ rồi; ta tới đây để nói rằng thức ăn của ngươi đã sẵn sàng,” và ông ta quay người rời khỏi căn phòng.
“Một câu hỏi nữa, người bạn Simbri. Tôi đã tới phòng này như thế nào, còn bạn đồng hành của tôi đâu rồi?”
“Ngươi được mang tới đây khi đang ngủ, nhìn đi, thay đổi làm ngươi khỏe hơn đấy. Ngươi không nhớ gì sao?”
“Không, không nhớ chút nào,” tôi nghiêm túc trả lời. “Nhưng còn bạn tôi?”
“Anh ta cũng khỏe hơn. Khania Atene chăm sóc anh ta.”
“Atene ư?” Tôi nói. “Đó là một cái tên Ai Cập rất cổ xưa. Có nghĩa là Đĩa Mặt Trời, và một phụ nữ mang tên này hàng nghìn năm trước rất nổi tiếng vì nhan sắc của cô ấy.”
“Phải đấy, thế cháu gái Atene của ta không xinh đẹp sao?”
“Tôi có thể nói thế nào đây, ông bác O của Khania,” tôi mệt mỏi trả lời, “khi tôi hiếm khi nhìn thấy cô ấy?”
Sau đó ông đi ra, hiện tại những người hầu da vàng im lặng của ông đã mang thức ăn đến cho tôi.
Sau đó tới buổi sáng, cánh cửa lại mở ra, không có người đi theo, Khania Atene đi tới, đóng và chốt cánh cửa lại sau mình. Hành động này vẫn không trấn an tôi, nhổm dậy trên giường, tôi chào cô ấy tốt nhất có thể, dù trong lòng đầy sợ hãi. Cô ấy dường như đọc được nghi ngại của tôi, vì cô nói – “Nằm xuống đi, đừng sợ. Hiện giờ ngươi sẽ không bị ta làm hại đâu. Nào, hãy nói cho ta, người đàn ông tên Leo là gì với ngươi? Con trai ngươi ư? Không, không thể nào, vì – tha thứ cho ta – ánh sáng không sinh ra từ tăm tối.”
“Tôi luôn luôn nghĩ nó được sinh ra như thế, Khania. Nhưng nàng đã đúng; cậu ấy là con nuôi của tôi, và là người tôi yêu thương.”
“Nói đi, các ngươi tìm kiếm gì ở đây?” cô ấy hỏi.
“Khania, chúng tôi tìm kiếm bất cứ thứ gì Định Mệnh mang tới cho chúng tôi trên Ngọn Núi có ánh lửa trên đỉnh đằng kia.”
Gương mặt cô tái đi trước những lời đó, nhưng cô vẫn trả lời bằng giọng trấn định – “Thế thì các ngươi sẽ chẳng tìm thấy gì ở đó ngoài địa ngục, nếu quả thực các ngươi không tìm ra nó trước khi tới sườn núi được đám người hoang dã bảo vệ. Phía đó là Học Viện Hes, và nếu xâm phạm vào Nơi Thiêng Liêng của nó, bất kỳ ai cũng phải chết, chết trong ngọn lửa cháy vĩnh cửu.”
“Thế ai cai quản học viện này hả Khania – một nữ tu sĩ ư?”
“Đúng, một nữ tu sĩ, ta chưa bao giờ thấy mặt, vì bà ta già tới mức bà ta phải tự che mặt lại khỏi những con mắt tò mò.”
“A! Bà ta tự che mặt sao?” Tôi đáp, máu xuyên qua tĩnh mạch tôi thật li kì, tôi đang nhớ tới một người khác cũng già như vậy và bà ấy cũng tự che mặt khỏi những con mắt tò mò. “Phải thôi, che hay không che, chúng tôi đều muốn tới thăm bà ấy, tin rằng chúng tôi sẽ được chào đón.”
“Các ngươi sẽ không được chào đón,” cô nói, “vì đó là trái luật, và ta sẽ không muốn tay mình dính máu các ngươi.”
“Ai mạnh hơn,” Tôi hỏi cô ấy, “nàng, Khania, hay vị nữ tu sĩ của Ngọn Núi kia?”
“Ta mạnh hơn, Holly, vì ngươi cũng được đặt tên như vậy đó thôi, phải không? Hãy nhìn đi, nếu cần ta có thể tập hợp được sáu mươi nghìn người trong chiến tranh, trong khi bà ta chả có gì ngoài đám linh mục và những bộ lạc tàn bạo chưa qua đào tạo.”
“Thanh gươm là sức mạnh duy nhất trên thế gian,” tôi đáp. “Bây giờ, hãy nói cho tôi, vị nữ tu này từng tới thăm đất nước Kaloon chưa?”
“Chưa bao giờ, chưa bao giờ, do hiệp ước cổ xưa ban hành sau cuộc chiến tranh khốc liệt cuối cùng từ nhiều thế kỷ trước giữa Học Viện và dân tộc trên Đồng Bằng, nó được ban bố và tuyên thệ rằng bà ấy sẽ đặt chân qua con sông thôi, điều này có nghĩa là chiến tranh sẽ kết thúc giữa chúng tôi, và thống trị như người chiến thắng trước cả hai bên. Tương tự như vậy, sẽ cứu giúp lẫn nhau khi không được bảo vệ, họ mang người chết đi chôn cất, hoặc vì mục đích cao cả nào đó như thế, không vị Khan hay Khania nào của Kaloon được trèo lên Ngọn Núi.”
“Thế thì ai mới là chủ nhân thực sự - Khan của Kaloon hay người đứng đầu Học Viện Hes?” Tôi lại hỏi.
“Trong những vấn đề tâm linh, là nữ tu sĩ của Hes, đó là nhà tiên tri Oracle của chúng tôi và tiếng nói của Thượng Đế. Trong những vấn đề thế tục, là Khan của Kaloon.”
“Khan. A! Nàng đã kết hôn hay chưa?”
“Đúng,” cô đáp, gương mặt đỏ bừng. “Và ta sẽ nói cho ngươi những gì ngươi phải sớm biết, ta là vợ của một kẻ điên cuồng, và hắn ta rất căm ghét ta.”
“Tôi đã hiểu được từ lần trước rồi, thưa Khania.”
Cô ấy nhìn tôi với cặp mắt như muốn đâm thủng tôi.
“Gì cơ! Bác ta, Pháp Sư, kẻ được gọi là Người Bảo Vệ đó, đã nói cho ngươi rồi ư? Không, ngươi đã nhìn thấy, ta biết ngươi đã nhìn thấy, lẽ ra tốt nhất nên giết chết ngươi, ôi! Ngươi đang nghĩ gì về ta thế?”
Tôi không trả lời, vì thật sự tôi không biết phải nghĩ gì nữa, tôi cũng sợ lời thừa nhận vội vàng sẽ nhanh chóng mang tới hận thù.
“Ngươi phải tin rằng,” cô tiếp tục, “ta luôn căm ghét đàn ông, ta thề đó là sự thật – miệng ta trong sạch hơn tuyết trên ngọn núi kia, ta, Khania của Kaloon, người họ gọi là Trái Tim Băng Giá, nhưng đó không phải là việc đáng xấu hổ.” Và lấy tay che mặt, cô rên rỉ trong nỗi cay đắng đau đớn.
“Không,” tôi nói, “có lẽ có lý do hay lời giải thích, nếu nàng vui lòng nói chúng ra.”
“Người lầm đường lạc lối, lý do là vậy đấy; vì ngươi biết quá nhiều, ngươi sẽ hiểu chúng thôi. Giống như chồng ta, ta cũng trở nên điên cuồng. Khi lần đầu tiên ta nhìn thấy gương mặt người đồng hành với ngươi, khi kéo anh ta khỏi con sông, sự điên cuồng đã xâm chiếm ta, và ta – ta – “
“Yêu anh ta,” tôi gợi ý. “Phải rồi, những chuyện như vậy trước đây vẫn xảy ra với những ai không bị điên.”
“Ôi!” cô ấy tiếp tục, “còn hơn cả tình yêu; ta đã được sở hữu, và đêm đó ta không biết đã làm gì. Một thứ Quyền Năng điều khiển ta; Định Mệnh đã trói buộc ta, cuối cùng ta là của chàng, là duy nhất của chàng mà thôi. Phải, ta là của chàng, và ta thề chàng sẽ là của ta;” lời tuyên bố điên cuồng ấy thật nguy hiểm trong hoàn cảnh này, cô ấy quay đi và chạy trốn khỏi căn phòng.
Cô ấy đi rồi, và sau một lúc vật lộn vì những chuyện như vậy, tôi lại kiệt sức. Niềm khao khát đột ngột này đã tới làm chủ cô ấy như thế nào? Khania này là ai và là gì đây, tôi băn khoăn tự hỏi – quan trọng hơn, Leo muốn tin cô ấy là ai và là gì? Giá như tôi có thể ở bên cậu trước khi cậu nói những lời hay làm những hành động không thể rút lại được.
Ba ngày trôi đi, trong thời gian này tôi không nhìn thấy Khania nữa, tôi được Simbri, vị Pháp Sư thông báo cho biết, cô đã quay lại thành phố để chuẩn bị cho chúng tôi, các vị khách của cô ấy. Tôi cầu xin ông ta cho phép tôi gặp lại Leo, nhưng ông ta lịch sự trả lời, dù rất kiên quyết, rằng con nuôi của tôi sẽ tốt hơn khi không có tôi. Giờ đây tôi bắt đầu nghi ngờ, sợ rằng những điều có hại đã xảy ra với Leo, dù chưa biết làm sao khám phá ra sự thật. Trong lúc lo lắng, tôi cố truyền lời tới cậu ấy, viết trên một tờ trong quyển sách bỏ túi chống thấm nước, nhưng người hầu da vàng từ chối chạm vào nó, còn Simbri cộc lốc nói cậu ấy không có gì để làm với mấy bản ghi chép vì cậu không thể đọc. Cuối cùng, vào đêm thứ ba, tôi quyết định mạo hiểm rời khỏi phòng, tôi muốn thử đi tìm cậu ấy.
Lúc này tôi đã có thể đi bộ tốt, vì thực sự đã gần khỏe lại. Vì thế khoảng nửa đêm, khi trăng lên cao, vì tôi không còn ánh sáng nào khác, tôi bò khỏi giường, mặc đống quần áo vào, lấy một con dao – thứ vũ khí duy nhất tôi sở hữu – mở cửa phòng và bước đi.
Khi tôi được mang khỏi căn phòng bằng đá Leo và tôi đã ở cùng nhau, tôi đã ghi nhớ đường. Thoạt tiên tính từ nơi tôi đang ngủ, có một lối đi dài khoảng ba mươi bước, vì tôi đã đếm bước chân của những người khiêng tôi. Sau đó rẽ trái, đi mười bước nữa, cuối cùng tới cầu thang chạy ra nơi nào không rõ, rẽ phải sẽ dẫn tới căn phòng cũ của chúng tôi.
Tôi lén lút đi bộ trên lối đi dài, dù khá tối, nhưng vẫn tìm được lối rẽ trái, rồi đi theo tới khi đến ngã rẽ thứ hai sang phải, nơi có một hành lang có cầu thang nhô ra. Tôi rón rén bò qua rồi rút lui vội vã, vì trước cửa phòng Leo đã bị khóa từ bên ngoài, tôi có thể thấy ánh đèn cô ấy đang cầm trên tay, Khania đang đứng ở đó.
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là bay ngay trở lại phòng mình, nhưng tôi đã từ bỏ, vì chắc chắn tôi sẽ bị phát hiện. Vì thế tôi quyết định, nếu cô ta phát hiện ra tôi, phải đối mặt và nói rằng tôi đang thử đi tìm Leo, để xem cậu thế nào. Vì vậy, tôi cúi đầu bên bức tường, chờ đợi mà tim đập bình bịch. Tôi nghe thấy cô ấy quét qua lối đi, và bắt đầu xuống cầu thang.
Giờ tôi nên làm gì? Cố gắng chạm tới Leo đều vô dụng, vì cô ta đã khóa cửa, chìa cô ta giữ. Trở lại giường ư? Không, tôi muốn đi theo cô ấy, nếu chúng tôi gặp nhau, có thể đưa ra các lý do tương tự. Như thế tôi sẽ thu được chút tin tức, hoặc có lẽ - một nhát dao.
Tôi đi vòng qua góc và lên cầu thang, không hề tạo ra tiếng động y như một con rắn. Lối đi nhiều và quanh co, như trong tháp nhà thờ, nhưng cuối cùng tôi đã tới đỉnh, nơi đó có một chỗ đứng nhỏ, mở ra một cánh cửa. Đó là một cánh cửa rất cổ xưa; ánh sáng truyền qua các vết nứt nơi những tấm ván đã bị mục nát, từ căn phòng đó vọng ra những âm thanh của Pháp Sư và Khania.
“Cháu đã biết được gì rồi, cháu gái của ta?” Tôi nghe thấy ông ta hỏi và cũng nghe thấy cô ấy trả lời – “Ít lắm. Rất ít.”
Rồi trong cơn khát thông tin, tôi trở nên táo bạo, vụng trộm tới cánh cửa, nhìn xuyên qua một trong những khe nứt trên gỗ. Đối diện với tôi, trong ánh đèn sáng trưng tuôn ra từ một cây đèn treo, bàn tay cô ấy đặt lên bàn nơi Simbri ngồi, Khania đang đứng. Thực sự cô ấy rất lộng lẫy, vì cô mặc áo khoác màu tía của hoàng tộc, trên trán là mũ miện nhỏ bằng vàng, bên dưới những lọn tóc xoăn chảy như suối xuống cổ và ngực. Nhìn cô ấy, tôi đoán ngay được cô ấy đã tự sắp xếp như thế vì lý do bí mật nào đó, làm tăng vẻ đẹp và ân sủng bằng mọi nghệ thuật mà một phụ nữ đều biết. Simbri đang nhìn cô ấy tha thiết, với nỗi sợ hãi và nghi ngại viết rõ trên từng đường nét lạnh lẽo và bình thản của ông ta.
“Thế chuyện gì đã xảy ra giữa các ngươi?” ông ta hỏi, chăm chú nhìn cô ấy.
“Ta đã hỏi chàng gần hết những lý do tới đây, và tổng kết lại câu trả lời là đi tìm một phụ nữ xinh đẹp nào đó – chàng không muốn nói thêm nữa. Ta hỏi liệu cô ta có đẹp hơn ta không, chàng lịch sự đáp – tôi nghĩ không gì hơn được, thật khó nói, nhưng nàng đã từng rất khác. Sau đó ta nói dù ta không có nghĩa vụ phải nói về chuyện này, nhưng không phụ nữ nào ở Kaloon mọi người biết lại đẹp như ta; hơn nữa, ta là người cai trị vùng đất này, và chính ta chứ không ai khác đã cứu anh ta trong nước. Phải, ta nói thêm, trái tim mách bảo ta rằng ta chính là người phụ nữ chàng tìm.”
“Được rồi, cháu gái,” Simbri không kiên nhẫn nói, “Ta không muốn nghe về những nghệ thuật cháu đã sử dụng – rất tốt, không nghi ngờ gì nữa. Sau đó thì sao?”
“Sau đó chàng nói có lẽ vậy, vì chàng nghĩ người phụ nữ này đã tái sinh, rồi nghiên cứu ta một lúc, hỏi ta đã từng ‘đi xuyên qua ngọn lửa’ chưa. Ta đáp ngọn lửa duy nhất ta từng đi qua là ngọn lửa của linh hồn, giờ ta đã ngự trong đó. Chàng nói, ‘Hãy cho ta xem tóc nàng’, và ta đặt một lọn tóc trong tay chàng. Chàng làm nó rơi xuống, rồi từ chiếc túi nhỏ chàng đeo trên cổ lấy ra một nắm tóc – ôi! Simbri, bác của ta, mái tóc đẹp nhất mắt ta từng thấy, vì nó mềm mại như bạc, dài từ vương miện của ta tới đất. Hơn thế, không cánh chim nào trong ánh mặt trời tỏa sáng lấp lánh như nắm tóc đó.”
“’Tóc nàng rất đẹp,’ chàng nói, ‘nhưng nhìn này, chúng không giống nhau.’”
“’Có lẽ vậy,’ ta đáp, ‘vì không có phụ nữ nào có lọn tóc như thế.’”
“’Nàng nói đúng’, chàng đáp, ‘vì nàng – người ta đang tìm kiếm – còn hơn cả một phụ nữ.’”
“Sau đó – sau đó – dù cháu cố thử mọi cách, chàng cũng không nói gì nữa, vậy đấy, ta cảm thấy căm ghét thứ Hư Vô nảy sinh trong lòng mình, và sợ sẽ thốt ra những lời không nên nói, ta đã bỏ đi. Giờ ta ra lệnh cho ngươi, hãy tìm đống sách vở để mở sự thông thái của người ra, và nói cho ta biết về người phụ nữ chàng đang tìm kiếm, cô ta là ai, cô ta ở đâu. Ôi! Hãy tìm nhanh lên, ta sẽ tìm ra cô ta và – giết chết cô ta nếu có thể.”
“Được, nếu cháu có thể,” Pháp Sư trả lời, “và nếu cô ta còn sống để giết. Nhưng chúng ta bắt đầu tìm kiếm ở đâu đây? Bây giờ, có bức thư từ Ngọn Núi được linh mục đứng đầu Oros gửi tới cung điện của cháu lúc trước phải không?” – ông ta chọn một tấm giấy da từ đống trên bàn và nhìn cô ấy.
“Hãy đọc đi,” cô nói, “Ta muốn nghe lại nó.”
Và ông ta đọc lên:
“Từ Hesea nơi Cung Điện Ngọn Lửa, gửi tới Atene, Khania của Kaloon.
Em gái ta – báo với ta có hai khách lạ người phương Tây sẽ du hành tới vùng đất của ngươi, tìm kiếm nhà tiên tri Oracle của ta, họ có thể sẽ đặt câu hỏi về người. Vào ngày đầu tiên của tuần trăng kế tiếp, ta ra lệnh ngươi và Simbri, bác cả của ngươi, vị Pháp Sư thông thái, Người Bảo Vệ Cánh Cổng, phải tới quan sát con sông trong vực thẳm dưới chân con đường cổ xưa, vì các khách lạ sẽ đi theo lối đó. Hãy giúp họ mọi thứ và mang họ an toàn tới Ngọn Núi, nhớ rằng ta sẽ giữ ngươi và bác ngươi vì lợi ích. Bản thân ta sẽ không gặp họ, vì làm vậy sẽ phá vỡ hiệp ước về quyền lực giữa chúng ta, hiệp ước nói Hesea của chốn Linh Thiêng sẽ không tới lãnh thổ Kaloon, để không gây ra chiến tranh. Nhưng việc các ngươi đến đã được chỉ định.”
“Có vẻ như,” Simbri nói, đặt bức thư da xuống, “không có cơ hội cho những kẻ lang thang này, vì Hes đang đợi họ.”
“Đúng, họ là những kẻ lang thang không may, vì trái tim ta cũng chờ đợi một trong số họ. Nhưng Hesea không thể là người phụ nữ kia, vì bác đã biết bà ta.”
“Có nhiều phụ nữ trên Ngọn Núi,” Pháp Sư nói bằng giọng khô khan, “nếu quả thực phụ nữ nào cũng làm thế với chuyện này.”
“Ít nhất ta sẽ làm thế, chàng sẽ không tới Ngọn Núi.”
“Hes rất nhiều quyền năng, cháu gái ạ, đằng sau những lời nhẹ nhàng này của bà ấy là lời đe dọa đáng sợ. Ta nói bà ta rất hùng mạnh vì tuổi tác và có nhiều người phục vụ trên mặt đất và trong không gian, kẻ báo cho bà ta biết những người đàn ông này sẽ đến, cũng sẽ cảnh báo bà ta về những gì xảy ra với họ. Ta biết điều đó, người căm ghét bà ta chính là hoàng tộc Rassen suốt nhiều thế hệ của cháu. Đừng ngăn cản bà ta thì sẽ không có gì tồi tệ xảy ra với tất cả chúng ta, vì bà ta là một linh hồn và rất kinh khủng. Bà ta nói đã định trước là họ sẽ tới – “
“Và ta nói đã định trước là chàng sẽ không tới. Hãy để tên kia đi nếu hắn muốn.”
“Atene, hãy thẳng thắn đi, cháu định làm gì với người đàn ông tên Leo kia – anh ta sẽ trở thành người yêu của cháu sao?” Pháp Sư hỏi.
Cô ta nhìn thẳng vào mắt ông ấy, trả lời kiên quyết – “Không, ta muốn chàng trở thành chồng ta.”
“Trước tiên anh ta cũng phải muốn thế đã, nhưng có vẻ sẽ không như vậy. Ngoài ra một phụ nữ làm sao có thể có hai chồng?”
Cô ấy đặt tay lên vai ông và nói – “Ta không có chồng. Bác biết rõ điều đó mà, bác Simbri. Ta giao nhiệm vụ cho bác vì mối quan hệ huyết thống gần gũi của chúng ta, hãy bày cách khác cho ta đi – “
“Có lẽ chúng ta còn gần gũi hơn trong quan hệ giết người! Không, Atene, ta sẽ không làm; tội lỗi của cháu đã đè nặng lên đầu ta rồi. Cháu rất xinh đẹp, hãy giữ người đàn ông đó trong cái lồng của cháu nếu cháu muốn, hoặc để anh ta đi, tốt hơn là đi thật xa.”
“Ta không thể để chàng đi. Nếu có thể ta đã làm rồi. Ta yêu chàng cũng như ta ghét kẻ chàng yêu, nhưng có sức mạnh nào đó làm trái tim chàng cứng lại trước ta. Ôi! Hỡi Pháp Sư vĩ đại, bác chỉ cần hé nhìn và thì thào, bác có thể đọc được tương lai và quá khứ, hãy nói cho ta những gì bác biết từ những vì sao và những lời tiên tri.”
“Ta đã tìm kiếm qua nhiều bí mật, hàng giờ mệt nhọc và biết điều này, Atene,” ông ta trả lời. “Cháu đã đúng, vận mệnh của người đàn ông đó bị buộc chặt vào cháu, nhưng giữa cháu và anh ta có một bức tường rất lớn mà ta không thể nhìn xuyên qua và những người thân của ta cũng không trèo qua được. Nhưng ta cũng được nói cho biết rằng cháu và anh ta sẽ chết – đúng, ta cũng thế, rất gần nhau.”
“Thế thì chết đi thôi,” cô kêu lên trong sự kiêu hãnh ủ ê, “như thế ít ra ta sẽ nhổ đi được nỗi đam mê này.”
“Không chắc,” ông ấy trả lời, “vì ta nghĩ Quyền Năng sẽ đi theo chúng ta thậm chí xuống cả vực sâu tăm tối của địa ngục. Ta cũng nghĩ mình vẫn cảm nhận được ánh mắt không ngủ của Hes đang dõi theo linh hồn bí mật của chúng ta.”
“Thế thì hãy làm chúng bị mù trong cát bụi ảo tưởng – như bác có thể. Ngày mai cũng vậy, đừng nói gì về giới tính của họ, hãy gửi sứ giả tới Ngọn Núi và nói với Hesea rằng hai khách lạ già nua đã tới – bác nhấn mạnh vào ‘già’ – nhưng họ rất ốm yếu, vì chân tay bị gẫy khi qua sông, khi nào họ lành trở lại, ta sẽ gửi họ tới theo yêu cầu của vị tiên tri Oracle của bà ấy – khoảng ba vòng trăng nữa. Không chừng bà ta sẽ tin bác, và sẵn lòng chờ đợi; hoặc nếu không, ít ra cũng không thể nói gì. Cháu phải đi ngủ nếu không đầu cháu sẽ vỡ ra mất. Hãy cho cháu viên thuốc để nghỉ ngơi không mộng mị, vì chưa bao giờ cháu cần nó như lúc này, cháu cũng đang cảm thấy có ánh mắt trên người cháu,” và cô ấy liếc về phía cửa.
Sau đó tôi rời đi, không quá sớm, vì khi tôi bò xuống lối đi tối đen, tôi nghe thấy tiếng cửa mở phía sau.
Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham