Trong suốt
60 năm qua, thế giới chứng kiến sự tăng trưởng mạnh mẽ của châu Á: từ Nhật bản,
đến Singapore, Hàn quốc, Đài Loan, Hồng Kong, rồi Thái lan, Malaysia, Trung Quốc,
Việt Nam…
Lý do của
sự tăng trưởng kinh ngạc này, là tất cả các nước này đều xuất khẩu lớn sang Mỹ.
Rất dễ
nhận ra điều này khi nhìn vào biểu đồ tăng trưởng của Việt Nam và lượng xuất khẩu
của VN sang Mỹ theo thời gian. 5 năm gần
đây, xuất khẩu sang Mỹ của VN tăng theo chiều thẳng đứng. Tuy nhiên, 1 điều
không may cho VN: năm 2008 Mỹ rơi vào suy thoái nghiêm trọng, gần ngưỡng của 1
cuộc đại suy thoái (New Great Depression).
Vấn đề đặt
ra ở đây là: Nước Mỹ sẽ phục hồi hay sụp đổ? Việt Nam có giữ được tốc độ tăng
trưởng cao?
a.
Cuộc
đại Suy Thoái sắp tới - New Great Depression(2016?):
Chúng ta
hãy nhìn vào cuộc Đại Suy Thoái (1930) và viễn cảnh một cuộc Đại Suy Thoái sắp
và suýt nữa đã xảy ra năm 2008:
Cuộc khủng
hoảng này là do sử dụng quá nhiều tín dụng (Credit).
Chúng ta
đều biết, từ 1945-2013, thế giới không còn chế độ bản vị vàng (Gold based), mà
sử dụng tiền tệ gọi là Currency Outside Banks. Cục dự trữ liên bang Mỹ FED đã sử
dụng cây đũa thần để mở ra chiếc hộp Pandora: tiền giấy USD cứ thế chảy ra ào
ào, mà không cần có tài sản bảo chứng (như vàng – trong chế độ bản vị vàng). Từ
1968, nước Mỹ chính thức không còn dùng chế độ bản vị vàng, vì không còn vàng.
Do Vàng đã được Mỹ chi cho chiến tranh Việt Nam và các cuộc chiến khác hết rồi.
Tín dụng tăng nhanh chóng từ 1 nghìn tỷ USD năm 1964 đã lên tới 50 nghìn tỷ USD
năm 2007. Đây là sự bùng nổ tín dụng khổng lồ. Châu Á giai đoạn này đã xuất khẩu
cực lớn sang Mỹ, và nhanh chóng tăng trưởng mạnh mẽ, từ các quốc gia nông nghiệp
chậm phát triển thành các xã hội công nghiệp – phát triển nhanh.
Sơ đồ thống
kê cho thấy: tổng tín dụng/GDP của Mỹ tăng khủng khiếp, từ 150% năm 1951 lên 350%
(2013).
20 năm
qua, nền kinh tế toàn cầu đã tăng quá nhanh. Trong 10 – 20 năm kế tiếp, thế giới
đang xuất hiện những nhân tố làm chững lại tốc độ tăng trưởng.
Ví dụ,
Trung Quốc: đã tăng trưởng vượt bậc. Thặng dư thương mại với Mỹ đã tăng từ 0
USD (năm 1985) lên 800 nghìn tỷ (2006) và 400 nghìn tỷ USD (năm 2013).
Chuyện
gì đây nếu Đại Suy Thoái xảy ra?
Trong
quá khứ, cuộc đại suy thoái năm 1930 để lại hậu quả khủng khiếp:
-
Chế
độ bản vị vàng sụp đổ (1914)
-
Chiến
tranh thế giới thứ nhất
-
Bong
bóng tín dụng nổ
-
Thương
mại quốc tế sụp đổ
-
Thất
nghiệp tăng tới > 25%
-
Kéo
theo 1 loạt các hậu quả kinh tế xã hội nặng nề khác: chủ nghĩa phát xít ra đời,
chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ, …. Nước Mỹ mất 76% giá trị tài sản và thế
giới thụt lùi lại 30 năm.
Hiện tại,
hầu hết các dấu hiệu tương tự cuộc đại suy thoái năm 1930 đã xảy ra, báo hiệu 1
cuộc đại suy thoái mới có khả năng xuất hiện:
-
Chế
độ bretton wood Sụp đổ
-
Bóng
bóng tín dụng khổng lồ vỡ dây chuyền: từ Nhật (1990) tới Mỹ (2008)…
-
Thương
mại quốc tế rung chuyển và suy yếu
-
Thất
nghiệp tăng tới gần 20% ở Mỹ
-
Chi
tiêu công khiến 1 loạt quốc gia đã hoặc sắp vỡ nợ: Hy lạp, tây ban nha, Nhật, …
-
Nếu
xảy ra, thì thế giới được dự đoán sẽ mất 90% giá trị tài sản và nhân loại lùi lại
60 năm.
Trước những
dấu hiệu và nguy cơ khổng lồ đó, các chính phủ đang làm hết sức để cứu thế giới
khỏi cơn Đại Suy thoái Mới. Việc duy nhất họ có thể làm là cố gắng thổi tiếp và
giữ cho bong bóng tín dụng được thổi căng, thông qua 2 biện pháp:
-
In
thật nhiều tiền giấy
-
Chi
tiêu công táo bạo (hãy nhìn các quốc gia đã làm trong 5 năm qua thì biết)
Nước Mỹ
thâm hụt ngân sách liên tục 5 năm liền. FED sử dụng cây đũa thần, tiếp tục in
tiền không ngừng nghỉ. Chính phủ Mỹ đã đưa ra 3 gói cứu trợ nền kinh tế (QE1,
QE2, QE3). Cứ mỗi lần gói cứu trợ hết, thì nền kinh tế Mỹ lại đi xuống, nền
kinh tế thế giới đi xuống theo. Gói QE3 sẽ kết thúc vào tháng 10 năm 2014 tới
đây. Do đó, thị trường chứng khoán sẽ đi xuống ngay theo đó. Vì vậy, nếu bạn
đang sở hữu chứng khoán, hãy bán ngay bây giờ đi.
Giá trị
ròng (netwealth???) của nền kinh tế Mỹ hiện tại = 25 nghìn tỷ USD
b.
Bản
chất hệ thống kinh tế thế giới hiện tại
Hệ thống
kinh tế thế giới hiện tại không phải là chủ nghĩa tư bản (Capitalism) nữa rồi,
mà là chủ nghĩa tín dụng (Creditism). Vì sao?
Trong Chủ
nghĩa tư bản, vàng là tiền, chính phủ không can thiệp vào nền kinh tế. Nhưng hiện
tại, các chính phủ đang làm việc với nhau, tương tác với Mỹ để điều khiển nền
kinh tế; các chính phủ tự tạo tiền, không liên quan đến vàng nữa. Đây là chủ
nghĩa tín dụng.
Do đó,
việc của các nhà kinh doanh và đầu tư là dự báo xem các chính phủ sẽ làm gì, chứ
không phải dự báo thị trường sẽ thế nào. Chủ nghĩa tín dụng giờ đây đang đến thời
kỳ suy thoái. Cách thức vận hành của nền
kinh tế hiện nay: tăng trưởng tín dụng sẽ
tạo ra tăng trưởng kinh tế.
Thu nhập
trung bình của người dân Mỹ đang giảm xuống, bởi vì châu Á. Tất cả các công việc
tay chân, sản xuất đều bị đưa sang châu Á hết rồi, người Mỹ bây giờ không có việc
để làm. Không có việc, tất nhiên, sẽ không có tiền. Do đó, bạn yên tâm, gói cứu
trợ QE3 vừa hết thì nền kinh tế Mỹ chắc chắn sẽ đi xuống tiếp, và chính phủ Mỹ
buộc phải đẩy ra tiếp 1 gói QE4, tức nước Mỹ sẽ tiếp tục in tiền, để kéo nền
kinh tế đi lên. Thị trường chứng khoán đã tăng 30% năm 2013. Đó là điểm bán tốt
nhất.
Toàn cầu
hóa cũng chính là nguyên nhân quan trong gây ra suy thoái. Toàn cầu hóa gây ra
sự dịch chuyển các công việc sang Ấn độ, Trung quốc, việt nam,… Chi phí nhân
công giảm 90% từ 200$ ở Mỹ xuống còn 10$ ở Ấn độ, Philipine,… Đây là điều chưa
từng có tiền lệ trong lịch sử thế giới.
Tính
thanh khoản (liquidity) cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Đồ thị cho thấy, tính
thanh khoản chỉ tăng khi nước Mỹ in thêm tiền.
Câu hỏi
đặt ra là: Các chính phủ có thể duy trì hỗ trợ được trong bao lâu nữa?
Hãy nhìn
nước Nhật. Chính phủ đang nợ trên GDP là 60% khi suy thoái vào những năm
1980-1990. Giải pháp của họ là tiếp tục vay thật nhiều tiền để chi tiêu công ở
mức cao, tức là duy trì việc thổi bong bóng không cho nó nổ.
Giờ đây,
Mỹ đang làm tương tự. Chính phủ Mỹ đã nợ 100% GDP, nhưng vẫn tiếp tục duy trì
chi tiêu công ở mức cao. Nếu không có lạm phát thì có thể không sao. Nhưng vấn
đề là có lạm phát. Cho nên mọi kết quả đều rất khó đoán.
Do đó,
phải dự báo được hành vi của chính phủ.
Hiện tại
các nền kinh tế trên thế giới đều suy yếu hoặc không ổn định.
Thực ra, khủng hoảng là 1 cơ hội tuyệt vời
nếu chúng ta hiểu đúng tình hình.
Kinh tế
học thực tế khác rất xa so với những gì được dạy trong nhà trường. Nó đơn giản,
nhưng về khía cạnh nào đó, lại phức tạp. Nền kinh tế toàn cầu đang mất cân đối,
người ta thường hay ví, “như bong bóng”. Mọi lý thuyết kinh tế đều đang dần vô
nghĩa hoặc đã trở thành cực kỳ ngớ ngẩn.
Nước Mỹ
đã thâm hụt 800 nghìn tỷ USD năm 2006. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử loài người
có hiện tượng này: một quốc gia mạnh nhất thế giới nhưng lại bị thâm hụt lớn nhất
thế giới với 1 con số khổng lồ. Nhưng nó lại không sụp đổ hay bị soán ngôi.
Thực ra,
trong lịch sử đã từng có 1 lần tương tự, là 100 năm trước, nước Anh khi đó mạnh
nhất thế giới, bị thâm hụt với nước Pháp một lượng khổng lồ. Nhưng khi đó là chế
độ bản vị Vàng, người Anh phải trả cho người Pháp hàng chục tàu chở vàng. Nước
Anh mất vàng, nền kinh tế suy yếu dần, còn Pháp lại tăng trưởng mạnh mẽ. Đó là
1 cơ chế tự cân bằng bằng cách sử dụng vàng.
Nhưng từ
năm 1968, Mỹ bắt đầu có thâm hụt với Nhật và không còn sử dụng bản vị vàng nữa.
Không giống với Anh, Nước Mỹ trả Nhật bằng giấy (các giấy nợ - hay tín dụng).
Nước Nhật tăng trưởng nhanh chóng, thành 1 quả bong bóng khổng lồ (vì có thặng
dư thương mại khổng lồ với Mỹ). Năm 1990, Quả bong bóng Nhật bị xì hơi. Và nó
khiến cho nước Nhật 20 năm trở lại đây không thể tăng trưởng được.
Các quốc
gia đang lặp lại kịch bản của nước Nhật. Thái lan năm 1997: khủng hoảng làm đồng
bath giảm 95% giá trị so với đồng USD. Trung Quốc đang đứng trước ngưỡng cửa 1
cuộc suy thoái. Cả thế giới đang có 1 bong bóng tín dụng khổng lồ. Đây sẽ là
khó khăn cho thế giới 20 năm tiếp theo. Cũng là khó khăn cho Việt nam, vì Việt
Nam bắt đầu phát triển lại rơi vào đúng thời kỳ suy thoái, dù thâm hụt của Mỹ
cũng đang thu hẹp lại.
Tóm lại,
với tình hình kinh tế thế giới hiện tại, mọi sách giáo khoa và lý thuyết kinh tế
đều không thể giải thích được sự mất cân bằng này.
c.
Kinh
tế Trung Quốc
Việt Nam
và tất cả các nước đều phải quan tâm đến kinh tế Trung Quốc, vì qui mô và vị
trí hiện tại của nó đã vượt xa với 20 năm trước đây. Đối với Việt Nam, nó quan
trọng hơn nữa bởi vì, Trung Quốc là láng giềng, và có 1 ảnh hưởng cực kỳ quan
trọng đến nền kinh tế Việt Nam. Bạn có thể nhìn vào nền kinh tế Việt Nam, sẽ biết
ngay dấu ấn này sâu đến mức nào.
GDP là
thước đo của qui mô nền kinh tế.
Năm
2013, GDP của Việt Nam là 107 tỷ USD, của Trung Quốc là hơn 9000 tỷ USD. Đó là
1 khoảng cách cực lớn.
GDP gồm:
-
Tiêu
dùng cá nhân (sẽ chiếm tỷ trọng lớn nhất)
-
Đầu
tư
-
Cán
cân thương mại (Xuất khẩu, nhập khẩu)
-
Tiêu
dùng của chính phủ
Do đó,
chỉ cần dự báo cho 4 thành phần này, bạn sẽ hiểu được toàn bộ nền kinh tế.
Hãy xem
số liệu thống kê đi,
GDP
|
Mỹ
|
Trung Quốc
|
Tiêu dùng cá nhân
|
72%
|
35%
|
Chi tiêu của
chính phủ
|
17%
|
13%
|
Đầu tư
|
15%
|
49%
|
Nhập khẩu
|
14%
|
|
Xuất khẩu
|
-18%
|
|
Trong
vòng 20 năm, Trung Quốc tăng trưởng tới 9000 tỷ USD. Đây là điều chưa từng xảy
ra trong lịch sử nhân loại. Chưa có 1 quốc gia nào trong lịch sử tăng trưởng
cao đến như vậy. Vì thế, Trung Quốc có thừa năng lực trong mọi lĩnh vực.
Và hiện
tại Trung Quốc đang gặp khủng hoảng với GDP khủng của mình.
Hãy nhìn
vào bản chất của vấn đề. Các quốc gia châu Á đều tăng trưởng bằng cách dựa vào
xuất khẩu lớn sang Mỹ. Việt Nam cũng đang như thế. Nhưng chiến lược này bắt đầu
không hiệu quả. Vì nước Mỹ không còn đủ khả năng tiêu xài nhiều như trước. Con số thống kê cho chúng ta thấy, Trung Quốc
đã có chiến lược investment driven (tập trung cho đầu tư). Nhưng khi nước Mỹ yếu
đi, không còn người mua, không có lý do để Trung Quốc theo đuổi chiến lược này
nữa. Phân bố trong GDP của Mỹ khá bình thường, nhưng của Trung Quốc thực sự rất
bất thường. Trung Quốc đầu tư rất lớn, nhưng tiêu dùng rất ít. Đây là 1 khoảng
cách chênh lệch lớn. Trước đây, khoảng cách này không phải là vấn đề, nhưng bây
giờ thì nó là 1 vấn đề không dễ chịu, vì nước Mỹ đã yếu đi.
Tờ báo
kinh tế hàng đầu thế giới – Finance Times tôi đọc hôm nay (28/8/2014) viết: 2 năm qua, Trung Quốc cho
ra đời số lượng và giá trị các nhà máy xi măng còn lớn hơn tổng toàn bộ số lượng
và giá trị các nhà máy xi măng mà nước Mỹ cho ra đời trong 100 năm qua. Đó là 1
năng lực đầu tư khổng lồ.
Nhưng
Trung Quốc không xuất khẩu được cho ai. Nên doanh nghiệp không trả được vốn cho
ngân hàng.
1 vấn đề
khác, 80% dân số Trung Quốc không có đủ thu nhập để tiêu dùng, vì dưới
$10/ngày. Họ không thể mua được những thứ mình đã sản xuất. Trung Quốc đầu tư
nhiều, nhưng đa số người dân không có đủ tiền để tiêu dùng. Vì vậy nền kinh tế
Trung Quốc gặp khủng hoảng.
Vậy, nền
kinh tế Trung Quốc sẽ chậm lại, hoặc sẽ sụp đổ. Giống như Mỹ năm 1930. Đây có
thể là cơ hội với Việt Nam.
Chính phủ
Trung Quốc tất nhiên đã dự đoán được điều này và đã có biện pháp chống đỡ:
-
Các
ngân hàng tăng dư nợ cho vay. Doanh nghiệp tiếp tục đầu tư xây nhà máy. Quả
bong bóng tiếp tục được thổi căng. Bạn biết đấy, ở Trung Quốc, có rất nhiều
thành phố ma – xây dựng ra thành phố, nhưng không hoạt động. => nguy cơ khủng
hoảng ngân hàng. Việt Nam cũng đã gặp vấn đề này 10 năm trước. Sự khác biệt là
qui mô kinh tế Trung Quốc cực lớn so với Việt Nam.
-
Chính
phủ tiếp tục cung tiền cho các ngân hàng (in tiền).
Qui
mô của nền kinh tế Trung Quốc so với Mỹ:
Năm
1980: 5%
Năm
2011: 70%
Người
ta dự đoán, 7 năm nữa, năm 2020: 100%
Sau
đó, nền kinh tế Trung Quốc sẽ vượt nền kinh tế Mỹ.
Nhưng
hãy nhìn qui mô nền kinh tế Nhật Bản 60 năm trước, so với Mỹ:
Từ
20% -> 70% (trước khi bong bóng ở Nhật nổ) -> 40% ngày nay
Liệu
bài học lịch sử có lặp lại với Trung Quốc? Nền kinh tế Trung Quốc có bị nổ quả
bóng tín dụng hay xẹp dần trong 20 năm kế tiếp giống Nhật? Giờ Nhật đang có nợ
=200% GDP. Chính phủ Trung Quốc sẽ làm tương tự để ngăn nền kinh tế của họ
không rơi vào đại suy thoái, nhưng cũng sẽ không phát triển quá nhanh như trước
kia được nữa, may mắn lắm mới có thể tăng trưởng 2-3%/năm.
Vậy,
tương lai này của kinh tế Trung Quốc ảnh hưởng gì tới thế giới?
-
Tăng
trưởng chậm lại sẽ làm các nền kinh tế khác suy yếu và chậm lại
-
Các
đồng tiền sẽ mất giá
-
Áp
lực giám phát trên toàn thế giới (do chi phí nhân công đã giảm từ $200 ở Mỹ
thành $10 ở Trung Quốc)
-
Vấn
đề với hòa bình thế giới (bạn biết đấy, khi nước Mỹ còn mua hàng và còn nợ lớn,
Trung Quốc sẽ nhắm mắt làm ngơ với nhiều hành động của Mỹ. Nhưng khi Mỹ không
còn mua hàng của họ nữa, cách xử sự của Trung Quốc đang và chắc chắn sẽ khác đi
rất nhiều. Hãy nhìn tình hình thế giới năm 2014 thì biết, đó mới chỉ là mở đầu.)
d.
Tương
lai cho các loại tài sản (dự báo ngắn hạn)
Hiện
tại, các chính phủ trên thế giới đều đang điểu khiển để thổi và giữ bong bóng
tín dụng tiếp tục căng.
-
Lãi
suất: lãi suất trái phiếu của Mỹ (là loại lãi suất an toàn nhất thế giới hiện
nay) đang là 2,4%/năm. Giá trái phiếu tăng thì lãi suất sẽ giảm. Chính phủ sẽ
kiểm soát được lãi suất nếu không lạm phát. Lãi suất thấp cũng là lí do để Bất
động sản tăng trưởng và nên kinh tế có cơ hội phát triển. Tóm lại Lãi suất sẽ
được duy trì ở mức thấp.
-
Chứng
khoán: Do thu nhập trung bình của dân Mỹ đang giảm xuống, nhu cầu tiêu dùng của
họ sẽ giảm. Do đó, chính phủ Mỹ sẽ phải làm cho thị trường chứng khoán tăng lên
để người dân có cảm giác mình giàu có, từ đó khuyến khích tiêu dùng và đầu tư
qua thị trường chứng khoán. Nền kinh tế sẽ có cảm giác tăng trưởng. Việc này rất
dễ dàng với chính phủ Mỹ. Vì họ đã làm như thế 5 năm rồi, nên không có lý do gì
để dừng lại.
-
Bất
động sản: Mỹ cần duy trì mức tăng trưởng bất động sản cao, tức là lãi suất cho
bất động sản phải rất thấp. Tuy nhiên không cẩn phải tăng quá nhanh(30% năm
2013 như thị trường chứng khoán). Chính phủ chỉ cần duy trì kích thích vừa đủ để
tăng trưởng. Nếu bạn đầu tư bất động sản ở Mỹ, thì đây chính là cơ hội tuyệt vời.
-
Vàng:
Vấn đề lớn nhất của vàng là không tạo dòng tiền (cashflow), nên dân Mỹ không hứng
thú. Với bất động sản, bạn còn có thể cho thuê kiếm thêm tiền hàng tháng. Chứng
khoán có thể giao dịch hay thu cổ tức định kỳ. Vàng chỉ để đó, không phát sinh
dòng tiền thụ động cho thu nhập của bạn.
-
Các
hàng hóa khác (bạc, dầu, lúa gạo…): rất khó nói, vì phải xem chi tiết cung – cầu.
Nhưng có 1 nguy cơ là giá bị thao túng. Vì qui mô của thị trường phái sinh đang
rất lớn (700 nghìn tỷ USD). Đâylà thị trường OTC – không chính thức => không
thể kiểm soát. Các ngân hàng lớn sử dụng công cụ phái sinh để thao túng lãi suất
và ngoại hối. Do đó, họ và những thế lực lớn hơn có thể sử dụng các công cụ
phái sinh để thao túng giá hàng hóa. Vì vậy, dù bạn có hiểu được bản chất của
hàng hóa, nhưng vẫn thua, vì không đối đầu được với các thế lực lớn có khả năng
thao túng giá mỗi loại hàng hóa.
-
Tiền
tệ: theo qui luật, nếu có thặng dư thì đồng tiền quốc gia đó sẽ tăng giá trị.
Nhưng hiện tại không như vậy. Nó còn phụ thuộc lãi suất. Quốc gia nào in tiền
nhiều nhất, tiền của nó sẽ mất giá nhiều nhất. Hiện nay, Nhật và Mỹ đang in tiền
nhiều nhất. Trong thời gian tới, đồng USD và đồng Yên sẽ tiếp tục mất giá. Đồng
bảng Anh cũng suy yếu. Đô la Úc cũng vậy. Riêng đồng Nhân dân tệ vẫn mạnh trong
ngắn hạn (dù nguy cơ khủng hoảng của Trung Quốc đang tới gần).