Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2016

Tìm kiếm sự khôn ngoan từ Darwin tới Munger: Ý nghĩa


HAI


Ý NGHĨA


Thuật ngữ tồi là kẻ thù của tư duy tốt.
-          Warren Buffett

Từ ngữ, định nghĩa, mệnh đề, câu, hay mục đích không nói với chúng ta bất kỳ điều gì. Chúng ta cần hiểu chúng có nghĩa là gì. Tương tự với tri thức. Tri thức chỉ có giá trị nếu nó hữu ích và cái gì đó chỉ hữu ích nếu chúng ta hiểu nó có ý nghĩa gì.
Cha của Richard Feynman, Melville, đã dạy con trai, sự khác nhau giữa biết tên của cái gì và biết nó sẽ ra sao:
Nhìn con chim đó ư? Chỉ là một cây nấm có cổ họng màu nâu, nhưng ở Đức nó được gọi là “halzenfugel”, và ở Trung quốc họ gọi nó là “chung ling”, và thậm chí nếu con biết tất cả các tên gọi của nó, con vẫn chả biết gì về con chim đó. Con chỉ biết điều gì đó về các dân tộc; cái họ gọi con chim.
Giờ cây nấm đó hót lên, và dạy những con trẻ hơn bay lượn, rồi bay rất nhiều dặm đi xa suốt mùa hè dọc miền quê, và không ai biết nó làm điều đó như thế nào.
Điều này có nói cho chúng ta ý nghĩa của việc học hỏi không? Các từ ngữ hay cái tên không tạo thành tri thức. Biết tên của thứ gì đó không giúp chúng ta hiểu nó. Vì hiểu ám chỉ hành động và sự hoàn thành, một cách để hiểu là nhìn những gì xảy ra. Feynman minh họa:
Có một bức tranh một con chó, con chó đồ chơi quấn chỉ, và một bàn tay đến máy đánh chỉ, rồi sau đó con chó có thể dịch chuyển. Bên dưới bức tranh cuối, có viết “Cái gì làm nó chuyển động?”… câu trả lời tôi đang cố gắng học là “năng lượng làm nó chuyển động”…
Cũng tốt thôi khi nói “Chúa làm nó chuyển động” hay “lý trí làm nó chuyển động”, hay “khả năng chuyển động làm nó chuyển động”. (Thực tế ai đó cũng đúng khi nói “năng lượng làm nó dừng lại.”)
Hãy nhìn theo cách này: Đó chỉ là định nghĩa về năng lượng. Nó nên được đảo lại. Chúng ta nên nói khi có gì đó có thể chuyển động, nó mang năng lượng trong mình, chứ không phải “thứ khiến nó chuyển động là năng lượng.”…
Nếu bạn hỏi một đứa trẻ điều gì khiến con chó đồ chơi di chuyển, bạn nên nghĩ về cái mà một người bình thường có thể trả lời. Câu trả lời là bạn thổi gió xuân: nó cố không thổi và đẩy dây cương xung quanh. Thật là một cách tốt để bắt đầu một bài giảng khoa học. Hãy tháo đồ chơi, và xem nó hoạt động thế nào…
Tôi nghĩ, với bài học số một, học một công thức thần bí để trả lời cho câu hỏi là rất tệ.

Feynman đưa ra một ví dụ khác về định nghĩa trống rỗng: “Đế giày của bạn đã mòn do ma sát.” Tri thức thực tế là: “Da giầy bị mòn vì nó chà lên vỉa hè và các bậc nhỏ làm rơi ra vỉa hè những màu da nhỏ và làm lớp da giảm đi.”
Feynman cung cấp một bài kiểm tra chúng ta có thể làm để kiểm nghiệm lại hiểu biết của bản thân:
Không sử dụng các từ mới mà bạn vừa học được, hãy cố gắng nói lại thứ bạn vừa học theo ngôn ngữ của chính bạn. Không sử dụng từ “năng lượng”, hãy nói cho tôi những gì bạn biết bây giờ về chuyển động của con chó.
Hiểu “ý nghĩa” đòi hỏi chúng ta quan sát và hỏi những câu cơ bản. Ví dụ về các câu hỏi là:
-          Ý nghĩa các từ: Từ đó có nghĩa là gì? Nó ám chỉ điều gì? Nó có ý nghĩa về cái gì đó không? Chúng ta có thể dịch từ, ý tưởng hay câu sang tình huống bình thường để nói với chúng ta điều gì đó không? Cách diễn đạt luôn là tương đối. Chúng ta phải đánh giá và đo nó với một cái gì khác.
-          Ý nghĩa của một sự kiện: Hiệu ứng nào được tạo ra? Điều gì thực sự xảy ra khi sử dụng từ ngữ bình thường? Nó đang làm gì? Cái gì đã được hoàn thành? Nó xảy ra dưới điều kiện nào? Nó có ý nghĩa nào khác?
-          Nguyên nhân: Chuyện gì xảy ra ở đây và tại sao? Nó đang vận hành? Tại sao thế và tại sao không? Tại sao nó đã xảy ra? Tại sao nó hoạt động ở đây nhưng không hoạt động ở chỗ kia? Nó có thể xảy ra như thế nào? Cơ chế sau nó là gì? Điều gì khiến nó xảy ra?
-          Ngụ ý: Hậu quả của quan sát này, sự kiện hay trải nghiệm này là gì? Nó ám chỉ điều gì?
-          Mục đích: Tại sao chúng ta nên làm điều đó? Tại sao tôi muốn điều đó xảy ra?
-          Lý do: Tại sao nó tốt hơn cái kia?
-          Sự hữu dụng: Ứng dụng của nó là gì? Nó có nghĩa là có gì đó liên hệ với cái tôi muốn đạt được phải không?
Nhà vật lý học người Đan Mạch Niels Bohr nói: “Đừng bao giờ mô tả bản thân rõ ràng hơn bạn có thể nghĩ.” Khi mô tả cái gì đó, hãy nói về nó như nó thực sự thế và dùng những từ ngữ mọi người hiểu được, và theo quan điểm của những ý tưởng mà họ quen thuộc. Albert Einstein nói: “Nếu bạn không thể giải thích nó đơn giản, bạn không hiểu nó đủ rõ ràng.” Hãy nhớ điểm này. Hãy hỏi: Tôi muốn nói gì? Một lý do để gây nhầm lẫn trong giao tiếp có thể là từ ngữ mang ý nghĩa về một thứ với bạn và một thứ khác với người bạn đang nói chuyện.
Hãy hỏi “Xảy ra chuyện gì?”
Tại sao Warren Buffett và Charles Munger đã thành công làm tăng giá trị sổ sách của Berkshire Hathaway lên 3700 lần so với 42 năm trước? Tại sao nhiều người mất tiền đầu tư?
Lý do chúng ta đầu tư vào tài sản nền kinh tế như kinh doanh, xây dựng căn hộ, nông trại, hay trái phiếu là kiếm tiền. Nhưng điều đó có nghĩa là gì? Cái gì tạo ra tiền? Chuyện gì xảy ra khi chúng ta kiếm tiền?

Theo đuổi tiền mặt. “Bao nhiêu tiền mặt tôi sẽ nhận được và khi nào tôi nhận nó?”
Điều xảy ra khi chúng ta kiếm tiền là chúng ta nhận được nhiều tiền trở lại hơn trong tương lai so với lúc chúng ta đầu tư hôm nay. Ví dụ, chúng ta đầu tư $100 và nhận về $150.
Điều gì quyết định lợi nhuận từ việc đầu tư vào một tài sản kinh tế? Giá chúng ta trả, bao nhiêu tiền chúng ta thu về, và khi nào chúng ta nhận về. Có một sự khác nhau lớn nếu chúng ta nhận về $150 sau 2 năm hoặc sau 10 năm. Sự khác biệt trong lợi nhuận hằng năm là 22% so với 4%. Lợi nhuận của chúng ta có thể được đo so với lợi nhuận kỳ vọng từ các cơ hội đầu tư sẵn có khác. Có nghĩa là giá trị một tài sản kinh tế bị ảnh hưởng bởi lãi suất. Nếu lãi suất thay đổi, giá trị thay đổi. Lãi suất càng cao, giá trị càng thấp.
Nếu chúng ta biết chắc chắn chúng ta có thể thu về $10 tiền mặt mỗi năm trong 5 năm và chúng ta sử dụng lãi suất trái phiếu chính phủ phi rủi ro 6% làm tỷ lệ chiết khấu, thì tài sản có giá trị khoảng $42. Điều này có nghĩa là nếu chúng ta trả $42, chúng ta nhận được tỷ suất lợi nhuận trung bình hằng năm là 6%. Nếu chúng ta trả $30, lợi nhuận của chúng ta tăng lên 20%. Sự chênh lệch giữa giá trị của tài sản kinh tế (ví dụ $42) và giá chúng ta trả càng lớn, lợi nhuận hằng năm của chúng ta càng cao.
Warren Buffett nói, “Chúng tôi sử dụng lãi suất phi rủi ro chỉ để cân bằng một mục này với một mục khác. Nói cách khác, chúng tôi đang tìm kiếm bất kỳ thứ gì là thu hút nhất. Để ước lượng giá trị hiện tại của thứ gì đó, chúng tôi sẽ sử dụng một con số. Và rõ ràng là, chúng tôi luôn có thể mua trái phiếu chính phủ. Do đó, nó trở thành tỷ lệ thước đo… để so sánh đơn giản tất cả các loại cơ hội đầu tư trên quang phổ: các giếng dầu, nông trại, bất kỳ cái gì có thể.”

Đừng trả nhiều hơn những gì bạn nhận lại được theo giá trị.
Benjamin Franklin nói: “Tôi thấy rằng phần lớn những khốn khổ của loài người đều đến từ những dự đoán sai của họ về giá trị của nhiều thứ, và từ việc họ đưa cho những thứ sáo rỗng quá nhiều.” Một trong những câu châm ngôn của Francois Duc de la Rochefoucauld là: “Trình độ của năng lực chứa tri thức uyên thâm về giá trị thực của mọi thứ.”
Câu hỏi then chốt chúng ta nên hỏi khi đầu tư tiền bạc vào các tài sản kinh tế là: Lượng tiền mặt kỳ vọng trong tương lai chúng ta có thể lấy được là bao nhiêu và khi nào nó xuất hiện? Chúng ta có thể biết một tài sản giá trị bao nhiêu và hình thức lợi nhuận chúng ta muốn với một mức giá cho trước như thế nào? Warren Buffett nói: “Cuối cùng, điều bạn phải quyết định là bạn sẽ định giá vụ kinh doanh ở mức $400 triệu, $600 triệu hay $800 triệu – rồi so sánh nó với giá.”

John muốn mua một cửa hàng kem (không vấn đề nếu nó là một cửa hàng kem nhỏ hay 100 cổ phần trong một tỷ đô la kinh doanh, lý luận liên quan cũng tương tự).
Đó là một giao dịch tốt chứ? Nó phụ thuộc vào giá mà John trả, và giá trị chiết khấu của tiền mặt có thể thu về từ cửa hàng kem trong suốt cuộc đời hoạt động còn lại của nó. John có thể thu về bao nhiêu tiền mặt? Anh ấy có thể thu về khi nào? Nó phụ thuộc vào tổng số và thời điểm của dòng tiền tự do cửa hàng tạo ra hoặc bao nhiêu tiền mặt anh ấy có thể thu về (và khi nào) mà không làm tổn thương vị trí hiện tại của cửa hàng trước đối thủ cạnh tranh.
Warren Buffett nói về các con số “dòng tiền” thường được nhấn mạnh trong các báo cáo của Wall Street:
Những con số này bình thường bao gồm (a) [các doanh thu được báo cáo] cộng với (b) [khấu hao, suy giảm, giá trị hao mòn, và vài loại phí phi tiền mặt khác] – nhưng không trừ đi (c) [tổng số chi phí vốn hóa trung bình hằng năm cho nhà máy và trang thiết bị, v.v…] Hầu hết các tài liệu bán hàng của các ngân hàng đầu tư cũng làm nổi bật trò giới thiệu lừa gạt kiểu này. Điều đó ám chỉ rằng vụ kinh doanh được mời chào là đối tác thương mại của Pyramids (các kim tự tháp) – nghệ thuật vĩnh hằng, không bao giờ cần phải thay thế, cải tiến hay tân trang lại.
Một số tiền mặt luôn là cần thiết để tái đầu tư trong các chi phí vốn cho nhà máy và trang thiết bị, vốn vận hành chỉ để cho phép doanh nghiệp tồn tại trong kinh doanh hoặc duy trì khối lượng và vị trí cạnh tranh dài hạn của nó. Một ví dụ cổ điển về một cửa hàng bán lẻ cần lắp đặt điều hòa do các cửa hàng khác cũng đầu tư như thế. Nó không sinh ra thêm việc kinh doanh nào, nhưng không có nó, cửa hàng có thể mất khách hàng vào tay đối thủ cạnh tranh.
Buffett cũng nói rằng chúng ta phải nhìn vào những con số chắc chắn: “Khi các công ty hoặc các nhà đầu tư chuyên nghiệp sử dụng thuật ngữ như “EBITDA” và “pro forma”, họ muốn bạn chấp nhận những khái niệm bị thiếu sót nguy hiểm đó một cách không suy nghĩ.”
Ông tiếp tục:
Việc gióng trống thổi kèn cho EBITDA (Earnings Before Interest, Taxes, Depreciation and Amortization – Lợi nhuận trước lãi suất, thuế, khấu hao và giá trị hao mòn) là một hành động đặc biệt nguy hại. Làm điều đó ám chỉ rằng khấu hao không phải là một chi phí thực sự, mà cho rằng nó là một khoản phí “phi tiền mặt”. Thật vô nghĩa. Sự thực là, khấu hao là một chi phí không hấp dẫn đặc biệt vì lượng tiền mặt mà nó đại diện đã được trả trước đó, trước khi tài sản thu được mang đến lợi ích nào đó cho kinh doanh. Hãy tưởng tượng, nếu là bạn, tại thời điểm bắt đầu của năm nay, công ty đã trả cho các nhân viên của nó toàn bộ thu nhập họ đóng góp 10 năm tiếp theo (theo cách họ có thể chi ra tiền mặt cho một tài sản cố định hữu dụng trong 10 năm). Trong 9 năm sau, phần bồi hoàn có thể là một chi phí “phi tiền mặt” – sự sụt giảm của tài sản bồi hoàn đã trả trước trong năm nay. Liệu ai đó quan tâm tranh cãi rằng việc ghi chép chi phí từ năm 2 đến năm 10 đơn giản chỉ là hình thức sổ sách?
Nhưng lợi nhuận không phải là vấn đề đối với cổ đông? John Burr Williams viết trong cuốn sách năm 1938 của ông ấy, The Theory of Investment Value (Học thuyết giá trị đầu tư):
Nếu lợi nhuận không trả bằng cổ tức được tái đầu tư thành công với mức lãi kép cho lợi ích các cổ đông …thì những lợi nhuận này sẽ sinh cổ tức sau đó; nếu không, họ bị mất tiền… Lợi nhuận chỉ là phương tiện đi đến kết cục, và phương tiện này không nên mắc sai lầm lúc kết thúc. Do đó, chúng ta phải nói rằng một cổ phiếu đạt được giá trị của nó nhờ cổ tức, chứ không phải lợi nhuận. Nói ngắn gọn, một cổ phiếu chỉ có giá trị bằng cái ta có thể thu về được từ nó… vì chúng ta đang thảo luận đầu tư thường xuyên, không phải giao dịch đầu cơ, và cổ tức hằng năm thu được, chứ không phải thu nhập chỉ trong chốc lát.
Warren Buffett thêm vào: “Nếu ai đó đang tái đầu tư toàn bộ dòng tiền của họ, họ sẽ dễ có các con số rất lớn trên con đường này vì một tài sản tài chính phải mang về cho bạn nhiều tiền mặt trong một ngày để đánh giá lượng tiền mặt dùng cho nó bây giờ.”

Giá trị là một con số chính xác?
Warren Buffett nói:
Giá trị nội tại là một ước lượng hơn là một con số chính xác, và hơn nữa đó là một ước lượng phải bị thay đổi nếu lãi suất di chuyển hay các dự báo cho dòng tiền tương lai bị sửa lại. Hai người nhìn vào cùng một tập các hiện tượng thực tế, hơn nữa – và điều này có thể áp dụng cho Charlie và tôi – hầu như chắc chắn sẽ cho ra những con số giá trị nội tại khác nhau dù nhỏ nhất.
Sử dụng các con số chính xác, thực tế, là ngu ngốc; làm việc với một dải các khả năng là hướng tốt hơn.

Có sự khác biệt giữa cách chúng ta định giá các vụ kinh doanh khác nhau không?
Một công ty có mua sắm trang thiết bị viễn thông, ô tô, hoặc kẹo hay không, vẫn có cùng một câu hỏi: Chúng ta sẽ nhận được bao nhiêu tiền mặt và khi nào? Cái tên đính kèm vào khoản tiền mặt không phải là vấn đề. Warren Buffett nói:
Điều bạn đang cố làm là nhìn vào toàn bộ tiền mặt vụ kinh doanh sẽ sinh ra giữa bây giờ và ngày đánh giá, rồi chiết khấu nó trở về hiện tại nhờ sử dụng tỷ lệ chiết khấu hợp lý và mua thật rẻ so với con số tính ra. Dù tiền đến từ một ngân hàng, một công ty Internet, công ty gạch… toàn bộ tiền được tiêu như nhau. Tại sao phải trả nhiều hơn cho một công ty viễn thông hơn là một công ty gạch? Tiền không biết nó đến từ đâu. Thật vô nghĩa khi trả nhiều hơn cho một vụ kinh doanh lôi cuốn nếu bạn nhận về cùng một lượng tiền, nhưng bạn đã bỏ ra nhiều hơn số đó. Cùng lượng tiền đó bạn có thể thu được từ một công ty gạch với chi phí thấp hơn. Câu hỏi là cái gì là đặc trưng kinh tế của ngân hàng, công ty Internet hay công ty gạch. Cái đó sẽ nói cho bạn chúng có thể sinh ra bao nhiêu tiền mặt thời gian dài trong tương lai.

Chuyện gì đây nếu John cần đầu tư nhiều tiền mặt hơn vào cửa hàng?
Chúng ta phải xem xét tổng số và thời điểm tiền vào và ra khỏi cửa hàng. Như nhiều nhà đầu tư vào các công ty “tăng trưởng” nhận thức điều này rất rõ, vài vụ kinh doanh có vẻ cần cung không giới hạn lượng tiền mặt mới. Warren Buffett nói, “Tăng trưởng có thể phá hủy giá trị nếu nó đòi hỏi đầu vào tiền mặt trong những năm đầu của một dự án hay một doanh nghiệp vượt quá giá trị tiền mặt chiết khấu mà những tài sản đó sẽ sinh ra trong những năm sau này…Tăng trưởng đơn giản là một thành phần – thường là cộng thêm, đôi khi là trừ đi – trong đẳng thức giá trị.”
Nhưng không dễ sai lầm khi ước lượng khối lượng và thời điểm của các dòng tiền tương lai vào và ra của một vụ kinh doanh chứ?
Tại Berkshire, họ xử lý vấn đề này theo hai cách. Warren Buffett nói
Trước tiên, chúng tôi cố gắng bám sát những vụ kinh doanh chúng tôi tin tưởng đã hiểu rõ. Có nghĩa là chúng phải có đặc điểm đơn giản và ổn định tương đối. Nếu một vụ kinh doanh phức tạp hoặc có thể thay đổi liên tục, chúng tôi không đủ thông minh để tiên đoán dòng tiền tương lai. Thật tình cờ, thiếu sót đó không làm chúng tôi bận tâm. Cái tính toán đối với hầu hết mọi người trong đầu tư không phải là họ biết bao nhiêu, mà là thực tế họ xác định họ không biết bao nhiêu. Một nhà đầu tư cần làm vài thứ ngay để anh ta hay cô ta tránh được những sai lầm lớn.
Thứ hai, và quan trọng tương đương, chúng tôi đòi hỏi một biên độ an toàn trong giá mua. Nếu chúng tôi tính toán giá trị của một cổ phiếu thường chỉ cao hơn chút ít so với giá của nó, chúng tôi sẽ không quan tâm đến việc mua nó. Chúng tôi tin vào nguyên tắc biên độ an toàn này, nó cũng được Ben Graham nhấn mạnh rõ ràng, là nền tảng của đầu tư thành công.
Warren Buffett cũng nói rằng, “chúng tôi cố gắng… duy trì các ước lượng thận trọng.” Ông nói tiếp:
…lấy tất cả các biến số và tính một cách thận trọng hợp lý…đừng tập trung quá nhiều vào việc bảo hộ cực hạn cho một biến số, theo thuật ngữ của tỷ lệ chiết khấu và tỷ lệ tăng trưởng và v.v…; nhưng cố gắng thực tế như có thể với những con số này, bất kỳ sai lầm nào cũng có thể từ bên bảo thủ. Và sau đó khi bạn đã nhận được chúng, hãy áp dụng biên độ an toàn.
Berkshire làm tương tự trong bảo hiểm. Buffett đưa ra một ví dụ:
Nếu chúng tôi cố tính ra cái chúng tôi nên trả, cho khả năng một trận động đất 6.0 độ richter ở California, chúng tôi biết trong thế kỷ trước, có 26 trận động đất hoặc hơn ở California được ghi nhận 6.0 độ richter hoặc cao hơn. Và hãy quên việc liệu chúng xảy ra ở các vùng xa hay không. Chỉ nói rằng chúng tôi đang viết một chính sách thanh toán cho động đất 6.0 richter hoặc hơn ở California, bất chấp nó xảy ra ở sa mạc hay không phá hư gì. Vâng, chúng tôi có thể nhìn vào lịch sử và nói, “Tốt rồi, có 26 vụ ở thế kỷ trước.”
Chúng tôi có thể giả thiết chắc chắn một con số lớn hơn một chút trong thế kỷ này. Đó chỉ là bản tính tự nhiên của chúng tôi thôi. Tuy nhiên, chúng tôi không đặt giả thuyết là 50 – vì nếu thế, chúng tôi không thể kinh doanh được. Và chúng tôi đã giả thiết cao hơn một chút. Nếu tôi tự định giá, có lẽ tôi sẽ nói, có khoảng 30 – hoặc có lẽ 32 hay tương tự.
Và sau đó tôi muốn đặt phí bảo hiểm vào đó, kết hợp thành một biên độ an toàn. Nói cách khác, nếu tôi tính tỷ lệ cụ thể cho 32 vụ là $1 triệu, tôi có lẽ muốn thu nhiều hơn $1 triệu để xây dựng biên độ an toàn. Nhưng tôi muốn thận trọng trong tất cả các cấp độ - và cuối cùng tôi muốn có một con số biên độ an toàn cụ thể.

John có thể hy vọng cửa hàng đáng giá hợp lý bao nhiêu?
John đã trả bao nhiêu cho cửa hàng? Dòng tiền tự do trong tương lai có thể được kỳ vọng hợp lý như thế nào? John có thể thu về bao nhiêu tiền mặt và khi nào?
Warren Buffett nói, “Bạn muốn cố tính toán bạn bỏ ra bao nhiêu hiện tại và bạn có khả năng thu về bao nhiêu theo thời gian, bạn cảm thấy thu về chắc chắn đến đâu và so sánh với các lựa chọn khác như thế nào.” Ông tiếp tục: “Với tỷ lệ chiết khấu của chúng tôi, cơ bản chúng tôi nghĩ theo thuật ngữ của tỷ lệ dài hạn từ chính phủ … Nhưng trong những lần có vẻ như tỷ lệ rất thấp, chúng tôi sử dụng tỷ lệ cao hơn một chút.” Buffett cũng nói, “Và tỷ lệ chiết khấu không trả cho bạn tỷ lệ cao như nó cần phải làm thế.”
Năm 2003, Warren Buffett nói, “Chúng tôi thích sở hữu cổ phiếu thường – nếu chúng có thể được mua với mức giá hấp dẫn… Tuy nhiên, trừ khi chúng tôi nhìn thấy xác suất rất cao của lợi nhuận trước thuế ít nhất 10%, chúng tôi sẽ ngồi vào trong hàng.”
Hãy giả thiết dựa trên lịch sử của cửa hàng và kỳ vọng điều kiện tương tự trong tương lai, John ước lượng rằng anh có thể thu được $300,000 tiền mặt mỗi năm. Biết anh luôn có thể mua được trái phiếu chính phủ phi rủi ro, John sử dụng lãi suất trái phiếu 6% làm tỷ lệ chiết khấu. Giá trị của cửa hàng do đó là $5 triệu ($300,000/0.06).
Bất kỳ cái gì anh ấy có thể trả dưới con số này, đều làm tăng lợi nhuận kỳ vọng. Nhưng vì tiền mặt từ vụ kinh doanh không thể chắc chắn như tiền mặt từ trái phiếu chính phủ, tại sao John nên trả $5 triệu? Tại sao John dành thời gian và công sức đầu tư vào cái gì đó cho anh ấy cùng lợi nhuận với việc không làm gì? Và vì John không thể biết chắc chắn liệu dòng tiền kỳ vọng sẽ trở về như anh ấy muốn hay không, anh ấy nên mua cửa hàng tại mức giá khiến anh ấy có biên độ an toàn cao.
Nếu John đòi tỷ lệ hoàn vốn là 10%, giá trị của cửa hàng là $3 triệu. Mỗi người nên sử dụng tỷ lệ hoàn vốn của chính mình. Nhưng dù bạn dùng tỷ lệ chiết khấu nào, chúng ta luôn đòi hỏi chiết khấu bổ sung cho giá trị đã ước tính để minh chứng cho quyết định đầu tư.
Chúng ta không nên tham gia vào những thứ rõ ràng sai lầm. Warren Buffett nói, “Chúng tôi tin rằng nếu bạn có thể xác định nó, bạn đang đùa giỡn với chính mình. Do đó, chúng tôi nghĩ khi chúng tôi ra quyết định, phải có một biên độ an toàn – nó phải hấp dẫn – và bạn không phải quan tâm đến tận ba số thập phân.” Ông tiếp tục, “Chúng tôi rất không chính xác…Chúng tôi chắc chắn bao nhiêu mới là điều quan trọng nhất. Bạn có thể ngạc nhiên sao chúng tôi lại không chính xác đến như vậy.” Charles Munger nói, “Chúng tôi không bao giờ ngồi xuống, chạy cho ra các con số và giảm giá nó trở lại tới giá trị hiện tại ròng… Quyết định nên rõ ràng.”
Chúng ta có thể sử dụng bất kỳ tỷ lệ chiết khấu nào chúng ta đòi hỏi và chúng ta luôn có thể so sánh các cơ hội đầu tư với tỷ lệ tài sản dài hạn. Nhưng không có điểm nào để tính toán giá trị của thứ không có khả năng tiên đoán được. Chúng ta cần một mức độ chắc chắn nào đó. Hãy hỏi: Tôi có bao nhiêu tin cậy vào những con số này?
Chúng ta không thể bồi hoàn những gì chúng ta không thể tiên đoán bằng tỷ lệ chiết khấu cao hơn. Warren Buffett nói:
Khi chúng tôi nhìn vào tương lai các vụ kinh doanh, chúng tôi nhìn vào độ rủi ro như một dạng van đi/không đi. Nói cách khác, nếu chúng tôi nghĩ rằng đơn giản chúng tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra trong tương lai, không có nghĩa nó rủi ro với tất cả mọi người. Nó có nghĩa là chúng tôi không biết – và nó rủi ro với chúng tôi. Có thể nó không rủi ro với người khác – người hiểu rõ việc kinh doanh này.
Tuy nhiên, trong trường hợp đó, chúng tôi sẽ từ bỏ. Chúng tôi không cố tiên đoán những thứ đó. Chúng tôi không nói, “Vâng, chúng tôi không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Do đó, chúng tôi sẽ chiết khấu dòng tiền mà chúng tôi không biết là 9% thay vì 7%.” Đó không phải là cách chúng tôi hướng tới.
Khi vượt qua bài trắc nghiệm mức ngưỡng trở thành cái gì đó mà chúng tôi cảm thấy hoàn toàn chắc chắn, chúng tôi có xu hướng áp dụng cùng yếu tố chiết khấu cho mọi thứ. Và chúng tôi cố gắng chỉ mua những vụ kinh doanh mà chúng tôi hoàn toàn chắc chắn.

John có nên luôn luôn lấy về bất kỳ lượng tiền mặt nào anh có thể không?
Nó phụ thuộc vào liệu lợi nhuận từ việc giữ tiền mặt trong vụ kinh doanh có cao hơn lợi nhuận John thu được nếu anh ấy lấy tiền ra và đầu tư vào một chỗ nào đó khác. Tại sao John muốn lấy nó ra nếu anh ấy có thể tái đầu tư tiền mặt trong vụ kinh doanh này với mức lợi nhuận cao hơn 6%? Và tại sao anh ấy nên lấy tiền ra nếu anh ấy không thể tái đầu tư nó trong vụ kinh doanh đó với lợi nhuận cao hơn 6%?
Ở đây có sự khác biệt lớn giữa một công ty John kiểm soát và một công ty đại chúng John chỉ sở hữu một phần kinh doanh. Anh ấy không thể kiểm soát khi lấy tiền mặt ra khỏi một công ty đại chúng. Cả công ty đại chúng và tư nhân, tiền mặt có thể được tái đầu tư tại một mức lợi nhuận tầm thường hoặc vào những ý tưởng không làm việc. Lịch sử cho thấy nhiều lần tiền mặt được tái đầu tư đều gây lãng phí và việc thanh toán sẽ tốt hơn.
Cửa hàng sẽ sinh ra dòng tiền bao nhiêu hầu như được xác định bởi 3 biến số: (1) Bán hàng – bao nhiêu đơn vị kem sẽ được bán với mức giá nào? (2) Chi phí hoạt động – tốn bao nhiêu tiền để làm kem và dẫn dắt việc kinh doanh? (3) Vốn được đầu tư – cần bao nhiêu vốn để dẫn dắt kinh doanh? Vốn được tài trợ với cấp độ nào từ nợ so với tài sản và chi phí bao nhiêu?
Những biến số này quyết định lợi nhuận việc kinh doanh kiếm được trên vốn được đầu tư cho cửa hàng. Bán hàng, các chi phí và vốn cần có được xác định rộng hơn bởi nhu cầu, đối thủ cạnh tranh từ các sản phẩm tương tự hay sản phẩm thay thế, các lợi thế so với đối thủ và sự phát triển bền vững, chi phí, hiệu suất vốn, và hiệu quả hoạt động của họ. Điều đó có ý nghĩa gì? Hãy dịch nó sang một câu hỏi đơn giản: Cửa hàng kem có thứ người ta cần hoặc muốn bây giờ và tương lai (cầu), mà không ai khác có (lợi thế cạnh tranh) hoặc có thể sao chép hoặc lấy được bây giờ và trong tương lai (bền vững) hay không; và những lợi thế đó có thể chuyển thành giá trị kinh doanh không?
Tại sao khách hàng muốn mua kem từ cửa hàng này hơn so với từ nơi khác? Đó là vị trí, chủng loại, hương vị, dịch vụ, giá cả? Họ liên kết cửa hàng và sản phẩm của nó với cái gì? Điều gì quan trọng với khách hàng? Tại sao họ quay lại? Động lực của họ có bị thay đổi theo năm tháng hoặc họ có khả năng thay đổi trong 10 năm tới không? Những kích thích nào có thể khiến khách hàng chuyển đi hay rời bỏ cửa hàng? Có nguy cơ nào không?
Warren Buffett minh họa suy nghĩ của ông:
Nếu bạn và tôi đang nhìn vào việc kinh doanh kẹo cao su (và chúng tôi không sở hữu Wrigley’s, nên tôi dùng nó khá thường xuyên), bạn nên lấy một con số mà bạn kỳ vọng lượng bán kẹo cao su sẽ tăng trưởng trong 10-20 năm tới và bạn đưa tôi các kỳ vọng của bạn về việc Wrigley’s có độ linh hoạt bao nhiêu trong định giá, và có bao nhiêu nguy hiểm khi thị phần của Wrigley’s bị giảm xuống đáng kể - bạn nên đi vào những cái đó… Chúng ta đang đánh giá một cái hào sâu, độ đàn hồi của giá tương tác với cái hào theo vài cách nào đó, khả năng cầu thay đổi trong tương lai hoặc việc quản lý trở nên sáng lạn với lượng tiền mặt sinh ra hoặc trở nên ngu ngốc vì nó…
Tôi muốn nói hầu hết bạn có thể đo được độ mạnh của việc kinh doanh theo thời gian bằng sự khổ sở các nhà quản lý của nó trải qua để xác định tăng giá có thể được lâu dài hay không… Bạn có thể học được nhiều về độ bền vững của một vụ kinh doanh trong nền kinh tế bằng cách quan sát hành vi của giá.

Các đối thủ cạnh tranh có thể khiến sản phẩm của cửa hàng trở nên lỗi thời hoặc sao chép lợi thế của nó không?
Nếu ai đó đặt một cửa hàng cạnh cửa hàng của John và khách hàng không thấy sự khác biệt nào giữa sản phẩm và dịch vụ của hai cửa hàng, khách hàng có xu hướng sẽ mua kem ở cửa hàng giá thấp hơn.
John liệu vẫn kiếm được tiền nếu có giá thấp nhất chứ? Đúng, nếu cầu vượt quá cung hoặc nếu John có thể sản xuất và bán kem với chi phí thấp hơn đối thủ, giả thiết tất nhiên là cạnh tranh không muốn khiến việc kinh doanh tới thua lỗ. John phải vận hành cửa hàng với chi phí và hiệu suất vốn cực hạn so với đối thủ. Chi phí thấp hơn và sử dụng vốn tốt hơn cho phép anh ấy giữ được mức giá thấp nhất và vẫn kiếm được tiền.

Quản lý cửa hàng quan trọng như thế nào?
Bao nhiêu tiền mặt và khi nào John thu được nó cũng là một chức năng thuộc về khả năng và tính thanh liêm của quản lý. Quản lý có thể tác động đến lợi nhuận của chủ sở hữu bằng cách tác động lên lợi nhuận kinh doanh. Nó có thể tác động nơi vốn được sử dụng, và dưới điều kiện tiền được tái đầu tư.
Khi nó đạt tới trạng thái toàn vẹn, Warren Buffett nói đó là tốt nhất:
Một người bạn của tôi nói rằng khi thuê người, họ tìm kiếm ba thứ: thông minh, năng lượng và nhân cách. Nếu họ không có cái cuối cùng, hai cái đầu tiên sẽ giết bạn, vì đó là sự thật, nếu bạn định thuê ai đó không có nhân cách, bạn thực sự nên hy vọng họ trì độn hoặc lười biếng, vì nếu họ thông minh và đầy năng lượng, họ sẽ tặng cho bạn tất cả các loại rắc rối.
Một việc kinh doanh có thể có biên độ an toàn về giá lớn nhưng không được quản lý tốt và trung thực, biên độ này có lẽ cũng kết thúc trong ảo tưởng. Lịch sử có đầy những câu chuyện về các thương vụ lớn bị hủy do quản lý tồi. Hãy hỏi: Công ty có trang bị một đội ngũ quản lý đủ tài năng và trung thực tập trung vào giá trị không? Họ sẽ dùng dòng tiền vì lợi ích của chủ sở hữu chứ?
Nhưng trong vài vụ kinh doanh, đội ngũ quản lý chói sáng cũng không giúp gì được. Warren Buffett chia sẻ kinh nghiệm của ông:
Kết luận của tôi từ kinh nghiệm bản thân và từ nhiều quan sát về các vụ kinh doanh khác là một bản ghi quản lý tốt (đo bằng lợi nhuận kinh tế) là một chức năng đối với con thuyền kinh doanh bạn nhảy vào, hơn là việc bạn chèo lái hiệu quả bao nhiêu (dù thông minh và nỗ lực giúp cân nhắc, tất nhiên, trong bất kỳ vụ kinh doanh nào, tốt hay xấu). Vài năm trước tôi đã viết: “Khi đội quản lý có tiếng tăm lừng lẫy giải quyết một vụ kinh doanh có tiếng nghèo nàn về căn bản, tiếng tăm của việc kinh doanh đó sẽ duy trì nguyên vẹn.” Không gì thay đổi quan điểm của tôi về vấn đề này. Bạn nên tự tìm cách trên con thuyền bị rò rỉ kinh niên đó, năng lượng cống hiến cho việc đổi các bình đựng nước có vẻ hiệu quả hơn năng lượng dùng để vá các lỗ rò.
Hãy lấy một ví dụ khác cho “chuyện gì xảy ra”. Lần này chúng ta mô tả một mô hình hóa học và cho một ví dụ về từ dùng sai – entropy.
Lúc 3.54 am, thành phố Los Angeles bị đánh thức bởi một trận động đất 6.5 độ ricter.
Tại sao trận động đất phá hủy nhiều kiến trúc và khiến nhiều người chết? Tại sao cà phê nóng không giữ nguyên trạng thái nóng? Câu trả lời cho những câu hỏi trên đi vào trọng tâm của mọi sự kiện tự phát (ý nghĩa trong hóa học là “bởi chính nó, không cần đầu vào năng lượng tác động”), vật lý hay hóa học trong cuộc sống của chúng ta. Độ ấm trong một ly đồ uống nóng do các phân tử chuyển động nhanh. Chúng va chạm với các phân tử chuyển động chậm hơn trong môi trường (lạnh hơn tương đối) và khiến những phân tử chậm hơn này tăng tốc. Năng lượng tỏa ra từ chất lỏng nóng tới chiếc ly, không khí, và theo các dòng không khí tới những nơi xa. Đó là bản chất của năng lượng.
Khoảnh khắc ta thả rơi quả bóng lên mặt sàn, năng lượng của nó trở thành động năng hay năng lượng để chuyển động. Nhưng thuật ngữ không quan trọng. Những gì xảy ra mới quan trọng. Toàn bộ năng lượng có xu hướng trải rộng, phân tán, nếu nó không bị việc đó cản trở. Điều đó giải thích tại sao sắt bị oxi hóa, tại sao có bão tố, tại sao các đồ vật bị vỡ, v.v… Tại sao một chiếc xe tải đi nhanh gặp một bức tường gạch sẽ gây ra phá hủy lớn? Động năng của nó không chỉ có xu hướng trải rộng; nó còn trải rộng một cách thảm họa.
Tương tự với động đất. Căng thẳng trong lòng đất do chuyển động chậm của lớp vỏ trái đất nổi trên bề mặt lõi nhân nóng chảy đầy năng lượng của nó bỗng nhiên trải rộng. Năng lượng tiềm tàng của nó biến đổi chốc lát thành động năng do trái đất chuyển động. Khi năng lượng khổng lồ như thế tràn ra, nó làm rung động mọi thứ hàng dặm xung quanh tâm chấn. Vì sự phát tán năng lượng đó, không chỉ các tòa nhà sụp đổ, mà mạng sống cũng bị cắt ngắn.
Sự sống của chúng ta dựa vào sự phát tán năng lượng. Mỗi giây, các hóa chất trong cơ thể chúng ta (được chuyển vào trong chúng ta từ thức ăn ta ăn và oxy ta thở) giữ tim ta đập. Phổi bơm oxy vào và đẩy carbon dioxide ra ngoài. Chúng ta là những cỗ máy xử lý năng lượng. Chúng ta phải duy trì việc tỏa ra năng lượng, vì vậy ta giữ ấm và các chất hóa học giúp tim đập, cơ bắp làm việc và phổi hoạt động. Nếu những tiến trình này bị ngắt một cách nghiêm trọng – như bị tai nạn kiểu động đất – chúng ta sẽ chết.

Khi chúng ta nghe thấy “đó là một trận động đất 6.5 độ richter”, nó có ý nghĩa gì (chuyện gì xảy ra)?
Thang Richter là một thang logarithm được phát triển bởi nhà địa lí học Charles F. Richter và đo cường độ (qui mô) của một trận động đất từ ghi chép các xung của trận động đất trong thiết bị địa chấn ký. Mỗi đơn vị tăng theo tỷ lệ tương ứng với mức tăng 10 nếp gấp trong chuyển động của mặt đất. Một trận động đất 7.5 độ richter sinh ra chuyển động mặt đất nhiều hơn 10 lần so với một trận 6.5 độ. Nhưng vì năng lượng gây ra thiệt hại, sự khác nhau quan trọng nằm trong việc giải phóng năng lượng. Với mỗi đơn vị gia tăng, việc giải phóng năng lượng gia tăng theo hệ số khoảng 32. Một trận động đất 7.5 độ richter sẽ giải phóng năng lượng nhiều gấp 32 lần một trận 6.5 độ.
Từ năm 1900, trận động đất lớn nhất ở Mỹ xảy ra ở Alaska năm 1964. Nó có cường độ 9.2 độ richter. Có sự khác nhau nào trong độ mạnh hay năng lượng giữa một trận động đất cường độ 9.2 và một trận 6.5? Khoảng 11,220 lần. Có nghĩa là cần 11,220 trận động đất có cường độ 6.5 mới bằng với năng lượng được giải phóng từ một trận 9.2 độ. Nó giải thích sức mạnh phá hủy của những trận động đất lớn.

“Theo năng lượng”.
Entropy đo bao nhiêu năng lượng tỏa ra trong một quá trình, hoặc nó tỏa ra rộng bao nhiêu – tại một nhiệt độ xác định. Entropy là một từ dùng sai, nó thường dùng để giải thích tất cả các loại “rối loạn”. Rối loạn là đặc điểm chắc chắn trong nhiều tình huống cuộc sống của chúng ta – mối quan hệ thất bại, các vấn đề xã hội, ngăn kéo bừa bộn, phòng ngủ hỗn loạn, v.v… Tuy nhiên, entropy không liên quan tới những cái đó. Nó chỉ là thước đo khoa học của dòng năng lượng vật lý từ lúc tụ vào tới khi tỏa ra.
Một căn phòng không có xu hướng tự trở nên bừa bãi. Cần có vài năng lượng bên ngoài. Chính năng lượng tập trung trong cơ bắp được tỏa ra và khiến các ngăn kéo của chúng ta bừa bộn. Không có năng lượng tự tỏa ra trên giấy. Như giáo sư hóa học Frank Lambert nói, “Không có ‘xu hướng các đồ vật trở nên mất trật tự’ trong tự nhiên nào khác hơn các nhân viên ngân hàng có ‘xu hướng đưa tiền cho cướp’ mà không có khẩu súng nào.”
Năng lượng có xu hướng tỏa ra giải thích tại sao sắt bị gỉ, tại sao mọi thứ bị vỡ và mòn đi. Vì năng lượng luôn chảy từ nơi tập trung sang nơi ít tập trung; các đối tượng vật lý và các hệ thống hóa học bị hư hỏng đi, vỡ hay bị phá hủy. Nhưng những thứ đó không xảy ra ngay tức khắc hay một cách tự nhiên. Sự lặp lại của thời gian và năng lượng phải được cân nhắc. Một cú đẩy nhỏ (hay năng lượng kích hoạt) cần thiết để bắt đầu một phản ứng. Xăng dầu cần một tia lửa để phản ứng với oxy. Chúng ta cần một trận đấu để thắp lửa lên. Ví dụ, cần một tia lửa đơn để kích hoạt phản ứng giữa khí hydro và oxy, khiến kinh khí cầu Hindenburg bốc cháy. Chuyển động của gió và dòng nước ấm từ đại dương nhiệt đới tạo thành cơn bão. Cần oxy và dòng nước làm sắt bị gỉ. Cần năng lượng làm gỗ mục nát. Và quá trình đó có thể bị trễ. Điều này xảy ra nếu chúng ta, giả sử, sơn lên sắt để ngăn bị gỉ. Việc sơn phủ giữ cho oxy tránh khỏi sắt và phản ứng không thể xảy ra.
Những ví dụ này cho thấy bằng cách quan sát “cái gì xảy ra” chúng ta có thể hiểu thực tế tốt hơn như thế nào.




Tìm kiếm sự khôn ngoan từ Darwin tới Munger: Các mô hình thực tế


MỘT


Tôn Tử nói, trong cuốn Binh Pháp Tôn Tử: “Trước khi chiến, tính toán trăm đường tất sẽ thắng.”
Mục đích của phần này là tìm kiếm những công cụ cung cấp nền tảng cơ bản cho tư duy hợp lý. Những ý tưởng giúp chúng ta đạt được mục tiêu, giải thích “tại sao”, ngăn chặn và giảm sai lầm, giải quyết vấn đề, và đánh giá các phát biểu.
Dưới đây là 12 công cụ sẽ được trình bày.
1.      Các mô hình thực tế.
2.      Ý nghĩa.
3.      Đơn giản hóa.
4.      Qui luật và bộ lọc.
5.      Mục tiêu.
6.      Các lựa chọn thay thế.
7.      Hậu quả.
8.      Lượng hóa.
9.      Bằng chứng.
10.  Tư duy ngược.
11.  Rủi ro.
12.  Thái độ.

CÁC MÔ HÌNH THỰC TẾ


Người có giáo dục cao hơn kẻ không có giáo dục như người sống so với người chết.
-          Aristotle

Hãy học, hiểu và sử dụng những ý tưởng lớn và các nguyên lý chung giải thích thế giới đã vận hành như thế nào. Khi Charles Munger được hỏi câu hỏi hay nhất nào ông nên tự hỏi mình, ông đã nói:
Nếu bạn hỏi không phải về các vấn đề đầu tư, mà về cuộc sống cá nhân của bản thân, tôi nghĩ câu hỏi hay nhất là, “Có gì tôi có thể làm để khiến cuộc đời và quá trình tư duy của tôi vận hành tốt hơn không?” Và tôi có thể nói rằng phát triển thói quen làm chủ nhiều mô hình làm nền tảng cho thực tế là thứ tốt nhất bạn có thể làm … Thật buồn cười – nó vận hành rất tốt.
Một mô hình là một ý tưởng giúp chúng ta hiểu tốt hơn thế giới vận hành như thế nào. Những mô hình minh họa hậu quả và trả lời các câu hỏi như “tại sao” và “thế nào”. Hãy lấy mô hình bằng chứng xã hội làm ví dụ. Chuyện gì xảy ra? Khi nào người ta không chắc chắn, họ thường tự động làm những gì người khác làm mà không suy nghĩ về cái đúng đắn cần làm. Ý tưởng này giúp giải thích “tại sao” và tiên đoán “làm thế nào” người ta có khả năng cư xử trong những tình huống cụ thể.
Các mô hình giúp chúng ta tránh khỏi nhiều vấn đề. Giả sử rằng chúng ta được nói cho biết trái đất gồm những tài nguyên vô hạn. Bằng hiểu biết về những giới hạn, chúng ta biết câu nói đó là sai. Ai đó đề xuất với chúng ta một vụ đầu tư vào một dự án mâu thuẫn với các luật vật lý. Bao nhiêu khốn khổ có thể bị tránh khỏi nhờ tránh xa những thứ không có ý nghĩa khoa học như vậy?

Điều gì tạo nên một mô hình hữu ích?
Nếu một mô hình phù hợp với thực tế, hầu như nó sẽ đúng. Một ý tưởng từ sinh học phù hợp với thực tế là “Một người bình thường hành động theo lợi ích bản thân”. Chứ không phải ý tưởng kiểu “Các phẩm chất cá nhân của con người có thể được đánh giá qua bài kiểm tra trắc nghiệm Rorschach”. Nó không thể tiên đoán được các phẩm chất cá nhân của con người. Hãy hỏi: Cái gì là ý tưởng lớn nằm sâu bên dưới? Tôi có thể hiểu được ứng dụng của nó trong cuộc sống thực tế không? Nó có giúp tôi hiểu thế giới không? Nó làm việc như thế nào? Tại sao nó làm việc? Nó làm việc trong điều kiện nào? Nó đáng tin ra sao? Các giới hạn của nó là gì? Nó liên quan đến các mô hình khác như thế nào?
Charles Munger đưa ra một ví dụ về một ý tưởng hữu dụng từ hóa học – tự xúc tác:
Nếu bạn nhận được một qui trình cụ thể đang diễn ra trong hóa học, nó tăng tốc độ của chính nó. Vì thế bạn nhận được sự tăng trưởng tuyệt vời trong cái mà bạn đang cố làm nó vận hành liên lục liên tục. Giờ các qui luật vật lý cho thấy nó không chạy mãi mãi. Mà nó chỉ vận hành trong một khoảnh khắc tươi đẹp. Bạn thu được một sự tăng trưởng khổng lồ. Bạn đã hoàn thành A – và, bỗng nhiên, bạn còn nhận thêm cả A + B + C chỉ trong phút chốc.
Ông tiếp tục nói với chúng ta cách ý tưởng này có thể được ứng dụng:
Disney là một ví dụ thú vị của cơ chế tự xúc tác… Họ có tất cả các bộ phim trong cái hộp. Họ sở hữu bản quyền. Và giống như Coke chỉ có thể thịnh vượng khi tủ lạnh ra đời, khi băng video được phát minh ra, Disney không phải phát minh bất kỳ cái gì hay làm bất kỳ cái gì ngoại trừ lấy từng thứ khỏi cái hộp và gắn chúng vào cuộn băng.
Những mô hình nào đáng tin cậy nhất? Charles Munger trả lời:
Những mô hình đến từ khoa học và kỹ thuật cứng là đáng tin cậy nhất trên trái đất này. Và kiểm soát chất lượng kỹ thuật – ít nhất đoạn ruột của nó gây vấn đề cho bạn, cho tôi và những ai không phải là kỹ sư chuyên nghiệp – chủ yếu dựa trên toán học cơ bản của Fermat và Pascal: nó rất tốn kém và bạn nhận được khả năng bị hỏng hóc ít hơn rất nhiều nếu bạn dùng nó…
Và tất nhiên, ý tưởng kỹ thuật về một hệ thống dự phòng là ý tưởng rất mạnh mẽ. Ý tưởng kỹ thuật về các điểm gãy – cũng là một mô hình đầy sức mạnh. Khái niệm khối lượng tới hạn – đến từ vật lý – là một mô hình mạnh.
Một mô hình giá trị sẽ tạo ra những giải thích có ý nghĩa và những tiên đoán về hậu quả có khả năng xảy ra trong tương lai trong đó chi phí nếu sai lầm rất cao.
Một mô hình nên dễ dùng. Nếu nó phức tạp, chúng ta không thể sử dụng nó.
Thật hữu dụng nếu dựa trên cơ sở hằng ngày. Nếu nó không được sử dụng, chúng ta sẽ quên nó. Và ứng dụng của tri thức là gì nếu ta không sử dụng nó?

Xem xét nhiều ý tưởng giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện
Những ai yêu sự khôn ngoan phải là những nhà điều tra thực sự về nhiều thứ.
-          Heraclitus

Điều gì giúp chúng ta nhìn ra một bức tranh lớn? Chúng ta có thể xem xét nhiều khía cạnh của một vấn đề như thế nào? Hãy dùng tri thức và sự minh mẫn từ nhiều khuôn phép. Hầu hết các vấn đề cần được nghiên cứu từ nhiều quan điểm. Charles Munger nói, “Trong hầu hết các vấn đề lộn xộn của con người, bạn phải có khả năng sử dụng tất cả các ý tưởng lớn chứ không phải một vài trong số chúng.”
Thế giới đa ngành. Vật lý không giải thích hết mọi thứ; sinh học hay kinh tế học cũng không làm được. Ví dụ, trong một vụ kinh doanh, thật hữu ích nếu biết tỷ lệ nào làm thay đổi hành vi, các hệ thống bị hỏng khi nào, cung bao nhiêu tác động lên giá cả, và lời khích lệ nào gây ra hành vi.
Vì không phải qui tắc đơn lẻ nào cũng đều có câu trả lời, chúng ta cần hiểu và sử dụng những ý tưởng lớn từ những tất cả những khuôn phép quan trọng – toán học, vật lý, hóa học, kỹ thuật, sinh học, tâm lý học, và phân cấp, sử dụng chúng theo độ tin cậy của chúng. Charles Munger minh họa tầm quan trọng của việc này:
Giả sử bạn muốn giỏi trong đấu thầu hợp đồng xây cầu. Vâng, bạn biết hợp đồng – bạn biết cái bạn phải đạt được. Và bạn có thể đếm ra những người chiến thắng chắc chắn mà bạn có bằng cách đặt xuống những quân bài cao cấp và quân át chủ bài bất khả chiến bại của bạn.
Nhưng nếu bạn là kẻ lừa đảo hoặc hai mặt, bạn sẽ nhận những cú lừa khác như thế nào? Vâng, chỉ có sáu phương pháp chuẩn: Bạn đã thiết lập cho dài hạn. Bạn có mưu kế. Bạn có cú phạt biên. Bạn có cú chéo cánh. Bạn bị dồn ép. Và bạn có nhiều cách dẫn dắt sai lầm để tránh khỏi mắc lỗi. Vì thế, có một số giới hạn các mô hình. Nhưng nếu bạn chỉ biết một hoặc hai trong số đó, bạn sẽ lộn xuống chân ngựa trong cuộc đấu…
Nếu bạn không có tiết mục đầy đủ, tôi đảm bảo bạn sẽ sử dụng quá nhiều tiết mục bị hạn chế của mình – trong đó có cả việc sử dụng những mô hình không phù hợp chỉ vì chúng có sẵn với bạn trong cái kho hạn chế mà bạn có trong đầu.
Giả sử chúng ta có một vấn đề và hỏi: Điều gì có thể giải thích cho nó? Chúng ta có thể đạt được nó bằng cách nào? Sau đó chúng ta có thể sử dụng những ý tưởng khác như thế nào? Charles Munger nói với chúng ta cách làm điều đó:
Hãy có một bộ dụng cụ đầy đủ… ném chúng vào trong đầu bạn theo phong cách danh mục kiểm tra … bạn có thể không bao giờ phải giải thích điều gì ngoài cách thức cơ bản nhất. Bạn luôn ghi công đầy đủ cho những ý tưởng nền tảng nhất mà bạn yêu cầu dùng. Khi bạn đang sử dụng vật lý, bạn nói bạn đang sử dụng vật lý. Khi bạn đang sử dụng sinh học, bạn nói bạn đang sử dụng sinh học.
Chúng ta cũng cần hiểu những ý tưởng khác nhau tương tác và kết hợp như thế nào. Charles Munger nói:
Bạn gặp hiệu ứng lollapalooza (ấn tượng đặc biệt của một người hay một thứ gì đó) khi hai, ba hay bốn sức mạnh đang vận hành theo cùng một hướng. Thông thường, bạn không đơn giản thêm vào. Giống như khối lượng tới hạn trong vật lý trong đó bạn nhận được một vụ nổ hạt nhân nếu bạn đạt tới điểm nhất định của khối lượng – và bạn không đạt được gì có giá trị khác nếu bạn không đạt tới khối lượng đó.
Đôi khi các nguồn lực chỉ thêm vào như những định lượng thông thường và đôi khi chúng kết hợp trên cơ sở điểm gãy hay khối lượng tới hạn…Các nguồn lực đi ra càng phổ biến…các mô hình sẽ đụng độ với những cái mở rộng. Bạn có nhiều đánh đổi to lớn, đau khổ…Vì thế bạn [phải] có các mô hình và bạn [phải] nhìn ra mối liên hệ và hiệu ứng từ mối liên hệ đó.
Nhà toán học và triết học người Anh Alfred North Whitehead nói: “Vấn đề của giáo dục là làm cho học sinh nhìn ra gỗ từ cây.” Chúng ta cần xem xét nhiều khía cạnh của vấn đề và tổng hợp, tích hợp chúng. Chúng ta cần hiểu tất cả chúng gắn kết với nhau tạo thành một khối cố kết như thế nào. Thuật ngữ “synthesis” đến từ người Hy Lạp cổ và có nghĩa là “đặt vào cùng nhau”. Những ví dụ sau sẽ minh họa điều đó được sử dụng trong giải quyết vấn đề như thế nào.
Chúng ta có thể kết hợp các ý tưởng trong một khuôn phép. Chúng ta đã thấy trong Phần Hai, các xu hướng tâm lý có thể kết hợp như thế nào để tạo ra hiệu ứng Lollapalooza.
Chúng ta cố tìm những liên kết giữa các ý tưởng hay lấy được những ý tưởng mới từ các liên kết đó. Sự tổ hợp tiến hóa hiện đại là sự hợp nhất của vài ý tưởng trong sinh học.
Chúng ta có thể kết hợp các ý tưởng từ các khuôn phép khác nhau. Những ý tưởng về tỷ lệ từ toán, các hệ thống và ràng buộc từ vật lý, và lợi thế cạnh tranh từ kinh tế vi mô thường giải thích giá trị kinh doanh được tạo ra hay phá hủy như thế nào.
Chúng ta có thể cố nhìn ra quan hệ giữa các hiện tượng, và cố tìm một nguyên lý có thể giải thích tất cả chúng. Nhà vật lý người Anh James Clark Maxwell kết hợp trong một mô hình: các qui luật điện từ và các qui luật hành vi của ánh sáng. Mô hình đơn giản này đã giải thích các hiện tượng quang, điện và từ.
Chúng ta có thể tìm thấy những thứ tương tự hay tương đương về chức năng trong hoặc giữa các khuôn phép. Tương đương về chức năng của độ nhớt trong hóa học là tính kết dính trong kinh tế học.

Chúng ta có thể học một ý tưởng và gắn kết nó vào trí nhớ như thế nào?
Samuel Johnson nói: “Ân nhân của nhân loại là người cung cấp những qui luật vĩ đại của cuộc sống dưới dạng câu từ ngắn gọn, dễ dàng in dấu vào bộ nhớ, và do đó chúng được tái hiện thường xuyên trong tâm trí.”
Richard Feynman đã trả lời câu hỏi trên trong một bài giảng vật lý của ông:
Nếu, trong một thảm họa, tất cả các tri thức khoa học đều bị phá hủy, và chỉ có một câu truyền lại cho thế hệ sinh vật kế tiếp, câu nào có thể chứa nhiều thông tin nhất với ít từ nhất? Tôi tin đó là “giả thuyết nguyên tử” (hay thực tế nguyên tử, hay bất cứ cái gì bạn muốn gọi nó), đó là, mọi thứ đều được tạo ra từ các nguyên tử - các hạt nhỏ bé di chuyển xung quanh trong động cơ vĩnh cửu, hút lẫn nhau khi chúng ở khoảng cách nhỏ, nhưng đẩy ra khi bị ép vào nguyên tử khác. Trong câu đó, chúng ta sẽ thấy, có một lượng khổng lồ thông tin về thế giới, nếu chỉ một liên tưởng hay suy nghĩ nhỏ được áp dụng.
Chúng ta có thể sử dụng “lời giải thích trong một câu” của Feynman khi xử lý các ý tưởng lớn. “Câu nào chứa nhiều thông tin nhất với số từ ít nhất?” Một ví dụ về ý tưởng là một câu từ tâm lý học: “Chúng ta nhận thứ chúng ta được thưởng cho nó.” Một câu từ vật lý: “Năng lượng không được sinh ra hay mất đi – chỉ đổi từ dạng này sang dạng khác.”
Cách khác để hiểu một mô hình là đưa vào đó một “lưỡi câu”. Hãy liên kết mô hình với câu chuyện thực tế bi thương, một thứ giống vậy, một cá nhân hay một bức tranh. Ví dụ để ghi nhớ bằng chứng xã hội, chúng ta có thể nghĩ về kẻ sát nhân Genovese ở thành phố New York (xem Phần Hai).
Ngạn ngữ Trung Hoa có câu: “Người ta quên cái đã nghe; nhớ cái đã nhìn; biết cái đã làm.” Vì cách tốt nhất để học điều gì đó là làm nó, chúng ta phải áp dụng các mô hình thường xuyên vào các tình huống khác nhau. Giống như kỹ năng, điều này đòi hỏi cả thực hành và kỷ luật.

Tìm kiếm lời giải thích
Chuyện gì xảy ra và tại sao nó xảy ra?
Một cách buộc chúng ta học các mô hình để xử lý thực tế tốt hơn là mở to mắt và nhìn mọi thứ ta thấy xung quanh, rồi hỏi “tại sao” thứ đó đang xảy ra (hay tại sao thứ đó không xảy ra). Lấy vài ví dụ đơn giản như “tại sao táo rơi xuống đất?” hay “tại sao ta bị ngã khi trượt chân?” hay “tại sao chúng ta không rơi khỏi trái đất?” Nhà toán học và vật lý học người Anh, ngài Isaac Newton đã đưa ra luật hấp dẫn để giải thích điều này.
Định luật 1 của Newton nói với chúng ta rằng một vật chuyển động có xu hướng tiếp tục chuyển động với một vận tốc không đổi theo phương thẳng đứng, và một vật đứng yên có xu hướng đứng yên, trừ khi vật đó bị tác động bởi một lực bên ngoài.
Điều đó có nghĩa là chỉ có 3 cách để thay đổi một vật: một vật đứng yên có thể bắt đầu chuyển động, một vật chuyển động với vận tốc không đổi có thể tăng hoặc giảm vận tốc, và một vật chuyển động theo phương thẳng đứng có thể thay đổi phương. Và cái gì cần để thay đổi chuyển động của một vật? Lực.
Tất cả thay đổi trong chuyển động xảy ra để đáp ứng lại hành động của lực (hay các lực). Các lực, có thể là lực đẩy hoặc lực kéo tác động vào một vật. Khi chúng ta mở cửa hay ném bóng chày, chúng ta đang sử dụng các lực (sức cơ bắp). Hầu hết mọi thứ chúng ta làm đều có các lực.
Định luật 2 của Newton nói với chúng ta rằng lực là tích của khối lượng và gia tốc. Gia tốc là sự thay đổi của vận tốc theo phương. Nó phụ thuộc vào khối lượng (đo độ lớn của một vật trước thay đổi trong trạng thái chuyển động của nó) của một vật, cường độ và hướng của lực tác động lên nó. Ta dùng càng nhiều lực trên một khối lượng cho trước, gia tốc càng lớn. Nhưng khối lượng càng lớn, đối tượng càng cản gia tốc. Ví dụ, chúng ta dùng lực càng lớn để ném bóng chày, gia tốc của quả bóng càng lớn. Nếu chúng ta tăng khối lượng, chúng ta phải thêm lực để sinh ra cùng gia tốc như trước.
Định luật 3 của Newton nói rằng các lực làm việc theo cặp. Một đối tượng tác dụng một lực trên đối tượng thứ hai, đối tượng thứ hai cũng tác dụng một lực tương đương và ngược chiều với lực đã tác dụng lên nó trên đối tượng thứ nhất. Như Newton đã nói trong cuốn Philosophiae Naturalis Principia Mathematica: “Nếu bạn ấn ngón tay lên một hòn đá, ngón tay cũng bị ấn bởi hòn đá.” Nếu chúng ta ném một quả bóng chày, quả bóng cũng “ném” chúng ta hay đẩy tay chúng ta trở lại với một lực tương đương.
Giờ ta đến với lực hấp dẫn. Bị ảnh hưởng bởi tác phẩm của Johannes Kepler về sự chuyển động của các hành tinh và tác phẩm của Galileo Galilei về các vật rơi tự do, Newton khám phá ra có một lực hấp dẫn hai đối tượng với nhau. Hai yếu tố tác động đến mức độ hấp dẫn. Khối lượng và khoảng cách. Khối lượng hai vật càng lớn hay khoảng cách giữa chúng càng gần, sự hấp dẫn giữa chúng càng lớn. Nó cũng có nghĩa là khoảng cách giữa hai vật càng lớn, lực hấp dẫn càng yếu. Nếu giả sử chúng ta tăng khoảng cách lên gấp đôi, lực sẽ giảm đi một phần tư.
Chúng ta có thể phát biểu dạng toán học của lực hấp dẫn, nó bằng khối lượng của một vật nhân với khối lượng của vật kia, chia cho bình phương khoảng cách giữa chúng. Tất cả được nhân với một hằng số (một số có giá trị không đổi) – g (là 9.8 m/s2). Chúng ta có thể gọi g là gia tốc trọng trường gần bề mặt trái đất.

Có phải lực hấp dẫn làm quả táo rơi về phía trái đất?
Trái đất hấp dẫn quả táo với một lực tỷ lệ với khối lượng của nó và tỷ lệ nghịch với bình phương khoảng cách giữa chúng. Nhưng định luật thứ 3 của Newton nói rằng quả táo cũng tác động một lực cân bằng và ngược chiều lên trái đất. Lực hấp dẫn của quả táo lên trái đất cũng giống lực hấp dẫn của trái đất lên quả táo. Vì vậy, nếu chúng ta trông có vẻ như quả táo rơi về phía trái đất, thực ra cả trái đất và quả táo rơi về phía nhau. Lực như nhau giống như ta biết trong định luật 2 của Newton, chứ không phải gia tốc. Khối lượng của chúng khác nhau. Khối lượng của trái đất quá lớn so với quả táo nên chúng ta chỉ thấy quả táo “rơi”. Quả táo rơi, từ vị trí đứng yên, về phía trái đất vì nó có khối lượng nhỏ hơn trái đất, có nghĩa là nó được truyền thêm gia tốc (thay đổi tốc độ) nhiều hơn khi hướng về phía trái đất, hơn là trái đất hướng về phía quả táo. Khối lượng khổng lồ của trái đất cũng giải thích vì sao chúng ta ngã về phía trái đất khi chúng ta trượt chân.
Lực tương tự cũng xuất hiện giữa Mặt trăng và trái đất. Nhưng điều gì giữ mặt trăng trên quĩ đạo quay quanh trái đất thay cho đâm vào trái đất?
Newton biết rằng phải có một lực kéo mặt trăng khỏi trái đất. Nói cách khác, theo định luật 1, mặt trăng có thể tiếp tục chuyển động theo phương thẳng đứng với vận tốc không đổi thay vì chuyển động theo hình elip như thực tế. Một lực nào đó phải liên tục kéo mặt trăng khỏi chuyển động theo phương thẳng đứng và thay đổi hướng của nó. Và vì quĩ đạo của mặt trăng hình tròn, lực này phải có nguồn gốc từ tâm trái đất. Tại sao? Newton đã biết rằng một lực hướng tâm (bất kỳ lực nào hướng về một tâm cố định) điều khiển các vật đi theo đường tròn xung quanh một điểm cố định.
Lực đó là trọng lực. Nó thay đổi gia tốc của mặt trăng bằng cách thay đổi liên tục hướng của nó về phía tâm của trái đất khiến mặt trăng bị uốn cong theo chuyển động tròn. Khi mặt trăng đi về phía đường chân trời theo hướng tiếp tuyến (đường thẳng chạm vào đường cong) với trái đất, tại mỗi điểm trên đường này, trọng lực kéo nó khỏi tâm trái đất và kết quả là mặt trăng chuyển động theo quĩ đạo tròn.
Vận tốc của mặt trăng đủ lớn để đảm bảo khoảng cách giảm xuống của nó phù hợp với độ cong của trái đất. Mặt trăng duy trì cùng khoảng cách so với trái đất vì trái đất uốn cong cùng tỷ lệ với mặt trăng “rơi”. Vào lúc mặt trăng rơi một khoảng cách nhất định về phía trái đất, nó cũng di chuyển ra biên với cùng khoảng cách. Nếu vận tốc của nó thấp hơn nhiều, lực kéo của trọng lực buộc mặt trăng đi gần vào trái đất cho đến khi chúng đâm vào nhau. Nếu vận tốc của nó lớn hơn nhiều, mặt trăng có thể thoát khỏi trọng lực và đi xa khỏi chúng ta.
Mặt trăng không được gia tốc như quả táo, vì khoảng cách của nó tới trái đất (trọng lực hay lực hấp dẫn yếu hơn). Mặt trăng trên quĩ đạo của nó cách tâm trái đất gấp 6 lần khoảng cách của quả táo đến tâm trái đất.
Định luật hấp dẫn của Newton không đủ để mô tả chuyển động của các đối tượng mà vận tốc của chúng gần với vận tốc ánh sáng. Các học thuyết của Newton và thuyết tương đối cũng khác nhau khi các trường trọng lực lớn hơn nhiều so với cái thấy trên trái đất. Mặc dù, trong hầu hết điều kiện, các định luật Newton và lý thuyết trọng lực (lực hấp dẫn) của ông đủ để giải thích.
Sự tác động tương đối của trọng lực biến thiên theo kích thước và tỷ lệ.

Tại sao con côn trùng bị ngã từ trên cây cao xuống không bị làm sao?
Trong cuốn Two New Sciences (Hai môn khoa học mới), Galileo Galilei đã viết: “Ai lại không biết một con ngựa rơi từ độ cao 3 hay 4 cubit sẽ gẫy xương, trong khi một con chó rơi từ độ cao tương tự hay một con mèo từ độ cao 8 hay 10 cubit sẽ chẳng bị sao?”
Hãy tưởng tượng nếu một con chuột, một con ngựa, và một người bị ném ra từ một máy bay ở độ cao 1,000 yard. Chuyện gì xảy ra? Nhà sinh học J.B.S Haldane nói trong cuốn On Being the Right Size (Trong kích thước đúng) – in lại trên The World of Mathematics (Thế giới toán học): “Bạn có thể vất một con chuột xuống hầm mỏ sâu hàng nghìn yard; và, khi đến đáy, nó bị một cú shock nhẹ rồi bỏ đi, với điều kiện mặt đất mềm. Con chuột bị chết, con người bị vỡ tan, con ngựa nát thành đống bầy nhầy.”
Các lực vật lý tác động khác nhau trên các động vật. Trọng lực có tác động mạnh hơn với những thứ lớn hơn, so với những thứ nhỏ hơn. Trọng lực tác động chính lên chúng ta, nhưng ảnh hưởng nhỏ với những động vật nhỏ hơn. Vì diện tích bề mặt của con người khá nhỏ, các lực trọng trường tác động lên trọng lượng của chúng ta. Nhưng trọng lực không đáng kể với động vật rất nhỏ có tỷ lệ diện tích bề mặt trên thể tích lớn. Lực chiếm ưu thế sau đó là lực bề mặt. Haldance nói: “Chia chiều dài, chiều rộng và chiều cao của một con vật cho 10; trọng lượng của nó giảm đi 1 phần nghìn, nhưng diện tích của nó chỉ giảm 1 phần trăm. Vì thế sức cản lại việc rơi trong trường hợp của con vật nhỏ sẽ lớn hơn 10 lần so với lực điều khiển [trọng lực].”

Khối lượng ảnh hưởng tới vận tốc khi có sức cản không khí.
Với phạm vi nhỏ hơn, trọng lực trở nên ít quan trọng hơn nhiều so với sức cản của không khí. Ném một con chuột khỏi máy bay và nó sẽ trôi dần xuống vì các lực ma sát tác động lên bề mặt của nó thắng tác động của trọng lực.
Một vật đang rơi sẽ rơi nhanh hơn và nhanh hơn, cho đến khi lực kéo của không khí tác động theo hướng ngược lại (sinh ra từ sức cản của không khí) cân bằng với khối lượng của nó. Sức kéo của không khí phụ thuộc vào diện tích bề mặt (tổng số không khí vật đang rơi phải nhồi vào khi nó rơi) và vận tốc của vật rơi. Vì con chuột có nhiều diện tích bề mặt hơn so với khối lượng nhỏ của nó, nó không bị ngã quá nhanh trước khi sức cản của không khí tác động ngược trở lại tới khối lượng của nó. Lực giăng trên con chuột sau đó về không và con chuột không bị tăng tốc.
Lực cản của không khí chống lại con ngựa rơi lớn hơn nhiều so với của con chuột. Vì con ngựa rẽ nhiều không khí hơn con chuột. Con ngựa càng nặng hơn sẽ rơi càng nhanh hơn trong không khí, gia tăng lực cản của không khi hơn nữa. Con ngựa rơi nhanh hơn con người trước khi sức cản của không khí cân bằng với khối lượng của nó và do đó, nó sẽ chạm đất trước.
Con ngựa có diện tích bề mặt lớn hơn con chuột, nhưng con chuột có diện tích bề mặt trên thể tích lớn hơn con ngựa. Con chuột tuân theo cùng luật trọng trường như con người, và cũng tương tự với luật sức cản của không khí. Nhưng trọng lực là then chốt với con người, trong khi sức cản không khí là then chốt với con chuột.
Nói cách khác, do sức ép bề mặt, con chuột sẽ gặp vấn đề khi trèo lên khỏi bể nước. Haldance nói với chúng ta một con chuột ướt phải quan tâm khối lượng nước của chính nó. Hãy tưởng tượng bao nhiêu khó khăn để ra khỏi bồn tắm nếu chúng ta mang theo cả cơ thể cùng một lượng nước bằng với khối lượng của chúng ta.
Những ví dụ trên cho thấy chúng ta có thể xử lý thực tế như thế nào bằng cách quan sát và hỏi “tại sao” mọi thứ xảy ra. Vì thế, hãy nhìn xung quanh, hãy hỏi và nhớ lời của nhà  phát minh và kỹ sư Charles Proteus Steinmetz: “Không có câu hỏi ngu ngốc và không ai trở thành kẻ ngu ngốc cho đến khi anh ta dừng việc đặt câu hỏi.”
Giả sử rằng những ý tưởng lớn là thật cho đến khi học được cái ngược lại. Tất cả tri thức đều thay đổi khi bằng chứng mới xuất hiện. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải tiếp tục học và học lại.
Giữ tri thức sống và tăng thêm tri thức theo thời gian mang lại những lợi ích khác. “Chỉ như gỉ sắt từ thứ cũ rích, và bãi nước tù đọng, hoặc khi lạnh thành băng, vì thế trí tuệ của chúng ta sẽ lãng phí trừ khi ta sử dụng nó.” Leonardo da Vinci viết như vậy. Nghiên cứu của giáo sư sinh học tổng hợp Marian Cleeves Diamond tại đại học California, Berkeley, tiết lộ rằng, một môi trường kích thích, sự tò mò và giáo dục là dinh dưỡng cho bộ não và sức khỏe. Chúng ta càng đưa nhiều kích thích vào bộ não, chúng ta càng tốt hơn. Trong cuốn Psychology Today (Tâm lý học ngày nay - 1984), cô ấy nói: “Tôi tìm kiếm những người cực kỳ năng động trên 88 tuổi. Tôi thấy rằng người nào hay sử dụng não của họ sẽ không mất chúng. Thật đơn giản.”
Hãy nhớ, biết một định nghĩa hay ghi nhớ một ý tưởng là vô dụng nếu chúng ta không hiểu ý nghĩa của chúng. Alfred North Whitehead nói trong cuốn The Aims of Education (Mục tiêu của giáo dục): “Giáo dục nên hữu dụng, dù mục đích sống của bạn là gì đi nữa.”