Thứ Hai, 15 tháng 5, 2017

Tản mạn về Đạo Phật và Thiền (4)



Phần 3: Phật giáo – các tôn phái và Thiền tôn (1)


Tại sao có sự phân chia tôn phái trong Phật Giáo?

Hiện nay ước chừng có khoảng 4.200 tôn giáo trên toàn thế giới, và khoảng 87% dân số (trong 7,49 tỷ người – tính đến ngày 22/3/2017) theo một tôn giáo nào đó, còn lại không theo tôn giáo nào.
Thực tế lịch sử cho thấy, mọi tôn giáo đều bị phân chia thành nhiều tôn phái nếu tồn tại đủ lâu. Lý do chính của việc phân chia đều rất giống nhau: thích nghi khi hoàn cảnh thay đổi.
Người sáng lập tôn giáo thuở ban đầu chỉ có một (hoặc một nhóm). Người ấy truyền thừa tư tưởng và giáo lý nguyên thủy của mình cho các đệ tử. Mỗi đệ tử có căn cơ, tu dưỡng, trí tuệ, đạo đức, môi trường sống khác nhau, nên sẽ lĩnh hội theo những cách khác nhau. Các đệ tử này sẽ lại tiếp tục công việc truyền bá hệ thống tư tưởng và giáo lý ấy cho thế hệ đệ tử kế tiếp; một số đồng thời còn có thể bổ sung thêm các ý tưởng của mình vào hệ thống mà họ đã tiếp nhận. Lượng tín đồ tăng lên thì chuyện sai khác xảy ra như một lẽ đương nhiên. Nó góp phần làm phong phú, tăng giá trị cho hệ thống lý luận chung của tôn giáo đó. Nhưng cũng làm nảy sinh mâu thuẫn giữa các tín đồ. Các chi phái ra đời là hệ quả tất yếu, cũng là minh chứng sống động nhất cho tuổi đời dài lâu và sức ảnh hưởng bền bỉ của một tôn giáo.
Ki-tô Giáo (hơn 2.000 tuổi – thờ duy nhất Đức Chúa Jesus, kinh điển nguyên thủy do Phaolo và các tín đồ biên soạn, truyền bá) có vô số tông phái. Ba nhánh lớn nhất là Công giáo, Chính thống giáo và Kháng cách (hay Tin Lành). Tôn giáo này có 2,4 tỷ tín đồ (33% dân số thế giới) – là tôn giáo lớn nhất thế giới hiện nay.
Hồi giáo (khoảng 1.300 tuổi – thờ duy nhất Đấng Allah Tối Cao, kinh điển nguyên thủy do Nhà Tiên Tri Muhammad soạn và truyền bá) là tôn giáo lớn thứ hai thế giới với 1,6 tỷ tín đồ (23% dân số thế giới), do tốc độ phát triển nhanh nhất hiện nay nên được dự báo sẽ là tôn giáo lớn nhất thế giới trong tương lai gần (năm 2050). Hồi giáo có nhiều phân nhánh, lớn nhất là các dòng Sunni (75-90% số lượng tín đồ), Shi’a (chiếm 10-20% lượng tín đồ), các nhánh nhỏ khác như Sufi, Kalam, Kharijite… Mỗi nhánh cũng có nhiều tông phái khác nhau.
Ấn Độ giáo (tôn giáo vô cùng cổ xưa, không rõ niên đại hình thành, nhưng hưng thịnh nhất vào khoảng 4.500 năm trước – tùy từng chi nhánh, khu vực và thời điểm lịch sử; có thể thờ đa thần, độc thần hay vô thần) là tôn giáo lớn thứ ba thế giới, với nhiều chi hệ, chỉ nằm trong cộng đồng người Ấn và Nam Á. Một số nhánh lớn: Ấn giáo Vệ đà, Ấn giáo Thấp bà, Ấn giáo Tỳ thấp nô, Tân Ấn giáo…
Do Thái Giáo (gần 4.000 tuổi – thờ duy nhất Thượng Đế Jehovah, kinh điển nguyên thủy do Nhà Tiên Tri Moses soạn ra) cũng có một số phân nhánh: Do Thái giáo chính thống (Orthodox) gồm Hasidim, Sađôc, Karaite, Phariseu, Na Nách…; Do Thái giáo Cải Cách (Reform); Do Thái giáo Cấp Tiến (Liberal), Do Thái Giáo Bảo Thủ (Conservative).

Phật Giáo (khoảng hơn 2.500 tuổi – vô thần, nhưng chấp nhận có sự tồn tại của thần thánh, do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập và truyền bá) là một trong 5 tôn giáo lớn nhất thế giới, hiện có khoảng 360 triệu – 1,6 tỷ tín đồ. Ngày nay, người ta cho rằng Phật Giáo có ba nhánh chính: Phật giáo nguyên thủy (Thượng Tọa Bộ/Tiểu Thừa), Phật giáo cải cách (Đại Chúng/Đại Thừa), Phật giáo chân ngôn (Mật Tông/Kim Cương Thừa/Tây Tạng).

Đi sâu vào lịch sử Phật Giáo, sự phân chia các tông phái còn phức tạp hơn nhiều. Về cơ bản, tư tưởng gốc rễ của Phật Giáo không thay đổi, chỉ là sự thay đổi về mặt lý luận triết học, công cụ, phương tiện. Một phần được cho là xuất phát từ chính quan điểm và phương pháp mềm dẻo, linh hoạt của người sáng lập đạo – Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
“Cũng như đại dương chỉ có một vị mặn, đạo của ta không có gì khác ngoài mục đích giải thoát.” – Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Sinh thời, Đức Phật giảng đạo ở nhiều quốc gia lưu vực sông Hằng, cho nhiều tầng lớp khác nhau. Với mỗi đối tượng người nghe và hoàn cảnh họ sống, Ngài lại có cách truyền đạt, phương pháp và công cụ thực hành khác nhau để giúp họ đạt tới cái đích cuối cùng: Giác Ngộ & Giải Thoát. Đức Phật coi ngôn ngữ, thực hành chỉ là phương tiện dẫn tới chân lý tối thượng. Có lẽ vì sự đa dạng, biến hóa trong truyền giảng dẫn tới những lý giải khác nhau của người nghe và của cả đời sau về lời Ngài. Sau khi Ngài tịch diệt, lời giảng và những giới luật, qui tắc Ngài đề ra trước đây mới được các đệ tử ghi lại bằng văn bản. Dữ liệu qua nhiều thế hệ hiển nhiên sẽ có sai khác, gây bất đồng giữa các tín đồ.

Cũng chính việc không coi trọng lý luận triết học và phương pháp luận của Phật Tổ khiến thế hệ tín đồ sau này gặp khó khăn trong việc giải thích Phật Giáo khi hoàn cảnh lịch sử thay đổi hoặc có những sự kiện mới phát sinh, đặc biệt trong cuộc chiến sinh tồn với các tôn giáo khác. Do đó, các đệ tử của Ngài đã sáng tạo ra vô số học thuyết, phương pháp thực nghiệm – đôi khi là đối nghịch nhau – để biện luận cho chân lý của đạo mình, qua đó giúp Phật giáo thích nghi với hoàn cảnh mới tốt hơn và tồn tại đến tận ngày nay.

Cần nói thêm (để phục vụ cho việc đọc tiếp những phần sau), tư tưởng cốt lõi của Đạo Phật nằm ở:
-          Tứ Diệu Đế (bốn chân lý cao quý, còn gọi là Tứ Thánh Đế): đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật ngay sau khi Ngài giác ngộ, tại vườn Lộc Uyển. Đây cũng là nội dung gốc cơ bản của Phật giáo, được tất cả các tôn phái đạo Phật trên thế giới công nhận là giáo lý cốt lõi. Thông suốt được nó là đã thâm nhập toàn bộ con đường giác ngộ giải thoát của Đức Phật. Nội dung của Tứ Diệu Đế gồm:
o    Khổ đế (Dukkha): bản chất của sự Khổ trong luân hồi.
o    Tập đế (Samudaya): nguyên nhân Khổ.
o    Diệt đế (Nirodha): chân lý diệt Khổ.
o    Đạo đế (Magga): các cách diệt Khổ, chính là Bát Chính Đạo.
Trong bài giảng Tứ Diệu Đế đầu tiên, Đức Phật nói bốn câu then chốt khái quát toàn bộ nội dung của bốn chân lý cao quý là:
      “Này các tỳ kheo, đây chính là Khổ thánh đế: sinh là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, oán ghét gặp nhau là khổ; thân ái biệt li là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại năm uẩn chấp thủ là khổ.
        Này các tỳ kheo, đây chính là Tập khổ thánh đế. Chính là ái đưa đến hữu, tương ứng với hỉ và tham, tìm cầu hoan lạc chỗ này chỗ kia, chính là dục ái, sinh ái, vô sinh ái.
        Này các tỳ kheo, đây chính là Diệt khổ thánh đế. Chính là sự diệt tận, vô dục, từ bỏ, xả li, giải thoát, tự tại đối với các ái.
        Này các tỳ kheo, đây chính là Đạo diệt khổ thánh đế, đưa đến diệt Khổ, chính là con đường thánh tám ngành: Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tiến, Chính niệm, Chính định.”

-          Bát Chính Đạo (Con đường tám nhánh để diệt trừ khổ ải, còn gọi là Bát Thánh Đạo, Bát Chánh Đạo, Bát Chi, Bát Pháp…):
“Bát Thánh đạo là giáo lý căn bản của Ðạo đế (trong Tứ đế) gồm ba mươi bảy phẩm trợ đạo. Ðây là con đường độc nhất đi vào giải thoát hết thảy các lậu hoặc, đạt được quả vị Alahán.
Hành giả có thể đi vào giải thoát bằng ngõ Bảy Giác chi, Bốn Niệm xứ... nhưng tất cả những ngõ đường ấy đều được bao hàm trong Bát Thánh đạo. Nếu tâm của hành giả thực hành các pháp môn ngoại đạo, ở ngoài sự vận dụng tám chi phần Bát Thánh đạo, thì quyết định hành giả không thể chứng đắc các quả vị của Sa-môn, đi vào giải thoát toàn vẹn, như lời dạy của Thế Tôn ở Sư Tử Hống Tiểu Kinh” - Trung Bộ Kinh I
Bát Chính Đạo giúp cải thiện tự thân (cải thiện hành vi bất chính, tạo cho tự thân một đời sống chân chính ích lợi, thiện mỹ), cải tạo hoàn cảnh (thế giới quan bên ngoài được hình thành từ tâm niệm, là kết quả của hành vi; do đó thực hành theo Bát Chính Đạo có thể tạo được một thế giới toàn mỹ), và làm căn bản cho chính giác (Bát Chính Đạo là nền tảng căn bản đầu tiên cho sự giác ngộ chân chính).
Nội dung của Bát Chính Đạo:
1-Chính kiến: Chính là ngay thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Nghĩa là sự nhận thức sáng suốt và hợp lý trên căn bản của trí tuệ, không còn vướng bụi của tà kiến, mê lầm vọng chấp.
o    Hiểu biết chân chính: Hiểu biết tất cả sự vật hiện hữu trên thế gian này đều do nhân duyên sanh, không trường tồn và luôn luôn biến diệt. Nhận thức rõ nhân quả - nghiệp báo để hành động. Nhận thức rõ giá trị hiện hữu của thân người và mọi vật xung quanh. Nhận thức rõ Khổ - Vô thường - Vô ngã của vạn pháp. Nhận thức rõ tất cả chúng sanh cùng một bản thể thanh tịnh. Nhận thức rõ Tứ đế - Thập nhị nhân duyên, không chấp thường, chấp đoạn.
o    Hiểu biết không chân chính: Chấp Thượng đế tạo vật, không tin lý nhân quả nghiệp báo. Phủ nhận mọi sự vật hiện hữu, không nhận thức chúng từ nhân duyên sanh. Chấp vào thành kiến; quan niệm không bình đẳng giữa người và muôn vật. Cố chấp vào kiến thức vọng tưởng; không tin vào những quả vị giải thoát.
2- Chính tư duy: Tư duy là suy nghĩ. Chính tư duy là suy nghĩ chân chính, suy nghĩ không trái với lẽ phải, có lợi cho mình và cho người.
o    Suy nghĩ chân chính: Suy nghĩ đến nguyên nhân đau khổ của mình và chúng sanh, ở đó vô minh là nguồn gốc của mọi tội lỗi, để biết mà tu tập hầu tìm được giải thoát cho mình và cho người. Suy nghĩ đến Giới - Định – Huệ làm căn bản tiến tu đến quả vị Niết bàn.
o    Suy nghĩ không chân chính: Suy nghĩ đến lợi dưỡng, tài sắc, danh vọng, tìm trăm mưu nghìn kế để hại người. Suy nghĩ đến nhiều cách để hơn người, mọi mưu mô để trả thù; dùng tà thuật; dựa vào lòng tin của con người để mê hoặc.
3- Chính ngữ: Ngữ là lời nói. Chính ngữ là lời nói chân thật không hư dối, có lợi ích chính đáng, công bình, ngay thẳng và hợp lý. Lời nói không làm tổn hại đến đời sống cùng danh dự của người khác.
o    Lời nói chân thật: Lời nói ngay thẳng, thành thật, hợp lý không thiên vị, hòa nhã, giản dị và sáng suốt. Lời nói lợi ích, đồng nhất và mang tính chất sách tấn, khuyến tu, mở bày ánh sáng giác ngộ tự tâm trong mỗi tha nhân. Lời nói mang tính chất tuyên dương đạo lý làm người; tuyên dương chánh pháp Từ bi và Trí tuệ.
o    Lời nói không chân thật: Lời nói gây chia rẽ, không đúng sự thật. Lời nói để hại người, xuyên tạc, thiên vị, dua nịnh. Lời nói nguyền rủa, mắng nhiếc, vu họa và thô tục. Lời nói để bảo vệ Ngã và Ngã sở.
4- Chính nghiệp: Nghiệp gốc từ chữ Phạn được Trung Hoa dịch ra, có nghĩa là hành động có tác ý. Chính nghiệp nghĩa là hành động tạo tác trong đời sống cần phải sáng suốt chân chính.
o    Hành động chân chính: Hành động theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống chung của mọi người, mọi loài. Hành động có thận trọng, không tổn hại đến nghề nghiệp, tài sản, danh giá và địa vị của kẻ khác. Hành động chân chính là hành động có lương tâm, đạo đức trong địa vị của mình, biết gìn giữ tánh hạnh. Biết hy sinh chính đáng để đem lại lợi lạc cho quần sanh.
o    Hành động không chân chính: Hành động không gìn giữ các phép tắc, giới điều. Hành động chỉ vì lợi mình mà hại người.
5- Chính mạng: Mạng là sự sống, đời sống. Đời sống chân chính nghĩa là sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp lương thiện, chính đáng không bóc lột, xâm hại đến lợi ích chung của người khác.
o    Đời sống chân chính: Sống bằng khả năng, tài năng chân chính, không lừa dối gạt người. Sống thanh cao, đúng chính pháp, không mê tín.
o    Đời sống không chân chính: Làm tổn hại và náo loạn tâm trí mọi người. Sống luồn cúi, dùng miệng lưỡi, mối lái để giao dịch thân thiện. Sống chạy theo mê tín, dị đoan; sống nương tựa ăn bám vào kẻ khác.
6- Chính tinh tấn: Tinh tấn là siêng năng, chuyên cần. Siêng năng chuyên cần chân chính thẳng tiến đến mục đích và lý tưởng mà Phật đã dạy. Hăng say làm những việc chính đáng mang lợi ích cho mình và cho người.
o    Chuyên cần chân chính: Quyết tâm loại bỏ các việc ác đã sinh, ngăn ngừa những việc ác chưa sinh. Chuyên làm các việc lành việc tốt. Chuyên cần trau dồi phước đức và trí tuệ.
o    Chuyên cần không chân chính: Là người say sưa với ngũ dục và khoái lạc. Là kẻ say sưa lạc thú làm tổn hại đến người khác, không tiết chế bản thân.
7- Chính niệm: Niệm là ghi nhớ, nhớ nghĩ. Nhớ nghĩ chân chính. Chính niệm có 2 loại: Chính ức niệm và chính quán niệm. Ức niệm là nhớ nghĩ đến quá khứ, những chuyện đã qua. Quán niệm là quán sát cảnh hiện tại và bắt đầu của tương lai.
o    Ức niệm chân chính: Nhớ đến tứ ân. Nhớ đến những lỗi lầm xưa, đừng để tái phạm trong hiện tại và tương lai.
o    Ức niệm không chân chính: Nhớ lại những oán hận để phục thù. Nhớ lại những hạnh phúc mong manh không ích lợi. Nhớ lại hành động oai hùng, dùng thủ đoạn xảo trá, tàn bạo đã qua để hãnh diện tự đắc.
o    Quán niệm chân chính: Quán niệm Từ bi (thấy nỗi khổ của chúng sinh trong luân hồi sinh lòng thương xót, tìm nhiều phương tiện để giúp đỡ họ; thấy sự mê lầm của mình và người dẫn đến sầu, bi , khổ, ưu và não, thực hành lời Phật dạy để chấm dứt mê lầm) và quán niệm Trí huệ (quán niệm nguyên nhân sinh hóa vũ trụ, oán thân, tốt xấu, cao thấp; quán niệm thực tướng của các pháp để vững tiến trên con đường giải thoát).
o    Quán niệm không chân chính: Nhớ nghĩ đến dục lạc, khoái cảm. Nhớ nghĩ đến kế sách, âm mưu và phương tiện giết hại lẫn nhau. Nhớ nghĩ đến văn tự xảo trá để gạt người.
8- Chính định: Định trong Phật học hiểu là Thiền định. Định là tập trung tư tưởng tu tập thiền định. Chính định là tập trung tư tưởng vào vấn đề chính đáng, đúng chân lý, lợi mình và người.
o    Thiền định chân chính: gồm có
Bất tịnh quán: quán các pháp không thanh tịnh, để trừ tham dục, si ái v.v…
Từ bi quán: Quán sát tất cả chúng sanh đồng thể tánh thanh tịnh, không hơn không kém để tôn trọng, kính quý và đoạn trừ tâm hận thù.
Nhân duyên quán: Quán tất cả pháp đều do nhân duyên mà thành, không có một pháp nào riêng biệt trong thế giới tương tức tương nhập, không chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ ngu si, thiên chấp.
Giới phân biệt quán: Nghĩa là phân biệt và quán sát sự giả hợp của 18 giới (6 căn, 6 trần, 6 thức) để thấy không thật có ngã pháp và diệt trừ ngu si cố chấp.
Sổ tức quán: Nghĩa là quán hơi thở, để đối trị tâm tán loạn để đi sâu vào thiền định.
o    Thiền định không chân chính: Thiền định để cầu thác sinh các cõi trời. Thiền định để luyện bùa chú, thần thông, phép lạ, trường sinh bất tử.

-          Tam pháp ấn: Pháp là chính pháp, giáo pháp, hay toàn bộ tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được các đệ tử ghi chép lại trong Tam Tạng. Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp ấn là dấu hiệu của chính pháp, là tiêu chuẩn để chứng minh cho tính đúng đắn và chính thống của giáo lý đạo Phật. Ba đặc điểm nổi bật – ba khuôn dấu của chính pháp, ba bản chất của thế giới hiện tượng trong giáo lý đạo Phật là: Vô thường, Khổ, Vô ngã.
o      thường (Anitya): nghĩa là biến dịch, thay đổi, không cố định. Vạn vật không đứng yên một chỗ mà luôn luôn biến đổi hình dạng, đi từ trạng thái hình thành sang biến hoại rồi tan rã theo luật Thành – Trụ - Hoại – Không. Như vậy, trong giới tinh thần lẫn vật chất, không có cái gì cố định, vạn pháp đều nằm trong dòng biến dịch không ngừng. Một pháp vừa sinh là đi dần đến tan rã. Một pháp tan rã là mở đầu cho một pháp đang sinh. Thực tại không phải ao tù mà là một dòng nước. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian do duyên sinh đều mang tính vô thường – tức không mang tính đồng nhất bất biến. Vô thường có ba loại: thân vô thường (thân này là giả tạm, mong manh, do duyên sinh nên cũng theo thời gian mà hoại diệt, tan rã), hoàn cảnh vô thường (sơn hà đại địa, thế sự công danh, thăng trầm vinh nhục…), tâm vô thường (tâm thức con người luôn biến đổi như dòng suối chảy mãi không ngừng, tâm được tạo từ các niệm sinh diệt liên tục, chuyển hóa liên miên bất tận).
o    Khổ (Dukkha): là chịu đựng, kham nhẫn, bức bách, đau đớn… Thế gian là giả tạm, bất toàn, trống rỗng. Những trạng thái mà người ta cho rằng hạnh phúc vui vẻ cũng là mầm mống của khổ đau. Khổ là một sự thật mang tính phổ biến và hiện diện dưới nhiều hình thái đa dạng. Khổ được biết qua 8 hiện tượng: sinh khổ (khổ lúc xuất sanh, tái sinh, hoạch đắc và khổ trong đời sống hằng ngày), già khổ (già là điều kinh hãi, thân xác ta biến diệt hư hoại từng giây từng phút, mơ ước bị chôn đi), bệnh khổ (bệnh tật làm ta khổ), tử khổ, biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán tắng hội khổ (người mình căm ghét mà phải gặp mặt thì khó chịu vô cùng), ngũ ấm xí thạnh khổ (thân người do năm ấm sắc – thọ - tưởng – hành – thức giả hợp lại mà thành, ngũ ấm này luôn xung đột, mâu thuẫn, chi phối lẫn nhau khiến con người chịu biết bao khổ sở).
o    Vô ngã: nghĩa là không có một bản chất trường tồn, bất biến, không có một chủ thể tuyệt đối, không có một linh hồn bất diệt, không có đấng sáng tạo vĩnh cửu. Vạn vật do duyên sinh. Mỗi hiện hữu của chúng sinh đều trong tương quan, do bốn đại kết hợp – năm uẩn định hình, do tác động nhân duyên mà thành. Thế nên tất cả đều vô ngã. Còn con người, do vô minh, tham ái, do ước vọng sinh tồn, sợ mất sở hữu, sợ mất bản thân… nên chúng ta đã chấp ngã, tự tạo ra một hay nhiều đấng tối cao, linh hồn bất tử (Ngã) để được che chở và mãi mãi trường tồn.
Đức Phật khẳng định, mọi sự vật trên đời không có tướng trạng cố định, thay đổi không ngừng theo luật “Sinh – Trụ - Dị - Diệt” hay “Thành – Tựu – Hoại – Không”, do đó không có chủ thể nhất định, tất cả đều vô ngã.
Vô ngã là giáo lý đặc biệt trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Thực tại khách quan là Vô Thường và Vô Ngã. Biểu hiện của Vô Thường và Vô Ngã ở nơi tâm lý chấp thủ của chúng sinh là Khổ.

-          Con đường tu tập: Giới – Định – Tuệ. Đây là cách thức tu tập để đoạn trừ phiền não, chứng nhập quả vị giải thoát hoàn toàn, không còn nằm trong sự kiềm tỏa của tam giới và không dừng lại ở phước báo sinh thiên.
o    Giới: là cách phòng ngừa, điều phục, chế ngự mọi điều ác… bằng sự tỉnh giác, tri kiến, kham nhẫn, tinh tấn… để đạt sự thanh tịnh ba nghiệp, sự giải thoát.
o    Định: là trạng thái tâm ý chuyên chú tập trung vào một đề mục, một đối tượng nhất định để tâm không bị xao động, nhiễu loạn do những tác động chủ quan và khách quan.
o    Tuệ: là trí và tuệ. Là tu tập làm phát sinh trí tuệ vô lậu.

-          Giáo pháp Phật Giáo nằm trong Tam Tạng (ước lượng lớn hơn 11 lần toàn bộ Kinh Thánh của Ki-tô giáo), đề cập đến ba phương diện: giáo lý, thực hành và chứng ngộ; bao gồm
o    Kinh tạng: các bài giảng của Đức Phật và các đại đệ tử. Gồm 5 bộ chính: Trường bộ (34 bài kinh dài), Trung bộ (152 bài kinh thiết yếu được phân theo chủ đề - đây là bộ quan trọng nhất), Tương Ưng bộ (2.889 bài kinh ngắn), Tăng Chi bộ (2.308 bài kinh), Tiểu bộ (tập hợp 15 bộ kinh nhỏ). Ban đầu chỉ có văn tự bằng tiếng Pali và tiếng Phạn. Ngày nay đã được dịch sang rất nhiều ngôn ngữ. Mỗi một kinh là một bài riêng biệt, xử lý một vấn đề riêng biệt.
o    Luật tạng: các giới luật của người xuất gia, lịch sử phát triển của tăng già (tăng già gồm Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ). Gồm 5 bộ: Baladi, Ba dật đề, Đại phẩm, Tiểu phẩm, Toát yếu.
o    Luận tạng (hay Vi diệu pháp tạng): các quan niệm về triết học và tâm lý học. Luận tạng nguyên thủy bàn bốn vấn đề tột cùng rốt ráo: tâm, danh, sắc, Niết bàn. Luận tạng nguyên thủy có 7 quyển: Pháp tụ, Phân biệt, Giới thuyết, Nhân thi thiết, Biện giải, Song luận, Nhân duyên thuyết. Ra đời sau khi đã phân chia nhiều trường phái, nên nội dung Luận tạng không còn tính thống nhất giữa các bộ phái.

Có thể hiểu: Luật tạng chủ yếu dạy về Giới, Kinh tạng chủ yếu dạy thiền Định, Luận tạng chủ yếu dạy tu tập trí Tuệ.

Ngoài Tam Tạng kinh còn có các bộ Chú Giải và Phụ Chú Giải Kinh Điển.

Ngày nay có ba phiên bản Tam Tạng Kinh Điển được chấp nhận bởi ba trường phái Phật giáo: Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pali của Phật Giáo nguyên thủy (Thượng Tọa Bộ), Đại Tam Tạng Kinh bằng tiếng Trung Quốc của Phật giáo Đại Thừa (vốn được dịch ra từ tiếng Phạn), Tam Tạng Kinh Tây Tạng bằng ngôn ngữ Tây Tạng của Phật Giáo Kim Cương Thừa (Mật giáo).
Chỉ có bộ kinh bằng tiếng Pali được coi là bộ nguyên thủy từ thời Đức Phật (tiếng Pali được nhiều nhà nghiên cứu xác định là tiếng mẹ đẻ của Đức Phật), hai phiên bản kia có nhiều bộ được sáng tác sau khi Phật nhập diệt nên không được Thượng Tọa Bộ thừa nhận.


Các tôn phái trong Phật Giáo

Như đã nói, hiện nay có ba trường phái Phật Giáo lớn nhất trên thế giới:
-          Thượng Tọa Bộ (phái Nam Tông, hay Tiểu Thừa)
-          Đại Thừa (phái Bắc Tông)
-          Kim Cương Thừa (Mật Tông, Mật giáo hay phái Tây Tạng)

Thượng Tọa Bộ là phái lâu đời nhất trong lịch sử Phật giáo, trung thành tuyệt đối với giáo lý nguyên thủy của Phật Tổ. Họ chỉ tập trung vào con đường đạt đến giải thoát, còn lý luận triết học không đóng vai trò quan trọng, thậm chí có thể gây xao nhãng, trở ngại cho con đường tu tập đạt đến giải thoát thực sự – giống như quan điểm của Đức Phật. Quan điểm của phái là chuyên tâm đi sâu vào việc phân tích tỉ mỉ các trạng thái đời sống con người, bản chất sự vật, cơ cấu của chấp ngã, chỉ ra con đường thoát khổ.

Thượng Tọa Bộ hiện có mặt ở Nam Á (Sri Lanka, Bangladesh), Đông Nam Á (Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Singapore), Trung Quốc, Ấn Độ, phương Tây (có từ thế kỷ 19, gần đây số lượng tăng khá nhanh). Ở Việt Nam, Thượng Tọa Bộ đã để lại dấu vết sâu đậm trong lịch sử văn hóa của người Khmer Tây Nam Bộ từ thế kỷ thứ 4, nay vẫn có vai trò tinh thần tuyệt đối quan trọng với cộng đồng này (ở nước ta, dân số Khmer chiếm 1,07% nhưng số ngôi chùa theo phái Thượng Tọa Bộ chiếm tới 3%).

Thượng Tọa Bộ chỉ tôn thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ nhìn Đức Phật bằng con mắt “thực tế lịch sử”. Họ cho rằng, trên đời chỉ có một Đức Phật. Ngài cũng là một con người bình thường bằng xương bằng thịt, có những nhu cầu sinh hoạt ăn, mặc, ở… cũng chịu chi phối của vô thường, trải qua mọi thống khổ của kiếp người sinh – già – bệnh – chết. Ngài chỉ khác hơn người thường ở chỗ, Ngài đã hoàn toàn giác ngộ; nhờ nỗ lực tu hành mà đạt đạo quả; nhờ tâm từ bi mà bôn ba khắp nơi hóa độ chúng sinh. Chúng sinh còn mê, nên tạo nghiệp thọ khổ cứ luẩn quẩn trong vòng sinh tử luân hồi; Đức Phật đã ngộ, nên thoát hẳn sinh tử luân hồi. Đó cũng là điểm khác biệt giữa mê và ngộ.

Quả vị Alahán là lý tưởng của người theo Thượng Tọa Bộ. Họ cũng cho rằng, các Alahán có một thể tính cao khiết, hoàn hảo. Đức Phật chính là vị Alahán đầu tiên. Alahán là một từ có trước cả khi Đức Phật xuất hiện, để chỉ một người xứng đáng được cung kính và cúng dường, một vị đã đạt đến cứu cánh tối thượng. Trong Đạo Phật, cứu cánh tối thượng là Niết bàn, quả vị Alahán là người đã chứng đắc Niết bàn. Đức Phật không khác các Alahán về mặt phẩm chất, nhưng Ngài lại nổi bật lên trong số các Alahán, không phải vì sự khác biệt trong phạm trù chứng đắc hay lợi thế về mặt thời gian, mà là sự khác biệt trong vai trò của Ngài: Ngài là vị đầu tiên trong thời đại đã chứng đắc quả vị, rồi Ngài lại phục vụ như một bậc thầy tâm linh, một người dẫn đường không ai sánh kịp để phổ biến con đường giải thoát cho mọi người biết – nhờ những kỹ năng xuất sắc đến mức hoàn hảo trong việc giảng dạy (Đức Phật luôn luôn tùy biến sử dụng giáo pháp thích hợp chính xác với căn cơ của bất kì ai đến xin Ngài chỉ dạy). Hơn nữa, Ngài được trời phú cho những phẩm hạnh và tướng mạo ưu việt, nên cũng là thành viên của một đẳng cấp khác – các bậc Như Lai. Trong hiện thực, Đức Phật không dạy Bồ Tát đạo. Lý tưởng về Bồ Tát được cho rằng xuất hiện sớm nhất một thế kỷ sau khi Ngài nhập diệt. Vì thế Thượng Tọa Bộ không đề cập tới Bồ tát.

Phái Thượng Tọa Bộ có hệ thống giáo lý và sinh hoạt của tăng đoàn gần gũi nhất với thời của Đức Phật. Họ gìn giữ truyền thống và kinh điển qua hàng ngàn năm một cách nghiêm túc và nhất quán đến mức đáng kinh ngạc.
Giáo lý và hệ thống kinh điển Thượng Tọa Bộ có lịch sử truyền thừa lâu đời nhất trong lịch sử kết tập kinh điển Phật giáo. Lịch sử Phật giáo đã trải qua cả thảy 6 lần kết tập kinh điển (3 kỳ ở Ấn Độ, 1 kỳ ở Sri Lanka, 2 kỳ ở Myanmar). Trong kỳ 6 (năm 1956 tại Myanmar), kinh điển đã được viết chính thức trên giấy trắng mực đen bằng tiếng Pali và tiếng Myanmar; vì bấy giờ thế giới vẫn còn có 6 vị Thánh tăng thuộc lòng Tam Tạng (45 cuốn chính tạng, 92 cuốn chú giải). Hệ thống kinh điển cơ bản này được Thượng Tọa Bộ sử dụng để truyền bá tới tất cả các quốc gia. Ở Việt Nam, toàn bộ Tam Tạng vẫn chưa được dịch hết sang tiếng Việt, nhất là các phần chú giải. Hệ thống Tam Tạng kinh nguyên thủy gọi là kinh A hàm.

Về phương diện sinh hoạt, thời của Phật Tổ không hề thấy có giới luật ăn chay. Tỳ kheo đi khất thực, ai có lòng cho gì thì họ ăn nấy. Giai đoạn đó đời sống còn thô lậu, khó khăn, Đức Phật phải tùy nghi, dùng phương tiện khất thực để vừa hoằng pháp, vừa phát triển, lại vừa sinh tồn. Vì thế người theo Thượng Tọa Bộ được phép thọ dụng các loại thức ăn do cúng dường, kể cả thịt cá, gọi là “tam tịnh nhục” (không thấy, không nghe, không nghĩ) – điều này được ghi trong Luật tạng.
Dù vậy, không sát sinh là giới luật đức Phật đưa ra, vì Ngài cho rằng mọi sinh vật đều sợ chết, sự sống là điều quí báu nhất trên đời, nếu thực phẩm có sự chết của chúng sinh thì tốt hơn là không nên ăn. Như vậy Đức Phật khuyến khích ăn chay, nhưng Ngài cũng dạy rằng, nên tùy duyên và bất biến. Tùy duyên là tùy theo hoàn cảnh, thời tiết, nhân duyên, mà thay đổi phương tiện cho thích hợp. Bất biến là không được thay đổi những giáo lý quan trọng cốt tủy của đạo Phật, như từ bi, bình đẳng…
Chư tăng Thượng Tọa Bộ chỉ dùng ngọ (ngày ăn một bữa chính, không ăn sau 12 giờ trưa, thường sáng ăn cháo, trưa ăn cơm chính, tối ăn nước cháo hoặc nước rau quả, uống sữa…). Thức ăn phong phú, đa dạng, không phân biệt chay mặn, do Phật tử tùy tâm cúng dường.
Theo truyền thống, phái Thượng Tọa Bộ thường an cư tại chỗ, vì số lượng tăng sĩ ít (tuy nhiên, trong lịch sử, giới tăng lữ của phái này nổi tiếng vì không ngại dấn thân vào những chuyến viễn du đầy nguy hiểm để truyền bá Phật giáo). Hằng năm, có ba tháng – gọi là mùa An cư, thường từ 16 tháng 6 tới 15 tháng 9 âm lịch – tăng sĩ trong phái tụ tập, cùng nhau tu học. Kế đó, chư tăng có một tháng để dâng y (từ 16 tháng 9 tới 15 tháng 10 âm lịch). Thường mỗi chùa cử hành lễ dâng y vào một ngày cố định trong tháng, luân phiên từ chùa này đến chùa kia. Không khí mùa lễ Dâng y vô cùng rộn ràng, vui vẻ.
Phái này còn giữ gìn cả truyền thống tam y nhất bát truyền từ thời Đức Phật tới ngày nay. Tam y là đồ mặc của tăng ni (gồm y tăng già lê, y nội và y vai trái), y phục dùng vải quấn mà thành, không đeo tràng hạt. Nhất bát là bình bát – dụng cụ để chư tăng mang đi khất thực mỗi ngày. Trong chùa, chư tăng mặc hở vai phải, ra ngoài mặc kín mình. Khi khất thực chỉ được đi chân đất, không đội nón mũ, thường đi trong khu vực lân cận nhà chùa, đến khi đầy bình bát và đậy được nắp bát, không để thức ăn quá vung. Chư tăng khi nhận được đồ cúng tiến sẽ đọc kinh chúc phúc, cầu an lành cho vị đó. Khi về, họ lấy phần đồ ăn cho vào bình bát của mình, chỉ lấy vừa đủ dùng, tránh lãng phí. Ăn xong, họ tự rửa bình bát của mình. Ngày nay ở một số chùa, chư tăng tự trồng trọt, chăn nuôi nên không phải đi khất thực.

Kiến trúc các công trình của Phật giáo Thượng Tọa Bộ không nhất quán, mỗi chùa một vẻ, mỗi quốc gia một kiểu. Chùa/Tổ đình Bửu Quang do Hòa thượng Hộ Tông và nhóm Phật tử của cụ Nguyễn Văn Hiển đồng sáng lập năm 1938 được Trung Tâm Sách Kỷ Lục công nhận là ngôi chùa Phật Giáo Thượng Tọa Bộ (Nam Tông) đầu tiên ở Việt Nam.

Về chi phái, sự phân chi phân nhánh của phái Thượng Tọa Bộ cũng diễn ra từ rất sớm – khoảng 300 năm sau khi Đức Phật nhập diệt (phân thành 11 nhánh ở Ấn). Sau đó, dù chỉ khác biệt quan điểm về một vấn đề rất nhỏ, họ cũng lập ra một phái mới.
Khoảng thế kỷ 3-7 ở Ấn Độ, Đại Thừa thắng thế, các chi phái của Thượng Tọa Bộ tàn lụi dần, một phần chuyển hướng sang các nước khác (Sri Lanka, Mianmar…). Đến thế kỷ 13, Phật giáo bị xóa khỏi Ấn Độ, lúc đó Thượng Tọa Bộ đã có căn cơ vững chắc ở nhiều nước Nam Á và Đông Nam Á, thậm chí còn trở thành quốc giáo ở một số quốc gia.
Đầu thế kỷ 20, Thượng Tọa Bộ được khôi phục ở Ấn cùng các chi phái khác của Phật giáo. Khá nhiều người phương Tây cũng chú ý đến phái này. Nhưng để Thượng Tọa Bộ chấn hưng lại và đạt thành tựu rực rỡ như thời Đức Phật vẫn còn cần một hành trình rất dài.
Ngày nay, chi phái thường phân theo lãnh thổ quốc gia hoặc tộc người, chẳng hạn như nhánh Thượng Tọa Bộ ở Thái, Thượng Tọa Bộ ở Campuchia, Thượng Tọa Bộ của người Khmer Tây Nam Bộ…


Phái thứ hai, Đại Thừa, manh nha từ kỳ kết tập kinh điển thứ 2 (100 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn), nhưng chỉ thực sự phát triển một cách có hệ thống từ thế kỷ thứ 3 nhờ ngài Long Thọ. Đây là phái chủ trương thay đổi Tam Tạng theo thời thế, có nhiều tư tưởng tiến bộ tích cực trong quá trình phát triển, nhưng cũng bị cáo buộc kèm theo không ít hành trì mang tính mê tín dị đoan, tà giáo.
Đại Thừa nhanh chóng chiếm ưu thế ở Ấn Độ tới tận thế kỷ 7-10, và truyền bá rộng rãi sang Trung Quốc, Nhật, Triều Tiên, Việt Nam… Ngày nay, Đại Thừa có mặt khắp nơi trên thế giới, với số lượng tín đồ đông đảo nhất trong số ba tông phái Phật giáo.

Phái Đại Thừa thờ nhiều vị Phật và nhiều vị Bồ Tát.
Phái này nhìn Đức Phật bằng con mắt “huyền thoại, siêu hình”. Họ cho rằng Đức Phật Thích Ca không phải người thường. Cái thân xác của Ngài chỉ là một hóa thân trong một kiếp mà thôi. Thực ra Ngài đã thành Phật từ vô lượng kiếp rồi. Nhưng vì muốn hóa độ chúng sinh, nên Ngài mới hiển thị ở loài người, trong hình hài Thái tử Tất Đạt Đa, để dễ bề giáo hóa. Phật Thích Ca chỉ là một hóa thân trong muôn triệu hóa thân, chỉ là thân phàm trong một giai đoạn tạm thời giữa muôn triệu giai đoạn. Trong kinh điển Đại Thừa, một số đoạn huyền thoại về Đức Phật được cho rằng đã tìm cách chen vào các bản kinh cổ điển nhất (ví dụ, trong những hóa thân quá khứ Ngài đã hoàn thành những điều kiện khó khăn để kiếp này có thể đạt được địa vị phi thường cao quí; khi Ngài đầu thai vào bụng mẫu hậu và khi chào đời có luồng ánh sáng vô lượng xuất hiện; Ngài vừa ra đời đã được các vị thần chào đón, Ngài đi bảy bước và tuyên bố mình là bậc tối thượng trên đời;…).
Đại Thừa cho rằng, mỗi chúng sinh đều có Phật tánh hay pháp thân. Pháp thân lặng lẽ, không sinh, không diệt, trùm khắp pháp giới. Người nào cũng có Phật trong mình. Xứ nào cũng có Phật. Tùy duyên ứng hiện, hữu cảm tất ứng, nơi nào tưởng nhớ Phật, Phật sẽ hiện thân ở đó để giáo hóa.
Các vị Phật cũng có thể tương trợ để hóa độ chúng sinh hoặc giới thiệu công hạnh cho nhau. Ví dụ, Đức Phật Thích Ca giới thiệu đức Phật A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc cho chúng sinh biết, để niệm danh hiệu Ngài mong cầu về cõi đó.

Lý tưởng Bồ Tát là hạnh nguyện của đệ tử Đại Thừa. Dù trong kinh tạng nguyên thủy, chưa bao giờ thấy nói về quả vị Bồ Tát hay Bồ Tát đạo. Tại sao lại như vậy? Đến bây giờ điều này vẫn là một bí ẩn với giới nghiên cứu. Phái này cho rằng các Alahán còn có thoái lui, chỉ liên quan đến chứng đắc của cá nhân – tự mình chứng đắc mà không có đạo sư, cũng không trở lại giáo huấn chúng sinh. Bồ tát là người đã chứng đắc, nhưng quay ra phục vụ kẻ khác, hy sinh thân mình vì lợi ích của kẻ khác – làm đạo sư dẫn dắt người ta tới bờ giác ngộ, nhờ thế tạo được nhiều công đức và đạt đức hạnh đưa tới chứng đắc Phật quả. Trên ý tưởng này, Đức Phật Thích Ca chính là một vị Bồ tát. Không phải ngẫu nhiên mà trí tưởng tượng của đệ tử phái Đại Thừa đã sản sinh ra một kho tàng tích truyện rộng lớn về các tiền thân của Đức Phật, nâng cao năng lực của Ngài và gán cho Ngài những đức tính của đấng toàn năng, mở rộng số lượng các vị Phật, các vị Bồ Tát… tới cả vũ trụ và vô lượng thế giới.
Các vị Bồ Tát cũng như các vị Phật vậy, có mặt ở khắp các cõi. Cứ nơi nào chúng sinh đau khổ, khẩn cầu cứu độ, Bồ Tát sẽ thị hiện để cứu khổ. Người hoạt động vì lợi lạc và hạnh phúc của nhân gian. Hình ảnh Bồ Tát và Phật đạt đến đỉnh cao, mang một sức mạnh có tính lý tưởng, ràng buộc, qui chuẩn và ước lệ. Những người theo Đại Thừa từng tự cho rằng con đường Bồ Tát đạo của họ tối ưu hơn, cao cả hơn lý tưởng Alahán của phái Thượng Tọa Bộ, rằng Thượng Tọa Bộ hẹp hòi trong vấn đề giải thoát cá nhân, sợ hãi vòng sinh tử, ít lòng từ bi, ít hoạt động đưa đến lợi lạc cho kẻ khác. Vì vậy, nhiều người trong số họ quá bận rộn với các nhiệm vụ xã hội mang lại lợi ích cho chúng sinh đến nỗi từ bỏ việc tu tập thiền định, điều phục tâm, phát triển trí tuệ như lời Đức Phật dạy. Thực tế, các Phật tử mẫn tiệp và giới học giả đều biết rằng, Alahán và Bồ tát giống nhau nhiều hơn người ta vẫn tưởng. Alahán và những người cầu quả vị Alahán thường hoạt động để cải thiện đời sống vật chất và tâm linh của chúng sinh – giống Bồ tát. Còn Bồ tát và những ai theo đuổi Bồ tát hạnh cũng phải trải qua thời gian dài nhập thất hành thiền, tu tập những kỹ năng thiền định đến trình độ xảo diệu, học tập tất cả giáo lý – gần giống kỹ năng của vị tu theo hạnh Alahán - điều kiện để họ có thể đạt được quả vị Phật.

Về giáo lý, Đại Thừa có hệ thống kinh điển đồ sộ nhất trong ba trường phái Phật giáo. Hệ thống triết học Đại Thừa luôn biến hóa, cải biên qua từng thời kỳ và ở mỗi quốc gia khác nhau, do đó vô cùng phong phú. Nhiều Thánh tăng của phái này có trí tuệ uyên thâm, quyền lực to lớn, đạo hạnh cao khiến thế tục phái kính ngưỡng. Phái cũng có nhiều học giả lỗi lạc, góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của môn phái. Đây cũng là một trong các lý do khiến Đại Thừa vẫn còn tồn tại và phát triển mạnh mẽ đến tận ngày nay.

Về phương diện sinh hoạt, người xuất gia ăn chay nghiêm túc, không được phép ăn mặn – dù loại thịt cá đó có là “tam tịnh nhục”. Các nhà nghiên cứu cho rằng, việc ăn chay này xuất phát từ Trung Quốc. Khi Phật giáo Đại Thừa lan tới Trung Quốc khoảng thế kỷ thứ 3-4, hệ thống giáo lý và giới luật của nó đã bị các tổ sư ở Trung Hoa thay đổi cho phù hợp với căn cơ và văn hóa nơi này. Tuy ăn chay, nhưng các món ăn được chế biến cầu kỳ, thậm chí còn mô phỏng thịt cá của thế tục giống như thật. Tăng sĩ không đi khất thực. Khi ăn, dùng bát, chén, đĩa, đũa… như người bình thường.
Phái Đại Thừa an cư tập trung, vì số lượng tăng ni lớn.
Y phục của tăng sĩ phái Đại Thừa khác hoàn toàn phái Thượng Tọa Bộ, được may thành quần áo chứ không dùng vải quấn. Sự khác biệt này, theo các nhà nghiên cứu, mới chỉ bắt đầu từ khi Đạo Phật du nhập vào Trung Quốc. Có thêm mũ mão, hia, hài, trượng, trang phục nhiều màu sắc hơn, có đeo tràng hạt… Y phục cũng thay đổi dần theo thời gian và lãnh thổ cho gần gũi với đời sống hằng ngày.

Chùa chiền phái Đại Thừa tô vẽ hay đúc tượng Phật có nhiều nét giống người nước họ, vì họ cho rằng thế mới là Phật giáo nước họ - mỗi người đều có ông Phật của riêng mình. Điều này tạo ra mối liên hệ gần gũi, thân thiết với người dân, dễ bề cảm hóa, lôi kéo họ tin và sùng kính đạo. Chùa thường thờ Phật và các Bồ Tát, nặng về lễ bái. Kiến trúc chùa tùy biến theo từng quốc gia. Các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nhật, Triều Tiên, Hàn Quốc có kiến trúc chùa khá giống nhau (hình tháp, trang trí rồng phượng…) do ảnh hưởng từ lịch sử.

Trong quá khứ, Đại Thừa giai đoạn đầu là Đại Chúng bộ, sau được chia thành 9 nhánh, thịnh suy ở từng khu vực đồng bằng sông Hằng. Tới thế kỷ 4-5, phái Đại Chúng chia thành hai tôn phái lớn Không, Hữu. Sau đó, chia lại thành Mật giáo, Hiển giáo (Không, Hữu nhập vào Hiển giáo). Khi Mật giáo lớn mạnh, phát triển độc lập thành nhánh riêng, thì Hiển giáo cũng thay đổi và lan sang các nước lân cận.
Đại Thừa ngày nay cũng có vô số chi phái lớn nhỏ, một số kế thừa từ các tôn phái trong quá khứ, một số khác mới dựng lên.
Hai tôn phái Đại Thừa được biết đến nhiều nhất hiện nay ở Việt Nam là Tịnh Độ và Thiền tôn.
Tịnh Độ tôn: được nhắc tới từ thời Đức Phật, nhưng mãi tới đời Đông Tấn ở Trung Hoa, ngài Huệ Viễn đại sư bắt đầu truyền bá, lại được các đại sư nhiệt liệt hoằng dương tán thán, mới chính thức trở thành một tôn phái. Ngài Huệ Viễn thành vị Tổ đầu tiên của tôn này.
Ưu điểm lớn nhất của tôn này là ai ai cũng tu trì theo được.
Tịnh Độ dạy mọi người tin tưởng và thực hành niệm Phật thường xuyên, phát nguyện sinh về cõi Cực Lạc.
Tôn này cực thịnh ở Trung Quốc và Việt Nam thời hiện đại (thế kỷ 20 đến nay), có lẽ do phương pháp thực hành dễ dàng, đơn giản nên lôi cuốn được nhiều tín đồ, đặc biệt là người già. Tôn này không được người phương Tây tu học, nguyên nhân chính được cho là vấn đề ngôn ngữ.
Về bản chất, tôn này thuộc phái Đại Thừa, sử dụng và tán dương kinh điển Đại Thừa. Ba bộ kinh quan trọng của tôn phái này gồm: kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, kinh A Di Đà.
Thực tế lịch sử, niệm Phật cũng là một trong các phương pháp Đức Phật Thích Ca từng giảng dạy cho đối tượng người già, người bệnh… để họ có thể đạt tới giải thoát, nhưng con đường này có lẽ vì quá dễ dàng hành trì, nên không phải ai cũng nhất tâm theo đuổi, do đó cũng không dễ chứng đắc hoàn toàn. Đặc biệt ngày nay, người Việt và người Trung Quốc lạm dụng Tịnh Độ theo hướng cúng bái mê tín quá nhiều, càng gây phản tác dụng.
Ba điều thiết yếu nhất cho người tu theo pháp môn Tịnh Độ là: tín – hạnh – nguyện. Dù chỉ thiếu một cũng không được. Tín là lòng tin, là cái tâm niệm của mình hiện hữu ngay đây, không trước không sau (theo thời gian), ngang suốt cõi (theo không gian), theo duyên mà chẳng biến đổi, quyết không lừa dối, không nghi ngờ, tin lời Phật dạy, tin có bốn cõi, tin rằng ở cõi Cực Lạc các bậc Thiện, Thánh đều hội một chỗ, tin rằng nhờ tu tập cách niệm Phật mà được vãng sinh về cõi Cực Lạc… Hạnh là đạo hạnh, phẩm đức, năng làm việc thiện, mang lại lợi lạc cho tha nhân, chuyên tâm hành trì, một lòng không loạn. Nguyện là phát nguyện, thề nguyện đã chán cõi Ta-bà (thế giới chúng ta đang sống, có nhiều ô uế, khổ ải), mong cầu về miền Cực Lạc (thế giới của thần Phật, các bậc hiền thánh, chỉ toàn điều vui vẻ, hạnh phúc).
Có 4 cách niệm Phật: xưng danh niệm Phật (ở chỗ vắng lặng, để tâm ý an định, buộc vào một đức Phật, chuyên tâm niệm danh hiệu Ngài ấy, vững vàng ngồi xây mặt chính trước Phật, niệm đi niệm lại vô biên – cách này dễ nhất nên được phần nhiều tín đồ sử dụng), quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, thiệt tướng niệm Phật.
Thiền tôn: thiền định là công cụ chính của Phật giáo. Phật Tổ thành đạo cũng chính bằng cách ngồi thiền 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề. Do đó, thiền là phương pháp tu luyện của hầu hết các chi phái trong Phật giáo. Tùy mỗi trường phái, cách thức và lý luận triết học về thiền định có thể khác nhau ít hoặc nhiều. Ngày nay, Thượng Tọa Bộ (Tiểu Thừa) được người ta biết đến với loại Thiền Minh Sát, Đại Thừa có phái Thiền Tôn (hay Thiền Tông), Mật Giáo có kiểu hành thiền đặc biệt kiểu yoga (Du già).
Do là phương pháp cội rễ cơ bản của Phật giáo, nên Thiền tôn có mặt trước tiên ở Ấn Độ với tổ đầu tiên là ngài Ma Ha Ca Diếp (người kế tục Phật Tổ điều hành tăng đoàn). Lịch sử Phật Giáo Ấn Độ cũng là giai đoạn thăng hoa của Thiền tôn với 28 vị Tổ sư.
Khi sang Trung Hoa, các thiền phái cũng mọc lên như nấm. Thiền Tôn phát triển mạnh nhất và chiếm địa vị độc tôn trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa thời phong kiến, vì hợp với căn cơ người Hoa. Vị tổ cuối cùng – tổ đời thứ 28 của Thiền phái Ấn Độ - Bồ Đề Đạt Ma, sang truyền đạo ở đây, đã trở thành vị Tổ đầu tiên của Thiền Tôn Trung Hoa (Đệ Nhất Tổ Sư Thiền Trung Hoa). Kế tục ngài là 5 vị tổ: Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Huệ Năng. Khi Phật giáo Trung Hoa suy tàn cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 thì các chi phái Thiền Tôn cũng biến mất.
Ở Việt Nam, năm 580 Đa Lưu Chi sang truyền bá thiền tôn và Mật giáo, trở thành Sơ Tổ Thiền Tôn Việt Nam. Những năm về sau dưới các triều đại phong kiến, khi Phật giáo thịnh hành, Thiền tôn cũng giữ địa vị độc tôn trong văn hóa đời sống người Việt. Sang thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Phật giáo suy bại, Thiền tôn cũng biến mất trong dòng lịch sử.
Có vẻ như Thiền phái liên quan chặt chẽ đến thăng trầm lịch sử các dân tộc. Điều này không phải ngẫu nhiên. Vì thiền là phép định tâm. Khi tâm lý, tinh thần của một người không an, tán loạn, sợ hãi… họ không còn tâm trí để ngồi thiền, càng không thể vào định. Một dân tộc cũng vậy, khi còn phải lo bao nguy cơ sống còn trước mắt, sẽ không có chỗ cho Thiền tôn phát triển.
Ngày nay, cùng với phong trào chấn hưng Phật giáo ở châu Á và thế giới, Thiền tôn cũng được các cao tăng tâm huyết phục hồi ở Trung Quốc, Việt Nam. Nhưng việc phát triển đang gặp rào cản lớn từ thói quen lễ bái, mê tín đã bị Nho giáo làm cho hủ hóa từ mấy trăm năm nay.


Trường phái thứ ba, Kim Cương Thừa hay Mật Giáo có khuynh hướng giữ bí mật các thông tin nên khó xác định thời điểm ra đời chính xác của phái này. Xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 5 – 7 ở Bắc Ấn Độ, được cho là bắt nguồn từ Đại Thừa (là sự phát triển đặc sắc của Đại Thừa giai đoạn cuối ở Ấn, một số nghiên cứu lại cho rằng Mật tông là sự kết hợp của Phật giáo và Ấn Độ giáo), sau được truyền sang Tây Tạng (thế kỷ 11), Trung Quốc, Nhật, Mông Cổ, Nga. Ngày nay, Mật giáo có mặt ở khắp nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam, nhưng số lượng tín đồ không nhiều.
Khi Phật Tổ còn sống, Ngài cực lực phản đối thần quyền, bài xích những quan điểm thần bí, phủ định các chú thuật… Tuy nhiên, kinh tạng nguyên thủy có nhắc tới một số trường hợp khi ăn không tiêu, bị rắn độc cắn, đau răng… Đức Phật vẫn dùng vài bài chú, còn truyền dạy lại cho các đệ tử để hộ thân. Nhưng nguồn gốc của Mật chú (Mantra) được cho là xuất phát từ Bà la môn giáo. Đến thời Phật giáo phân thành bộ phái, chú pháp đã thịnh hành. Mật chú thời kỳ đầu bằng tiếng Pali, có hàm nghĩa vô cùng sâu sắc – tín đồ của nó cho rằng, xướng tụng những kinh văn này sẽ tạo công đức, phước sẽ đến họa sẽ đi, nhiếp tâm điều tức, dần đạt đến Đà la ni, thống nhất tinh thần (Nhất Tâm) – giai đoạn tối sơ của Tạp Mật.
Giáo lý Mật tông ghi rằng, Đại Nhật Như Lai (ông Tổ Mật Tông) đã bí mật truyền thừa chú pháp Mật Tông cho ngài Kim Cang Tát Đõa (Nhị Tổ Mật Tông). 800 năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, ngài Long Thọ xuất thế, mở bảo tháp Nam Thiên Thiết, nhận được truyền thừa từ đệ nhị tổ, trở thành đệ tam tổ Mật giáo. Câu chuyện này nói lên một sự thật lịch sử: Mật giáo thực ra có thể ra đời vào thế kỷ thứ 2-3 (800 năm sau ngày Phật Tổ mất), nhưng vẫn rất mơ hồ và phức tạp. Các học giả Mật giáo sau này truyền bá câu chuyện này để cố gắn nó với Phật Tổ. Không có tác giả nào của phái này quyền uy trên phương diện nghiên cứu và học thuật, cũng không có chế độ truyền thừa rõ ràng, nên người ta qui toàn bộ thời kì đầu là Tạp Mật. Từ thế kỷ 7, Mật giáo bắt đầu được chú ý. Đến tận thế kỷ 11, Mật giáo dần được bồi đắp thêm hệ thống lý luận và kinh điển, phát triển rầm rộ ở Ấn. Số lượng tín đồ tăng lên rõ rệt. Đại Thừa tại Ấn dần bị Mật giáo hóa. Đến thế kỷ 13, Mật giáo bị tiêu diệt cùng với sự biến mất của toàn bộ Phật giáo nói chung tại Ấn. Lúc ấy nó đã có đất sống mới ở Tây Tạng.

Ba yếu tố chính trong tu hành Mật giáo là: từ bi, trí tuệ, phương tiện thiện xảo. Có bốn bậc từ cao xuống thấp (bốn tantra): Tối thượng Mật tông, Thiền quán Mật tông, Nghi thức Mật tông, Lễ bái Mật tông. Triết lý và phương pháp hành trì cũng đi theo tiến trình Giới – Định – Tuệ như hai trường phái kia, nhưng đặt nặng Gia Trì Lực của tín đồ, nên khiến người ngoại đạo cảm thấy “thần thông biến hóa”, “bí ẩn li kỳ”.
Mật giáo coi trọng sư thừa pháp thống, quan hệ “sư sư tương thừa”, còn gọi là “tâm pháp” – tức phải bí mật truyền trao giữa thầy và trò. Đạo sư hay “guru” – thời Ấn Độ là nhân vật quan trọng trong Mật giáo. Ở Tây Tạng người ta gọi họ là Lạt ma. Ngày nay, Lạt ma là từ dùng chung để chỉ các vị cao tăng Tây Tạng. Về bản chất, Lạt ma là hiện thân của giáo pháp – họ giảng dạy giáo lý, thực hành các nghi lễ, hướng dẫn tu tập cho các đạo tràng.
Mật giáo rất xem trọng tu hành thực tiễn, nghi chấp phức tạp, rườm rà, việc thiết đàn, cúng dường, tụng chú, quán đảnh đều theo một mô thức đã qui định rất nghiêm khắc, còn do vị Lạt ma bí mật truyền pháp. Họ cho rằng chúng sinh nếu tu hành nhu pháp “tam mật gia trì”, tức thủ quyết ấn, miệng tụng chú, tâm quán Đức Phật, khiến cho ba nghiệp luôn thanh tịnh, tương ứng với thân miệng ý của Đức Phật, liền ngay đó tức thân thành Phật. Quan điểm cùng những nghi chấp tu hành đặc sắc, tuyệt kỹ xảo diệu xuất chúng, và cả sự bí ẩn khiến Mật giáo có sức hấp dẫn mãnh liệt.
Phép điểm đạo là một hành trì mang nặng tâm linh. Trong quá khứ, thể nhập vào Mạn đà la và lễ truyền phép điểm đạo rất công phu, riêng biệt từng lễ một. Có tiêu chí cho từng bậc khác nhau với người thể nhập Mạn đà la, ai được thọ nhận nước và mũ quán đảnh. Vị Lạt ma trước khi hành lễ sẽ phân tích cho môn đệ để họ phát tâm tu học Giới - Định - Tuệ. Một Mạn đà la được xem là rất màu nhiệm, như pháp giải độc, nhanh chóng tiêu trừ phiền não chướng và sở tri chướng, tập khí vi tế - rất khó với người có căn cơ thấp. Ngày nay, chúng được truyền bá cho mọi người.
Mật giáo nghiên cứu rất nhiều về vấn đề sinh lý của con người, dùng phương pháp Yoga (Du già) để khống chế nội bộ thân thể, tránh được ảnh hưởng của sự lưu chuyển của thời gian mà được trường thọ, thiết lập cho mình sự tái sinh hoán cốt, biến thân người mình thành thân Phật. Phương pháp yoga của Mật giáo sánh cùng thiền định: đem cả thời gian và không gian của vũ trụ thống nhất thành một thể.
Chú ý rằng yoga trong Phật giáo là một từ có ý nghĩa “tương ứng”, “hài hòa”, vốn xuất phát từ văn thư cổ của Ấn Độ giáo trước đó, còn có hàm ý là các pháp quán hành điều tức, quán phạm ngã hợp nhất, đại ngã và tiểu ngã đồng nhất thể. Phật giáo ra đời, vay mượn lại từ “yoga” để dùng trong thiền định (quán hạnh chỉ quán, tương hợp chánh lý). Nhưng Yoga trong Mật giáo sau này lại chịu ảnh hưởng từ ngoại đạo (bộ yoga Sutras của Patanjali). Yoga của Mật giáo được đặt ở vị trí rất cao. Họ cho rằng thực hành nó có thể đạt đến tất cả mục đích xuất thế - tức cảnh giới của Phật – “tức thân thành Phật”. Yoga của Mật giáo là nghi thức sinh hoạt pháp với hành vi đều thuộc thiền định, tức vượt khỏi sinh hoạt pháp về mặt hình thức, là quá trình hiện quán một cách vi tế, hành giả có thể thể nghiệm một cấp bậc nào đó của nội tại.
Do sự phức tạp, buộc phải có hỗ trợ, người muốn hành trì Mật giáo phải rất cẩn mật, nếu không sẽ cực kỳ nguy hại nếu nhầm lẫn, kể cả mất mạng, tâm thần điên đảo rơi vào ma chướng vì tâm thức không thể thống nhất. Không phải ai cũng có căn cơ tiếp thu việc tu tập kiểu này. Ở Ấn Độ ngày xưa, các vị chân sư chỉ truyền dạy Mật pháp cho vài người mà họ biết nghiệp lực và tâm nguyện người đó đã chín muồi. Sau khi truyền dạy, sự cảm ứng với pháp môn sẽ nảy sinh, giáo pháp khi đó mới được thẩm nhận sâu hơn, mang lại lợi lạc cho chúng sinh. Nhưng khi Mật giáo truyền sang Tây Tạng, điều này bị bỏ qua. Người dân đổ xô học vì sức hút thần bí của nó mà không quan tâm xem họ có khả năng tu theo giáo pháp này không. Đó là lý do tại sao đến nay, Mật tông dù phổ biến tại Tây Tạng, nhưng không mấy ai đạt được công phu tuyệt kỹ của nó. (Việc này cũng đúng với các pháp môn khác, khi bạn tu tập theo một pháp môn bất kỳ, nếu căn cơ phù hợp, bạn có khả năng thành công. Khi thành công, năng lực hay dấu ấn sâu sắc của pháp môn đó sẽ thị hiện trên người bạn.)

Kế thừa từ Đại Thừa, Mật giáo cũng nhìn Đức Phật bằng con mắt siêu hình. Đức Phật được Mật tông sùng bái là Đức Phật “tối sơ” – tức trước Đức Thích Ca Mâu Ni còn có Đức Phật tối sơ (đầu tiên trên hết). Mật giáo lắp ghép rất nhiều vị thần của Ấn Độ giáo, hấp thụ vào trong Mạn đà la (mandala), hình tượng các vị thần được quy định rất nghiêm khắc.

Hệ thống kinh điển Mật giáo được kết tập vào cuối thế kỷ 7, chia ra 5 bộ theo khái niệm Phật Thiền. Hai bộ kinh nổi tiếng nhất là Kinh Đại Nhật (Đại Nhật là ánh sánh lớn – một trong các tướng tốt của Đức Phật) và Kinh Kim Cang Đảnh. Kinh điển của phái này dù không quá nhiều như Thượng Tọa Bộ và Đại Thừa, nhưng lại thu hút khá nhiều người quan tâm do hiếu kỳ. Ngày nay nhiều mật pháp được phổ biến, vô số kẻ rao giảng về các tantra, kinh sách được dịch sang nhiều thứ tiếng, thật giả lẫn lộn. Đa số người theo học để giải trí – nhất là người phương Tây, do đó càng không thể thành tựu.
Các tantra có thể xem như tạng kinh thứ tư ngoài Tam Tạng, tuy nhiên hiện được xếp vào Kinh tạng. Tantra có nghĩa là “liên tục thống nhất thể”, như một dòng suối, có ba dạng: nhân, đạo và quả. Có 4 tantra: Tác tantra (Lễ bái Mật Tông) – Action tantra (dạng thấp nhất, hành giả thực hành công phu mô phỏng theo bốn chi phái của yoga, sau đó thực hành ba dạng thiền định, giúp nhanh chóng đạt được chỉ quán), Hành tantra (Nghi thức Mật Tông) – Performance tantra (chú trọng tới cả thủ ấn và yoga), Du già tantra (Thiền quán Mật Tông) – Yoga tantra (chú trọng vào nội yoga nhiều hơn so với các hành động bên ngoài), Tối thượng Du già tantra (Tối Thượng Mật Tông) – Highest Yoga tantra (nhấn mạnh vào nội yoga, không có lớp tantra nào vượt qua được). Bốn tantra được phân biệt dựa theo khả năng của hành giả, không dùng để so sánh sự trội hơn của hành giả hay từng tantra.

Về y phục, mỗi trường phái Mật giáo có một màu sắc khác nhau. Cũng giống như các trường phái Phật giáo khác, trang phục đều bị bản địa hóa cho phù hợp với văn hóa, khí hậu từng vùng.
Ăn uống kham khổ, ăn chay giống phái Đại Thừa (vì sinh ra từ Đại Thừa). Đôi khi tăng sĩ cũng hành trì khất thực như phái Thượng Tọa Bộ, nhất là trong các dịp lễ lớn.
Do có nhiều nghi lễ và chú trọng thực hành, cuộc sống của tăng sĩ Mật giáo được đánh giá là khổ hạnh hơn nhiều so với hai phái Thượng Tọa Bộ và Đại Thừa. Hành giả Mật giáo cao cấp cần có am riêng, sống kham khổ, ở chốn a luyện nhã, rừng thiêng nước độc, hoang vu, tu luyện theo thời khóa ngắn hoặc dài (từ một tuần đến 3 năm nhập thất). Ngày nay, ở nhiều đạo tràng, Mật giáo được truyền bá rộng rãi, việc tu tập dễ chịu hơn nhiều. Hành giả cũng khổ hạnh, phân thời khóa biểu, nhưng dùng liêu phòng cao ráo sạch sẽ, ít đồ đạc, không gian trống thật lớn để niệm chú không bị chi phối quá nhiều. Nhưng thành tựu ở các đạo tràng kiểu này là không đáng kể.

Kiến trúc chùa chiền Mật giáo cũng đa dạng, thường có vẻ kín đáo bí ẩn đặc biệt với vô số tượng Phật và tranh vẽ tượng hình đặc trưng, nhưng vẫn mang dấu ấn bản sắc địa phương. Ở Tây Tạng, kiến trúc Potala điển hình của Mật phái đã được nhiều nơi trên thế giới sao chép lại. Ở Việt Nam, chùa Thầy (huyện Quốc Oai, Hà Nội) là điển hình của kiến trúc phái Mật giáo Việt Nam.

Bộ phái Mật tông chia theo thời gian gồm 2 nhành chính: Mật giáo Bắc Tông, Mật giáo Nam Tông. Ở Tây Tạng, Mật giáo có nhiều chi phái, đa số đều xuất phát từ 4 nhánh chính: Cổ Mật (lâu đời nhất), Kagyu, Gelug, Sakya. Ở Việt Nam, các tăng sĩ Mật giáo thường niệm chú kết hợp đọc kinh. Nhiều đạo tràng hiện nay vừa kết hợp tu tập Thiền tông và Mật tông.



 

Thứ Ba, 2 tháng 5, 2017

Tản mạn về đạo Phật và Thiền (3)



Phần 2: Phật giáo – suy tàn, gian nan tìm về nguồn cội (thế kỷ 12 tới nay)


Thịnh cực tất suy. Qui luật này cũng đúng với số phận Phật giáo.

Suy tàn (thế kỷ 12 – đầu thế kỷ 20)

Tại khu vực Ấn Độ, thế kỷ 10-11 chứng kiến sự phồn thịnh đến mức cao nhất của đạo Phật kể từ lúc khai sinh bởi Phật Tổ hơn 1.500 năm trước đó. Vật cùng tắc biến. Vật quá tất phản. Giới tăng lữ say sưa trong cảnh đủ đầy của quyền lực, vật chất và được trọng vọng, ngày càng sa đọa, biến chất, khiến nhiều người bất mãn. Tà giáo xâm nhập dưới nhiều hình thức, kết hợp với sự chống phá kiên trì hàng ngàn năm của Bà – la – môn giáo, làm tha hóa không ít Phật tử, biến tướng Phật Pháp dưới nhiều màu sắc ma mị, hủ hóa chúng sinh. Giới lãnh đạo tăng đoàn chìm đắm trên đài cao địa vị, không còn tỉnh táo và đủ động lực để kéo cỗ xe lớn ra khỏi thảm họa nhãn tiền. Điều gì đến tất phải đến. Khi thời thế đổi thay, kẻ thù mới và cũ của Phật giáo đã nổi lên, nhanh chóng quét sạch đạo Phật ra khỏi chính mảnh đất đã phát tích ra nó.

Ấn Độ giáo hay Bà – la – Môn giáo được cho là tôn giáo cổ xưa nhất Ấn Độ, hưng thịnh ở vị trí độc tôn cho đến khi Phật giáo ra đời. Ấn Độ giáo tôn thờ giai cấp, quan hệ dục tình dâm đãng, những lễ hiến tế tàn bạo, và sự hành hạ thân xác – đối lập hoàn toàn với tư tưởng bình đẳng, từ bi, chủ trương làm việc thiện của Phật giáo.
Bất bình đẳng là giáo lý chính thức của đạo Bà La Môn. Đức Phật chống lại gốc rễ và cành lá của nó. Ngài là một đối thủ mạnh mẽ nhất của chế độ đẳng cấp và là cột trụ vững chãi nhất của tinh thần bình đẳng. Không có một lý lẽ nào về vấn đề giai cấp mà ngài không bác bỏ.” - Tiến sĩ Ambedkar.
Hai tôn giáo này là kẻ thù truyền kiếp như một lẽ tất yếu.
Hơn 1.500 năm ra đời, Phật giáo với tư tưởng tiến bộ đã nhanh chóng làm suy yếu thế lực Ấn Độ giáo, khiến tôn giáo này có nhiều giai đoạn phải lui vào bóng tối. Nhưng những thủ lĩnh Ấn Độ giáo không từ bỏ cuộc chiến đấu sinh tồn và hy vọng phục hưng lại hệ tư tưởng cùng địa vị độc tôn của mình. (Nhiều sách và nhiều học giả ngày nay cho rằng, người theo Ấn Độ giáo cũng tôn sùng Đức Phật, nhưng họ không muốn tư tưởng của Ngài được truyền bá vì nó phá hủy thành lũy giai cấp) Các thầy tế Bà – la – môn tìm cách triệt tiêu tiếng Pali – một trong hai ngôn ngữ của Phật giáo. Những người Ấn Độ giáo phản nghịch tìm cách gây chia rẽ, thù hận trong dân chúng với đạo Phật và trong cả nội bộ các Phật tử. Khi Phật giáo đi xuống, các thủ lĩnh Ấn giáo cổ xúy cho tầng lớp vua chúa đàn áp và xã hội tẩy chay đạo Phật. Quan trọng nhất, trong quá trình đối đầu trường kỳ này, Ấn Độ giáo đã tự sửa đổi, điều chỉnh các hệ tư tưởng và giáo lý của mình, đồng hóa một phần với một số tư tưởng Phật giáo, khiến nó trở nên khó so sánh, nhận biết với người dân và dễ mị hoặc lòng người hơn (sử sách gọi là quá trình đồng hóa hay tự biến dạng). Hệ thống triết lý và thực hành của Ấn Độ giáo đã được tô vẽ lại bằng những tính chất tốt đẹp giống như của Phật giáo. Hiến tế bằng súc vật dần chấm dứt. Các tín đồ cũng xây dựng các tu viện, điện thờ như Phật giáo. Đức Phật Tổ được đưa vào thành một trong các vị thần của tôn giáo này, khiến Phật giáo không còn khác biệt, hay có vẻ như chỉ là một phần (một chi phái) của nó.
“Khi tín ngưỡng Bà La Môn khắc sâu tình thương mọi loài và sùng bái thần linh, và tuyên bố rằng Đức Phật là hóa thân của Vishnu, hồi chuông báo tử của Phật Giáo ở Ấn Độ đã vang lên.” - tiến sĩ Radhakrishnan.

Thế kỷ 10-11 cũng chứng kiến vô số cuộc chiến đẫm máu của các quốc gia lưu vực sông Hằng chống lại sự xâm lược của các Hồi vương. Thế kỷ 13, các tộc người Thổ và Pashtun đã xâm lăng Bắc Ấn và lập ra Hồi quốc Delhi. Thế lực Hồi giáo nhanh chóng mở rộng lãnh địa khắp xung quanh lưu vực sông Hằng. Mặc dù bành trướng khắp bắc và nam Ấn, nhưng Hồi giáo vẫn thất bại trong việc chinh phục và hợp nhất cả tiểu lục địa Ấn Độ. Văn hóa và tư tưởng của Ấn Độ giáo, Phật giáo và Hồi giáo pha trộn lẫn nhau, dần tiến tới xung đột nặng nề.
Trên con đường chinh phạt và truyền bá tư tưởng của mình, các thế lực Hồi giáo nhận ra sự tương đồng về quan điểm tự do, bình đẳng của Phật giáo và Hồi giáo. Hồi giáo gặp khó khăn khi muốn thay đổi quan điểm của người bản địa, rằng tự do, bình đẳng không phải là lời Phật dạy, mà nằm trong thông điệp tiên tri của họ. Những người Hồi giáo cuồng tín đã san bằng các tu viện, đền chùa, đốt kinh sách, tàn sát Phật tử (tất nhiên, họ cũng tàn sát cả Ấn Độ giáo, nhưng Ấn Độ giáo lúc này đã có kinh nghiệm và đủ sức mạnh để sống sót, lại tự cải biến để thích nghi với cuộc đối đầu mới). Phật giáo, vốn dĩ chỉ còn cái vỏ đẹp đẽ phủ ngoài thân hình yếu ớt bệnh hoạn, nhanh chóng gục ngã. Nhiều Phật tử sợ hãi tìm cách trốn chạy sang Tây Tạng và các xứ xa xôi khác. Những nơi thiêng liêng bị cướp đoạt, chuyển sang cho hai tôn giáo kia. Đức Phật sau đó cũng biến mất khỏi Ấn Độ giáo và khỏi ký ức của người dân xứ này.
Phật giáo bị xóa sổ hoàn toàn khỏi tiểu lục địa Ấn Độ. Điều đau buồn nhất là, sự biến mất này hoàn toàn trong câm lặng.

Một tôn giáo toàn cầu đầu tiên, nhưng chấm dứt chóng vánh trong lãng quên đến khó hiểu, làm tốn bao nhiêu công sức và giấy mực tranh cãi của các học giả đời sau. Đến tận bây giờ, nhiều nhà nghiên cứu vẫn không cho rằng sự xuống cấp đạo đức và tinh thần của tăng đoàn là một nguyên nhân gây ra sự sụp đổ của đạo Phật ở Ấn. Vì khi đó, Ấn Độ giáo thắng thế, đạo đức của tầng lớp giáo sĩ, thầy tế Bà – la – môn cũng đồi bại và bị tha hóa chẳng kém. Thiết nghĩ, tôn giáo nào thì căn cơ vẫn là con người. Thủ lãnh, tín đồ, đệ tử có nhãn quan sáng suốt, đạo hạnh cao thì đâu nên nỗi?

Trong khi đó, số phận Phật giáo ở các quốc gia bên ngoài Ấn Độ dù may mắn hơn nhưng cũng lắm cảnh thăng trầm.

Trung Quốc được coi là trung tâm của Phật Giáo Đại Thừa, cực thịnh vào thế kỷ 9-10. Hàng chục tôn, chi, phái nối nhau ra đời, cùng đua tranh, khiến cho đời sống Phật đạo vô cùng sôi nổi. Thiền tôn phát triển mạnh nhất với rất nhiều bậc cao nhân tài đức vẹn toàn, có uy quyền lớn trong giới chính trị. Các đời vua sau – đặc biệt từ thời nhà Minh (thế kỉ 14 – 17), Phật giáo thịnh suy tùy thuộc nhà cầm quyền định đoạt. Nhiều vua ra sức triệt phá Phật giáo, tạo điều kiện cho Nho giáo ngày càng phổ biến. Phật giáo tại đây mất dần cơ sở và gốc rễ. Tăng lữ tài giỏi đều lui vào ở ẩn hoặc bỏ đi xứ khác. Dân gian dần dần ít người còn hiểu đúng giáo lý nhà Phật, chỉ nghĩ theo hướng cúng bái mê tín.
Sử sách Trung Hoa chép lại, đạo Phật bị chà đạp, tổn thất nặng nề nhất ở bốn thời kỳ “tam Võ, nhất Tôn chi ách” (tức ba thời vua họ Võ, một thời vua họ Tôn: 439-450 Thái Võ nhà Hậu Ngụy, 574 Võ Đế nhà Bắc Chu, 840 – 847 Võ Tôn nhà Đường, thế kỷ 10 Thế Tôn nhà Hậu Chu).
Đến cuối thời nhà Thanh (thế kỉ 18 - đầu thế kỷ 20), tình hình xã hội rối ren, các đế quốc phương Tây lao vào tranh nhau miếng bánh lớn, gây ra vô số biến động thời cuộc. Đạo Phật và các tôn giáo khác đều chật vật tìm đường tồn tại.
Cuộc nội chiến kéo dài và Chiến Tranh Thế Giới Thứ Hai khiến hàng triệu người Hoa bị giết hại, cơ sở vật chất bị tàn phá. Đạo Phật cũng không nằm ngoài tổn thất đó. Gần như không còn thấy bóng dáng tôn phái nào trong đời sống hằng ngày.

Số phận Phật Giáo Đại Thừa ở Triều Tiên, Việt Nam… (trừ Nhật Bản) cũng gần giống với Trung Quốc. Nhưng may mắn hơn Trung Quốc, các quốc gia này đều không phải là trận địa trực tiếp của hai cuộc chiến tranh thế giới.
Với người Việt, Phật Giáo không rõ du nhập chính xác từ lúc nào, nhưng suốt gần 2.000 năm đều gắn liền với thịnh suy của các triều đại. Văn bản cổ nhất còn lưu lại cho rằng, năm 189 Mâu Bác (người quận Thương Ngô, Ngô châu) tới Giao châu (là Việt Nam khi còn bị phong kiến phương Bắc đô hộ) lánh nạn theo đường bộ, đã dựng chùa, truyền bá đạo Phật. Thời gian sau, một số cao tăng từ xứ Ấn theo đường thủy ghé qua Giao châu, cũng dừng lại một thời gian ngắn để truyền đạo, như Khương Tăng Hội, Ma Ha Kỳ Vực, Chi Cương Lương. Đạo Phật lúc này chưa có cơ sở đầy đủ, màu sắc riêng biệt. Dân ta chỉ biết qua khía cạnh thờ cúng, lễ bái.
Năm 580 Đa Lưu Chi sang truyền bá Thiền tôn cho đất Giao châu (sau này ngài được phong làm Sơ Tổ Thiền tôn Việt Nam). Năm 820 Vô Ngôn Thông sang lập phái Thiền tôn thứ hai. Các phái Thiền tôn sau đó lần lượt được truyền vào Việt Nam.
Do Thiền tôn có địa vị lớn nhất, ảnh hưởng mạnh nhất ở Trung Quốc, nên cũng có ảnh hưởng mạnh nhất ở Việt Nam thời kỳ này. Sử sách dùng từ “độc tôn”, “hưng thịnh tột bậc” để mô tả địa vị của Thiền tôn ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ 10 – 13. Nhiều cao tăng Thiền tôn Phật giáo trở thành các nhân vật xuất chúng trong đời sống văn hóa xã hội nước nhà, như Khuông Việt Thái sư Ngô Chân Lưu, Đỗ Thuận thiền sư, Vạn Hạnh thiền sư, Đa Bảo, Sùng Phạm, Thảo Đường, Huệ Linh, Pháp Loa, Huyền Quang…
Nhưng Phật giáo cũng có nhiều giai đoạn rơi vào cảnh tối tăm.
Giai đoạn thế kỷ 14 -16, khi quân Minh sang đánh nhà Hồ, chúng cũng đốt phá chùa chiền, giết hại tăng ni Phật tử, và cũng giống như các biện pháp đã tiến hành với các quốc gia phương Bắc, chúng truyền bá mê tín dị đoan của Nho giáo, Lão giáo, Lạt ma giáo… Từ đó, Phật giáo trong con mắt người dân trở nên hỗn tạp, kỳ quái. Nho giáo ngày càng giữ địa vị then chốt trong đời sống chính trị, xã hội.
Thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, đế quốc Pháp, Mỹ, Nhật liên tục thay phiên nhau đô hộ nước ta bằng những cuộc chiến đẫm máu, đồng thời cho truyền bá mạnh Ki – tô giáo. Đạo Phật thực sự suy tàn, mất hết căn cơ. Chư tăng cũng chỉ còn biết đến cúng bái và sống trụy lạc.

Nhật Bản là quốc gia hiếm hoi Phật Giáo có thể yên bình phát triển. Đạo Phật được truyền bá tới Nhật theo chân các Tăng chúng từ Trung Hoa. Do vị trí địa lý và hình thái văn hóa riêng biệt, đặc trưng, Nhật bản tránh được nhiều cuộc chiến tương tàn suốt hơn ngàn năm, và dễ dàng dung nhập các tôn phái Phật giáo, đặc biệt Thiền tôn. Từ thế kỷ 10 đến tận ngày nay, đạo Phật luôn là một trong các tôn giáo lớn nhất Nhật Bản, bên cạnh Thần đạo và đạo Thiên Chúa.

Đều nằm trong cùng khu vực, các quốc gia Đông Nam Á – nơi Phật Giáo Thượng Tọa Bộ (Tiểu Thừa) thống trị - như Mianma, Thái Lan, Lào, Campuchia… cũng có số phận khá tương đồng với lịch sử Việt Nam. Phật giáo ở các quốc gia này đóng vai trò quốc giáo – vì thế cũng gắn chặt với những thăng trầm của dân tộc. Đến giai đoạn thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20, trừ Thái Lan, các quốc gia trên đều trong cảnh nô lệ lầm than, chật vật giải phóng đất nước. Cơ sở vật chất của đạo Phật cũng bị suy hao nhiều, nhưng không mất căn cơ (tầng lớp lãnh đạo tôn giáo không bị biến chất hay thờ ơ, kinh điển chính không bị mất, nơi thờ tự linh thiêng không bị tàn phá). Đó có lẽ cũng là nguyên nhân khiến địa vị và ảnh hưởng cao nhất của Đạo Phật đến tận ngày nay cũng không hề bị suy yếu, mà còn ngày càng phát triển ở các quốc gia này.

Phục hưng (giữa thế kỷ 20 đến nay)

Câu chuyện bắt đầu nhen nhóm từ một số sự kiện tại Ấn Độ thế kỷ 18. Người Anh lúc đó đang cai trị tiểu lục địa rộng lớn này. Bỗng nhiên họ phát hiện ra một số văn bản tôn giáo trong đám tàn tích đổ nát. Các học giả người Anh tò mò tìm hiểu sâu hơn, thậm chí sang cả các quốc gia bên cạnh nghiên cứu. Và những gì họ thu được khiến chính họ cũng phải kinh ngạc. Có một tôn giáo kỳ lạ phát tích từ mảnh đất này, giờ đã không còn tồn tại ở đó, mà dịch chuyển đến các khu vực xung quanh. Tôn giáo này có hệ thống giáo lý và thực hành dựa trên những tư tưởng lý luận mang tính triết học và khoa học uyên bác, tiến bộ một cách đáng kinh ngạc. Phát hiện này khiến nước Anh chấn động. Nhiều nhà cầm quyền, nhà khoa học và học giả người Anh bắt đầu cổ xúy cho các học giả người bản địa phục dựng lại tôn giáo này. Đó là Phật giáo.
Giai đoạn đầu, việc phục dựng diễn ra vô cùng chậm chạp. Vì không còn nhiều dấu vết của Phật giáo nguyên thủy trên đất Ấn. Cho đến giữa thế kỷ 20, khi hệ thống đế quốc bị sụp đổ, các quốc gia châu Á đại đa số dành được độc lập, những nhân vật có tâm huyết với việc phục hưng Phật giáo ở Ấn Độ và các lãnh đạo Phật giáo ở các quốc gia châu Á khác đã tìm cách liên hệ và trao đổi, tiến tới việc hình thành một hệ thống quản lý có tổ chức cho Phật giáo thế giới và việc phục hưng Phật giáo.

Năm 1950, Đại hội Phật Giáo thế giới đầu tiên được tổ chức tại thủ đô Colombo của Srilanka, gồm 500 đại biểu, đến từ 26 quốc gia và tổ chức. Từ đó, cứ hai năm lại đại hội một lần. Tổng hội Phật Giáo Thế Giới đặt trụ sở chính tại Colombo, Srilanka. Hai tờ báo – phát ngôn chính của tổng hội – là tờ New Letter và The Buddhist World.

Phong trào chấn hưng đạo Phật lên cao mạnh mẽ tại châu Á. Ở Ấn Độ, Đại đức Anagarika Dharmapala (sáng lập Đại Bồ Đề) là người có công lớn nhất trong việc khôi phục lại đạo Phật tại xứ sở này.
Ở các quốc gia theo Thượng Tọa Bộ (Tiểu Thừa), việc phục hưng được cả hệ thống chính trị và xã hội hưởng ứng. Mianma phục hưng từ năm 1948. Srilanka từ năm 1950. Thái Lan là nước có tỷ lệ tu sĩ cao nhất thế giới (1/100 dân).
Với các quốc gia theo Đại Thừa, việc kêu gọi phục hưng đến từ sớm hơn, nhưng manh múm. Trung Quốc kêu gọi phát triển lại Phật giáo từ sau Cách Mạng Tân Hợi (1912), nhưng phải đến sau khi độc lập hoàn toàn (1949), các tổ chức Phật giáo mới chính thức đi vào hành động.
Ở Việt Nam, từ những năm 1920, một vài cá nhân đã tổ chức phong trào chấn hưng Phật giáo như sư cụ Vĩnh Nghiêm, Tế Các, Bằng Sở, Tâm Tịnh, Huệ Pháp, Khánh Hòa… Ngày mồng 6 – 5 – 1951, 51 đại biểu Bắc, Trung, Nam đã tụ họp tại chùa Từ Đàm (Huế), lập ra Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam. Cơ sở vật chất của đạo Phật ngày một cải tiến. Số lượng tăng lữ ngày một đông đảo. Nhiều vị lãnh đạo của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam còn tham gia năng nổ trong công tác chính trị và xã hội, gây dựng uy tín trong cộng đồng cho giáo hội.

Điều thú vị là Thiền tôn – tôn phái chiếm địa vị gần như độc tôn, ưu việt hàng ngàn năm qua, đã gần như “biến mất” ở Trung Quốc, Việt Nam… Trái lại, Tịnh độ tôn – tôn phái không mấy được ưu chuộng ngày trước vì sự đơn giản, dễ dàng, đơn điệu, từng bị coi là không có “phẩm vị”, giờ lại chiếm ưu thế hơn hẳn.
Cuối thế kỷ 20, một số nhân vật xuất chúng trong tăng đoàn ở Trung Quốc đứng ra khôi phục lại một số trường phái của Thiền tôn Trung Hoa. Ở Việt Nam, Thượng Tọa Thích Thanh Từ (sinh năm 1924 tại Vĩnh Long) – một cao tăng và học giả nổi tiếng về Phật giáo của Việt Nam – là người đầu tiên có công khôi phục lại Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử (từ năm 1970).

Ngày nay, Phật giáo đã lan sang cả Âu Mĩ. Giới tăng ni Phật tử phương Tây tu theo mọi tôn phái, trừ Tịnh độ tôn (có lẽ việc tụng kinh không phải là việc dễ dàng với họ).



           Công cuộc chấn hưng và phát triển đạo Phật vẫn chưa dừng lại.