Phần 3: Phật giáo – các tôn phái và Thiền tôn (1)
Tại sao có sự phân chia tôn phái trong Phật Giáo?
Hiện nay ước chừng
có khoảng 4.200 tôn giáo trên toàn thế giới, và khoảng 87% dân số (trong 7,49 tỷ
người – tính đến ngày 22/3/2017) theo một tôn giáo nào đó, còn lại không theo
tôn giáo nào.
Thực tế lịch sử
cho thấy, mọi tôn giáo đều bị phân chia thành nhiều tôn phái nếu tồn tại đủ
lâu. Lý do chính của việc phân chia đều rất giống nhau: thích nghi khi hoàn cảnh
thay đổi.
Người sáng lập
tôn giáo thuở ban đầu chỉ có một (hoặc một nhóm). Người ấy truyền thừa tư tưởng
và giáo lý nguyên thủy của mình cho các đệ tử. Mỗi đệ tử có căn cơ, tu dưỡng, trí
tuệ, đạo đức, môi trường sống khác nhau, nên sẽ lĩnh hội theo những cách khác
nhau. Các đệ tử này sẽ lại tiếp tục công việc truyền bá hệ thống tư tưởng và
giáo lý ấy cho thế hệ đệ tử kế tiếp; một số đồng thời còn có thể bổ sung thêm
các ý tưởng của mình vào hệ thống mà họ đã tiếp nhận. Lượng tín đồ tăng lên thì
chuyện sai khác xảy ra như một lẽ đương nhiên. Nó góp phần làm phong phú, tăng
giá trị cho hệ thống lý luận chung của tôn giáo đó. Nhưng cũng làm nảy sinh mâu
thuẫn giữa các tín đồ. Các chi phái ra đời là hệ quả tất yếu, cũng là minh chứng
sống động nhất cho tuổi đời dài lâu và sức ảnh hưởng bền bỉ của một tôn giáo.
Ki-tô Giáo (hơn
2.000 tuổi – thờ duy nhất Đức Chúa Jesus, kinh điển nguyên thủy do Phaolo và
các tín đồ biên soạn, truyền bá) có vô số tông phái. Ba nhánh lớn nhất là Công
giáo, Chính thống giáo và Kháng cách (hay Tin Lành). Tôn giáo này có 2,4 tỷ tín
đồ (33% dân số thế giới) – là tôn giáo lớn nhất thế giới hiện nay.
Hồi giáo (khoảng
1.300 tuổi – thờ duy nhất Đấng Allah Tối Cao, kinh điển nguyên thủy do Nhà Tiên
Tri Muhammad soạn và truyền bá) là tôn giáo lớn thứ hai thế giới với 1,6 tỷ tín
đồ (23% dân số thế giới), do tốc độ phát triển nhanh nhất hiện nay nên được dự
báo sẽ là tôn giáo lớn nhất thế giới trong tương lai gần (năm 2050). Hồi giáo
có nhiều phân nhánh, lớn nhất là các dòng Sunni (75-90% số lượng tín đồ), Shi’a
(chiếm 10-20% lượng tín đồ), các nhánh nhỏ khác như Sufi, Kalam, Kharijite… Mỗi
nhánh cũng có nhiều tông phái khác nhau.
Ấn Độ giáo (tôn
giáo vô cùng cổ xưa, không rõ niên đại hình thành, nhưng hưng thịnh nhất vào
khoảng 4.500 năm trước – tùy từng chi nhánh, khu vực và thời điểm lịch sử; có
thể thờ đa thần, độc thần hay vô thần) là tôn giáo lớn thứ ba thế giới, với nhiều
chi hệ, chỉ nằm trong cộng đồng người Ấn và Nam Á. Một số nhánh lớn: Ấn giáo Vệ
đà, Ấn giáo Thấp bà, Ấn giáo Tỳ thấp nô, Tân Ấn giáo…
Do Thái Giáo (gần
4.000 tuổi – thờ duy nhất Thượng Đế Jehovah, kinh điển nguyên thủy do Nhà Tiên
Tri Moses soạn ra) cũng có một số phân nhánh: Do Thái giáo chính thống
(Orthodox) gồm Hasidim, Sađôc, Karaite, Phariseu, Na Nách…; Do Thái giáo Cải
Cách (Reform); Do Thái giáo Cấp Tiến (Liberal), Do Thái Giáo Bảo Thủ
(Conservative).
Phật Giáo (khoảng
hơn 2.500 tuổi – vô thần, nhưng chấp nhận có sự tồn tại của thần thánh, do Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập và truyền bá) là một trong 5 tôn giáo lớn nhất thế
giới, hiện có khoảng 360 triệu – 1,6 tỷ tín đồ. Ngày nay, người ta cho rằng Phật
Giáo có ba nhánh chính: Phật giáo nguyên thủy (Thượng Tọa Bộ/Tiểu Thừa), Phật
giáo cải cách (Đại Chúng/Đại Thừa), Phật giáo chân ngôn (Mật Tông/Kim Cương Thừa/Tây
Tạng).
Đi sâu vào lịch
sử Phật Giáo, sự phân chia các tông phái còn phức tạp hơn nhiều. Về cơ bản, tư
tưởng gốc rễ của Phật Giáo không thay đổi, chỉ là sự thay đổi về mặt lý luận
triết học, công cụ, phương tiện. Một phần được cho là xuất phát từ chính quan
điểm và phương pháp mềm dẻo, linh hoạt của người sáng lập đạo – Đức Phật Thích
Ca Mâu Ni.
“Cũng như đại dương chỉ có một vị mặn, đạo của
ta không có gì khác ngoài mục đích giải thoát.” – Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
Sinh thời, Đức
Phật giảng đạo ở nhiều quốc gia lưu vực sông Hằng, cho nhiều tầng lớp khác nhau.
Với mỗi đối tượng người nghe và hoàn cảnh họ sống, Ngài lại có cách truyền đạt,
phương pháp và công cụ thực hành khác nhau để giúp họ đạt tới cái đích cuối
cùng: Giác Ngộ & Giải Thoát.
Đức Phật coi ngôn ngữ, thực hành chỉ là phương tiện dẫn tới chân lý tối thượng.
Có lẽ vì sự đa dạng, biến hóa trong truyền giảng dẫn tới những lý giải khác
nhau của người nghe và của cả đời sau về lời Ngài. Sau khi Ngài tịch diệt, lời
giảng và những giới luật, qui tắc Ngài đề ra trước đây mới được các đệ tử ghi lại
bằng văn bản. Dữ liệu qua nhiều thế hệ hiển nhiên sẽ có sai khác, gây bất đồng
giữa các tín đồ.
Cũng chính việc
không coi trọng lý luận triết học và phương pháp luận của Phật Tổ khiến thế hệ
tín đồ sau này gặp khó khăn trong việc giải thích Phật Giáo khi hoàn cảnh lịch
sử thay đổi hoặc có những sự kiện mới phát sinh, đặc biệt trong cuộc chiến sinh
tồn với các tôn giáo khác. Do đó, các đệ tử của Ngài đã sáng tạo ra vô số học
thuyết, phương pháp thực nghiệm – đôi khi là đối nghịch nhau – để biện luận cho
chân lý của đạo mình, qua đó giúp Phật giáo thích nghi với hoàn cảnh mới tốt
hơn và tồn tại đến tận ngày nay.
Cần nói thêm (để phục vụ cho việc đọc
tiếp những phần sau), tư tưởng cốt lõi của Đạo Phật nằm ở:
-
Tứ Diệu Đế (bốn chân lý cao quý, còn gọi là Tứ
Thánh Đế): đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Đức Phật ngay sau khi Ngài giác
ngộ, tại vườn Lộc Uyển. Đây cũng là nội dung gốc cơ bản của Phật giáo, được tất
cả các tôn phái đạo Phật trên thế giới công nhận là giáo lý cốt lõi. Thông suốt
được nó là đã thâm nhập toàn bộ con đường giác ngộ giải thoát của Đức Phật. Nội
dung của Tứ Diệu Đế gồm:
o
Khổ
đế (Dukkha): bản chất của sự Khổ trong luân hồi.
o
Tập
đế (Samudaya): nguyên nhân Khổ.
o
Diệt
đế (Nirodha): chân lý diệt Khổ.
o
Đạo
đế (Magga): các cách diệt Khổ, chính là Bát Chính Đạo.
Trong bài giảng Tứ Diệu Đế đầu tiên, Đức
Phật nói bốn câu then chốt khái quát toàn bộ nội dung của bốn chân lý cao quý
là:
“Này các tỳ kheo, đây chính là Khổ
thánh đế: sinh là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ, oán ghét gặp nhau là khổ; thân
ái biệt li là khổ, cầu không được là khổ, tóm lại năm uẩn chấp thủ là khổ.
Này các tỳ kheo, đây chính
là Tập khổ thánh đế. Chính là ái đưa đến hữu, tương ứng với hỉ và tham, tìm cầu
hoan lạc chỗ này chỗ kia, chính là dục ái, sinh ái, vô sinh ái.
Này các tỳ kheo, đây chính
là Diệt khổ thánh đế. Chính là sự diệt tận, vô dục, từ bỏ, xả li, giải thoát, tự
tại đối với các ái.
Này các tỳ kheo, đây chính
là Đạo diệt khổ thánh đế, đưa đến diệt Khổ, chính là con đường thánh tám ngành:
Chính kiến, Chính tư duy, Chính ngữ, Chính nghiệp, Chính mệnh, Chính tinh tiến,
Chính niệm, Chính định.”
-
Bát Chính Đạo (Con đường tám nhánh để diệt trừ khổ ải,
còn gọi là Bát Thánh Đạo, Bát Chánh Đạo, Bát Chi, Bát Pháp…):
“Bát Thánh đạo là giáo lý căn bản của Ðạo đế (trong Tứ đế) gồm ba mươi bảy
phẩm trợ đạo. Ðây là con đường độc nhất đi vào giải thoát hết thảy các lậu hoặc,
đạt được quả vị Alahán.
Hành giả có thể đi vào giải thoát bằng ngõ Bảy Giác chi, Bốn Niệm xứ...
nhưng tất cả những ngõ đường ấy đều được bao hàm trong Bát Thánh đạo. Nếu tâm của
hành giả thực hành các pháp môn ngoại đạo, ở ngoài sự vận dụng tám chi phần Bát
Thánh đạo, thì quyết định hành giả không thể chứng đắc các quả vị của Sa-môn,
đi vào giải thoát toàn vẹn, như lời dạy của Thế Tôn ở Sư Tử Hống Tiểu Kinh” - Trung Bộ Kinh I
Bát Chính Đạo giúp cải thiện tự thân
(cải thiện hành vi bất chính, tạo cho tự thân một đời sống chân chính ích lợi,
thiện mỹ), cải tạo hoàn cảnh (thế giới quan bên ngoài được hình thành từ tâm niệm,
là kết quả của hành vi; do đó thực hành theo Bát Chính Đạo có thể tạo được một
thế giới toàn mỹ), và làm căn bản cho chính giác (Bát Chính Đạo là nền tảng căn
bản đầu tiên cho sự giác ngộ chân chính).
Nội dung của Bát Chính Đạo:
1-Chính kiến: Chính là ngay
thẳng, đúng đắn; Kiến là thấy, nhận biết. Nghĩa là sự nhận thức sáng suốt và hợp
lý trên căn bản của trí tuệ, không còn vướng bụi của tà kiến, mê lầm vọng chấp.
o
Hiểu
biết chân chính: Hiểu biết tất cả sự vật hiện hữu trên thế gian này đều do nhân
duyên sanh, không trường tồn và luôn luôn biến diệt. Nhận thức rõ nhân quả -
nghiệp báo để hành động. Nhận thức rõ giá trị hiện hữu của thân người và mọi vật
xung quanh. Nhận thức rõ Khổ - Vô thường - Vô ngã của vạn pháp. Nhận thức rõ tất
cả chúng sanh cùng một bản thể thanh tịnh. Nhận thức rõ Tứ đế - Thập nhị nhân
duyên, không chấp thường, chấp đoạn.
o
Hiểu
biết không chân chính: Chấp Thượng đế tạo vật, không tin lý nhân quả nghiệp
báo. Phủ nhận mọi sự vật hiện hữu, không nhận thức chúng từ nhân duyên sanh. Chấp
vào thành kiến; quan niệm không bình đẳng giữa người và muôn vật. Cố chấp vào
kiến thức vọng tưởng; không tin vào những quả vị giải thoát.
2- Chính tư duy: Tư duy là
suy nghĩ. Chính tư duy là suy nghĩ chân chính, suy nghĩ không trái với lẽ phải,
có lợi cho mình và cho người.
o
Suy
nghĩ chân chính: Suy nghĩ đến nguyên nhân đau khổ của mình và chúng sanh, ở đó
vô minh là nguồn gốc của mọi tội lỗi, để biết mà tu tập hầu tìm được giải thoát
cho mình và cho người. Suy nghĩ đến Giới - Định – Huệ làm căn bản tiến tu đến
quả vị Niết bàn.
o
Suy
nghĩ không chân chính: Suy nghĩ đến lợi dưỡng, tài sắc, danh vọng, tìm trăm mưu
nghìn kế để hại người. Suy nghĩ đến nhiều cách để hơn người, mọi mưu mô để trả
thù; dùng tà thuật; dựa vào lòng tin của con người để mê hoặc.
3- Chính ngữ: Ngữ là lời
nói. Chính ngữ là lời nói chân thật không hư dối, có lợi ích chính đáng, công
bình, ngay thẳng và hợp lý. Lời nói không làm tổn hại đến đời sống cùng danh dự
của người khác.
o
Lời
nói chân thật: Lời nói ngay thẳng, thành thật, hợp lý không thiên vị, hòa nhã,
giản dị và sáng suốt. Lời nói lợi ích, đồng nhất và mang tính chất sách tấn,
khuyến tu, mở bày ánh sáng giác ngộ tự tâm trong mỗi tha nhân. Lời nói mang
tính chất tuyên dương đạo lý làm người; tuyên dương chánh pháp Từ bi và Trí tuệ.
o
Lời
nói không chân thật: Lời nói gây chia rẽ, không đúng sự thật. Lời nói để hại
người, xuyên tạc, thiên vị, dua nịnh. Lời nói nguyền rủa, mắng nhiếc, vu họa và
thô tục. Lời nói để bảo vệ Ngã và Ngã sở.
4- Chính nghiệp: Nghiệp gốc
từ chữ Phạn được Trung Hoa dịch ra, có nghĩa là hành động có tác ý. Chính nghiệp
nghĩa là hành động tạo tác trong đời sống cần phải sáng suốt chân chính.
o
Hành
động chân chính: Hành động theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống chung của mọi
người, mọi loài. Hành động có thận trọng, không tổn hại đến nghề nghiệp, tài sản,
danh giá và địa vị của kẻ khác. Hành động chân chính là hành động có lương tâm,
đạo đức trong địa vị của mình, biết gìn giữ tánh hạnh. Biết hy sinh chính đáng
để đem lại lợi lạc cho quần sanh.
o
Hành
động không chân chính: Hành động không gìn giữ các phép tắc, giới điều. Hành động
chỉ vì lợi mình mà hại người.
5- Chính mạng: Mạng là sự sống,
đời sống. Đời sống chân chính nghĩa là sống một cách chân chính bằng nghề nghiệp
lương thiện, chính đáng không bóc lột, xâm hại đến lợi ích chung của người
khác.
o
Đời
sống chân chính: Sống bằng khả năng, tài năng chân chính, không lừa dối gạt người.
Sống thanh cao, đúng chính pháp, không mê tín.
o
Đời
sống không chân chính: Làm tổn hại và náo loạn tâm trí mọi người. Sống luồn
cúi, dùng miệng lưỡi, mối lái để giao dịch thân thiện. Sống chạy theo mê tín, dị
đoan; sống nương tựa ăn bám vào kẻ khác.
6- Chính tinh tấn: Tinh tấn
là siêng năng, chuyên cần. Siêng năng chuyên cần chân chính thẳng tiến đến mục
đích và lý tưởng mà Phật đã dạy. Hăng say làm những việc chính đáng mang lợi
ích cho mình và cho người.
o
Chuyên
cần chân chính: Quyết tâm loại bỏ các việc ác đã sinh, ngăn ngừa những việc ác
chưa sinh. Chuyên làm các việc lành việc tốt. Chuyên cần trau dồi phước đức và
trí tuệ.
o
Chuyên
cần không chân chính: Là người say sưa với ngũ dục và khoái lạc. Là kẻ say sưa
lạc thú làm tổn hại đến người khác, không tiết chế bản thân.
7- Chính niệm: Niệm là ghi
nhớ, nhớ nghĩ. Nhớ nghĩ chân chính. Chính niệm có 2 loại: Chính ức niệm và chính
quán niệm. Ức niệm là nhớ nghĩ đến quá khứ, những chuyện đã qua. Quán niệm là
quán sát cảnh hiện tại và bắt đầu của tương lai.
o
Ức
niệm chân chính: Nhớ đến tứ ân. Nhớ đến những lỗi lầm xưa, đừng để tái phạm
trong hiện tại và tương lai.
o
Ức
niệm không chân chính: Nhớ lại những oán hận để phục thù. Nhớ lại những hạnh
phúc mong manh không ích lợi. Nhớ lại hành động oai hùng, dùng thủ đoạn xảo
trá, tàn bạo đã qua để hãnh diện tự đắc.
o
Quán
niệm chân chính: Quán niệm Từ bi (thấy nỗi khổ của chúng sinh trong luân hồi sinh
lòng thương xót, tìm nhiều phương tiện để giúp đỡ họ; thấy sự mê lầm của mình
và người dẫn đến sầu, bi , khổ, ưu và não, thực hành lời Phật dạy để chấm dứt
mê lầm) và quán niệm Trí huệ (quán niệm nguyên nhân sinh hóa vũ trụ, oán thân,
tốt xấu, cao thấp; quán niệm thực tướng của các pháp để vững tiến trên con đường
giải thoát).
o
Quán
niệm không chân chính: Nhớ nghĩ đến dục lạc, khoái cảm. Nhớ nghĩ đến kế sách,
âm mưu và phương tiện giết hại lẫn nhau. Nhớ nghĩ đến văn tự xảo trá để gạt người.
8- Chính định: Định trong Phật
học hiểu là Thiền định. Định là tập trung tư tưởng tu tập thiền định. Chính định
là tập trung tư tưởng vào vấn đề chính đáng, đúng chân lý, lợi mình và người.
o
Thiền
định chân chính: gồm có
Bất tịnh quán: quán các pháp không
thanh tịnh, để trừ tham dục, si ái v.v…
Từ bi quán: Quán sát tất cả chúng sanh
đồng thể tánh thanh tịnh, không hơn không kém để tôn trọng, kính quý và đoạn trừ
tâm hận thù.
Nhân duyên quán: Quán tất cả pháp đều
do nhân duyên mà thành, không có một pháp nào riêng biệt trong thế giới tương tức
tương nhập, không chân thật, không trường tồn, để đoạn trừ ngu si, thiên chấp.
Giới phân biệt quán: Nghĩa là phân biệt
và quán sát sự giả hợp của 18 giới (6 căn, 6 trần, 6 thức) để thấy không thật
có ngã pháp và diệt trừ ngu si cố chấp.
Sổ tức quán: Nghĩa là quán hơi thở, để
đối trị tâm tán loạn để đi sâu vào thiền định.
o
Thiền
định không chân chính: Thiền định để cầu thác sinh các cõi trời. Thiền định để
luyện bùa chú, thần thông, phép lạ, trường sinh bất tử.
-
Tam pháp ấn: Pháp là chính pháp, giáo pháp, hay
toàn bộ tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được các đệ tử ghi chép lại trong
Tam Tạng. Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp ấn là dấu hiệu của chính pháp, là
tiêu chuẩn để chứng minh cho tính đúng đắn và chính thống của giáo lý đạo Phật.
Ba đặc điểm nổi bật – ba khuôn dấu của chính pháp, ba bản chất của thế giới hiện
tượng trong giáo lý đạo Phật là: Vô thường, Khổ, Vô ngã.
o
Vô thường (Anitya): nghĩa là biến dịch, thay đổi,
không cố định. Vạn vật không đứng yên một chỗ mà luôn luôn biến đổi hình dạng,
đi từ trạng thái hình thành sang biến hoại rồi tan rã theo luật Thành – Trụ -
Hoại – Không. Như vậy, trong giới tinh thần lẫn vật chất, không có cái gì cố định,
vạn pháp đều nằm trong dòng biến dịch không ngừng. Một pháp vừa sinh là đi dần
đến tan rã. Một pháp tan rã là mở đầu cho một pháp đang sinh. Thực tại không phải
ao tù mà là một dòng nước. Tất cả mọi sự vật, hiện tượng trên thế gian do duyên
sinh đều mang tính vô thường – tức không mang tính đồng nhất bất biến. Vô thường
có ba loại: thân vô thường (thân này là giả tạm, mong manh, do duyên sinh nên
cũng theo thời gian mà hoại diệt, tan rã), hoàn cảnh vô thường (sơn hà đại địa,
thế sự công danh, thăng trầm vinh nhục…), tâm vô thường (tâm thức con người
luôn biến đổi như dòng suối chảy mãi không ngừng, tâm được tạo từ các niệm sinh
diệt liên tục, chuyển hóa liên miên bất tận).
o
Khổ
(Dukkha): là chịu đựng, kham nhẫn, bức bách, đau đớn… Thế gian là giả tạm, bất
toàn, trống rỗng. Những trạng thái mà người ta cho rằng hạnh phúc vui vẻ cũng
là mầm mống của khổ đau. Khổ là một sự thật mang tính phổ biến và hiện diện dưới
nhiều hình thái đa dạng. Khổ được biết qua 8 hiện tượng: sinh khổ (khổ lúc xuất
sanh, tái sinh, hoạch đắc và khổ trong đời sống hằng ngày), già khổ (già là điều
kinh hãi, thân xác ta biến diệt hư hoại từng giây từng phút, mơ ước bị chôn
đi), bệnh khổ (bệnh tật làm ta khổ), tử khổ, biệt ly khổ, cầu bất đắc khổ, oán
tắng hội khổ (người mình căm ghét mà phải gặp mặt thì khó chịu vô cùng), ngũ ấm
xí thạnh khổ (thân người do năm ấm sắc – thọ - tưởng – hành – thức giả hợp lại
mà thành, ngũ ấm này luôn xung đột, mâu thuẫn, chi phối lẫn nhau khiến con người
chịu biết bao khổ sở).
o
Vô
ngã: nghĩa là không có một bản chất trường tồn, bất biến, không có một chủ thể
tuyệt đối, không có một linh hồn bất diệt, không có đấng sáng tạo vĩnh cửu. Vạn
vật do duyên sinh. Mỗi hiện hữu của chúng sinh đều trong tương quan, do bốn đại
kết hợp – năm uẩn định hình, do tác động nhân duyên mà thành. Thế nên tất cả đều
vô ngã. Còn con người, do vô minh, tham ái, do ước vọng sinh tồn, sợ mất sở hữu,
sợ mất bản thân… nên chúng ta đã chấp ngã, tự tạo ra một hay nhiều đấng tối
cao, linh hồn bất tử (Ngã) để được che chở và mãi mãi trường tồn.
Đức Phật
khẳng định, mọi sự vật trên đời không có tướng trạng cố định, thay đổi không ngừng
theo luật “Sinh – Trụ - Dị - Diệt” hay “Thành – Tựu – Hoại – Không”, do đó
không có chủ thể nhất định, tất cả đều vô ngã.
Vô ngã
là giáo lý đặc biệt trong hệ thống giáo lý Phật giáo. Thực tại khách quan là Vô
Thường và Vô Ngã. Biểu hiện của Vô Thường và Vô Ngã ở nơi tâm lý chấp thủ của
chúng sinh là Khổ.
-
Con
đường tu tập: Giới – Định – Tuệ.
Đây là cách thức tu tập để đoạn trừ phiền não, chứng nhập quả vị giải thoát
hoàn toàn, không còn nằm trong sự kiềm tỏa của tam giới và không dừng lại ở phước
báo sinh thiên.
o
Giới:
là cách phòng ngừa, điều phục, chế ngự mọi điều ác… bằng sự tỉnh giác, tri kiến,
kham nhẫn, tinh tấn… để đạt sự thanh tịnh ba nghiệp, sự giải thoát.
o
Định:
là trạng thái tâm ý chuyên chú tập trung vào một đề mục, một đối tượng nhất định
để tâm không bị xao động, nhiễu loạn do những tác động chủ quan và khách quan.
o
Tuệ:
là trí và tuệ. Là tu tập làm phát sinh trí tuệ vô lậu.
-
Giáo
pháp Phật Giáo nằm trong Tam Tạng
(ước lượng lớn hơn 11 lần toàn bộ Kinh Thánh của Ki-tô giáo), đề cập đến ba
phương diện: giáo lý, thực hành và chứng ngộ; bao gồm
o
Kinh
tạng: các bài giảng của Đức Phật và các đại đệ tử. Gồm 5 bộ chính: Trường bộ
(34 bài kinh dài), Trung bộ (152 bài kinh thiết yếu được phân theo chủ đề - đây
là bộ quan trọng nhất), Tương Ưng bộ (2.889 bài kinh ngắn), Tăng Chi bộ (2.308
bài kinh), Tiểu bộ (tập hợp 15 bộ kinh nhỏ). Ban đầu chỉ có văn tự bằng tiếng
Pali và tiếng Phạn. Ngày nay đã được dịch sang rất nhiều ngôn ngữ. Mỗi một kinh
là một bài riêng biệt, xử lý một vấn đề riêng biệt.
o
Luật
tạng: các giới luật của người xuất gia, lịch sử phát triển của tăng già (tăng
già gồm Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, cư sĩ). Gồm 5 bộ: Baladi, Ba dật đề, Đại phẩm, Tiểu
phẩm, Toát yếu.
o
Luận
tạng (hay Vi diệu pháp tạng): các quan niệm về triết học và tâm lý học. Luận tạng
nguyên thủy bàn bốn vấn đề tột cùng rốt ráo: tâm, danh, sắc, Niết bàn. Luận tạng
nguyên thủy có 7 quyển: Pháp tụ, Phân biệt, Giới thuyết, Nhân thi thiết, Biện
giải, Song luận, Nhân duyên thuyết. Ra đời sau khi đã phân chia nhiều trường
phái, nên nội dung Luận tạng không còn tính thống nhất giữa các bộ phái.
Có thể
hiểu: Luật tạng chủ yếu dạy về Giới, Kinh tạng chủ yếu dạy thiền Định, Luận tạng
chủ yếu dạy tu tập trí Tuệ.
Ngoài
Tam Tạng kinh còn có các bộ Chú Giải và Phụ Chú Giải Kinh Điển.
Ngày
nay có ba phiên bản Tam Tạng Kinh Điển được chấp nhận bởi ba trường phái Phật
giáo: Tam Tạng Kinh bằng tiếng Pali của Phật Giáo nguyên thủy (Thượng Tọa Bộ),
Đại Tam Tạng Kinh bằng tiếng Trung Quốc của Phật giáo Đại Thừa (vốn được dịch
ra từ tiếng Phạn), Tam Tạng Kinh Tây Tạng bằng ngôn ngữ Tây Tạng của Phật Giáo Kim
Cương Thừa (Mật giáo).
Chỉ có
bộ kinh bằng tiếng Pali được coi là bộ nguyên thủy từ thời Đức Phật (tiếng Pali
được nhiều nhà nghiên cứu xác định là tiếng mẹ đẻ của Đức Phật), hai phiên bản
kia có nhiều bộ được sáng tác sau khi Phật nhập diệt nên không được Thượng Tọa
Bộ thừa nhận.
Các tôn phái trong Phật Giáo
Như đã nói, hiện
nay có ba trường phái Phật Giáo lớn nhất trên thế giới:
-
Thượng Tọa Bộ (phái Nam Tông, hay Tiểu Thừa)
-
Đại Thừa (phái Bắc Tông)
-
Kim Cương Thừa (Mật Tông, Mật giáo hay phái Tây
Tạng)
Thượng Tọa Bộ là phái lâu đời nhất
trong lịch sử Phật giáo, trung thành tuyệt đối với giáo lý nguyên thủy của Phật
Tổ. Họ chỉ tập trung vào con đường đạt đến giải thoát, còn lý luận triết học
không đóng vai trò quan trọng, thậm chí có thể gây xao nhãng, trở ngại cho con
đường tu tập đạt đến giải thoát thực sự – giống như quan điểm của Đức Phật.
Quan điểm của phái là chuyên tâm đi sâu vào việc phân tích tỉ mỉ các trạng thái
đời sống con người, bản chất sự vật, cơ cấu của chấp ngã, chỉ ra con đường
thoát khổ.
Thượng Tọa Bộ hiện
có mặt ở Nam Á (Sri Lanka, Bangladesh), Đông Nam Á (Campuchia, Lào, Myanmar,
Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Indonesia, Singapore), Trung Quốc, Ấn Độ, phương
Tây (có từ thế kỷ 19, gần đây số lượng tăng khá nhanh). Ở Việt Nam, Thượng Tọa
Bộ đã để lại dấu vết sâu đậm trong lịch sử văn hóa của người Khmer Tây Nam Bộ từ
thế kỷ thứ 4, nay vẫn có vai trò tinh thần tuyệt đối quan trọng với cộng đồng
này (ở nước ta, dân số Khmer chiếm 1,07% nhưng số ngôi chùa theo phái Thượng Tọa
Bộ chiếm tới 3%).
Thượng Tọa Bộ chỉ
tôn thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Họ nhìn Đức Phật bằng con mắt “thực tế lịch sử”.
Họ cho rằng, trên đời chỉ có một Đức Phật. Ngài cũng là một con người bình thường
bằng xương bằng thịt, có những nhu cầu sinh hoạt ăn, mặc, ở… cũng chịu chi phối
của vô thường, trải qua mọi thống khổ của kiếp người sinh – già – bệnh – chết.
Ngài chỉ khác hơn người thường ở chỗ, Ngài đã hoàn toàn giác ngộ; nhờ nỗ lực tu
hành mà đạt đạo quả; nhờ tâm từ bi mà bôn ba khắp nơi hóa độ chúng sinh. Chúng
sinh còn mê, nên tạo nghiệp thọ khổ cứ luẩn quẩn trong vòng sinh tử luân hồi; Đức
Phật đã ngộ, nên thoát hẳn sinh tử luân hồi. Đó cũng là điểm khác biệt giữa mê
và ngộ.
Quả vị Alahán là
lý tưởng của người theo Thượng Tọa Bộ. Họ cũng cho rằng, các Alahán có một thể
tính cao khiết, hoàn hảo. Đức Phật chính là vị Alahán đầu tiên. Alahán là một từ
có trước cả khi Đức Phật xuất hiện, để chỉ một người xứng đáng được cung kính
và cúng dường, một vị đã đạt đến cứu cánh tối thượng. Trong Đạo Phật, cứu cánh
tối thượng là Niết bàn, quả vị Alahán là người đã chứng đắc Niết bàn. Đức Phật không
khác các Alahán về mặt phẩm chất, nhưng Ngài lại nổi bật lên trong số các
Alahán, không phải vì sự khác biệt trong phạm trù chứng đắc hay lợi thế về mặt
thời gian, mà là sự khác biệt trong vai trò của Ngài: Ngài là vị đầu tiên trong
thời đại đã chứng đắc quả vị, rồi Ngài lại phục vụ như một bậc thầy tâm linh, một
người dẫn đường không ai sánh kịp để phổ biến con đường giải thoát cho mọi người
biết – nhờ những kỹ năng xuất sắc đến mức hoàn hảo trong việc giảng dạy (Đức Phật
luôn luôn tùy biến sử dụng giáo pháp thích hợp chính xác với căn cơ của bất kì
ai đến xin Ngài chỉ dạy). Hơn nữa, Ngài được trời phú cho những phẩm hạnh và tướng
mạo ưu việt, nên cũng là thành viên của một đẳng cấp khác – các bậc Như Lai.
Trong hiện thực, Đức Phật không dạy Bồ Tát đạo. Lý tưởng về Bồ Tát được cho rằng
xuất hiện sớm nhất một thế kỷ sau khi Ngài nhập diệt. Vì thế Thượng Tọa Bộ
không đề cập tới Bồ tát.
Phái Thượng Tọa
Bộ có hệ thống giáo lý và sinh hoạt của tăng đoàn gần gũi nhất với thời của Đức
Phật. Họ gìn giữ truyền thống và kinh điển qua hàng ngàn năm một cách nghiêm
túc và nhất quán đến mức đáng kinh ngạc.
Giáo lý và hệ thống
kinh điển Thượng Tọa Bộ có lịch sử truyền thừa lâu đời nhất trong lịch sử kết tập
kinh điển Phật giáo. Lịch sử Phật giáo đã trải qua cả thảy 6 lần kết tập kinh
điển (3 kỳ ở Ấn Độ, 1 kỳ ở Sri Lanka, 2 kỳ ở Myanmar). Trong kỳ 6 (năm 1956 tại
Myanmar), kinh điển đã được viết chính thức trên giấy trắng mực đen bằng tiếng
Pali và tiếng Myanmar; vì bấy giờ thế giới vẫn còn có 6 vị Thánh tăng thuộc
lòng Tam Tạng (45 cuốn chính tạng, 92 cuốn chú giải). Hệ thống kinh điển cơ bản
này được Thượng Tọa Bộ sử dụng để truyền bá tới tất cả các quốc gia. Ở Việt
Nam, toàn bộ Tam Tạng vẫn chưa được dịch hết sang tiếng Việt, nhất là các phần
chú giải. Hệ thống Tam Tạng kinh nguyên thủy gọi là kinh A hàm.
Về phương diện
sinh hoạt, thời của Phật Tổ không hề thấy có giới luật ăn chay. Tỳ kheo đi khất
thực, ai có lòng cho gì thì họ ăn nấy. Giai đoạn đó đời sống còn thô lậu, khó
khăn, Đức Phật phải tùy nghi, dùng phương tiện khất thực để vừa hoằng pháp, vừa
phát triển, lại vừa sinh tồn. Vì thế người theo Thượng Tọa Bộ được phép thọ dụng
các loại thức ăn do cúng dường, kể cả thịt cá, gọi là “tam tịnh nhục” (không thấy,
không nghe, không nghĩ) – điều này được ghi trong Luật tạng.
Dù vậy, không sát
sinh là giới luật đức Phật đưa ra, vì Ngài cho rằng mọi sinh vật đều sợ chết, sự
sống là điều quí báu nhất trên đời, nếu thực phẩm có sự chết của chúng sinh thì
tốt hơn là không nên ăn. Như vậy Đức Phật khuyến khích ăn chay, nhưng Ngài cũng
dạy rằng, nên tùy duyên và bất biến. Tùy duyên là tùy theo hoàn cảnh, thời tiết,
nhân duyên, mà thay đổi phương tiện cho thích hợp. Bất biến là không được thay
đổi những giáo lý quan trọng cốt tủy của đạo Phật, như từ bi, bình đẳng…
Chư tăng Thượng
Tọa Bộ chỉ dùng ngọ (ngày ăn một bữa chính, không ăn sau 12 giờ trưa, thường
sáng ăn cháo, trưa ăn cơm chính, tối ăn nước cháo hoặc nước rau quả, uống sữa…).
Thức ăn phong phú, đa dạng, không phân biệt chay mặn, do Phật tử tùy tâm cúng
dường.
Theo truyền thống,
phái Thượng Tọa Bộ thường an cư tại chỗ, vì số lượng tăng sĩ ít (tuy nhiên,
trong lịch sử, giới tăng lữ của phái này nổi tiếng vì không ngại dấn thân vào
những chuyến viễn du đầy nguy hiểm để truyền bá Phật giáo). Hằng năm, có ba
tháng – gọi là mùa An cư, thường từ 16 tháng 6 tới 15 tháng 9 âm lịch – tăng sĩ
trong phái tụ tập, cùng nhau tu học. Kế đó, chư tăng có một tháng để dâng y (từ
16 tháng 9 tới 15 tháng 10 âm lịch). Thường mỗi chùa cử hành lễ dâng y vào một
ngày cố định trong tháng, luân phiên từ chùa này đến chùa kia. Không khí mùa lễ
Dâng y vô cùng rộn ràng, vui vẻ.
Phái này còn giữ
gìn cả truyền thống tam y nhất bát truyền từ thời Đức Phật tới ngày nay. Tam y
là đồ mặc của tăng ni (gồm y tăng già lê, y nội và y vai trái), y phục dùng vải
quấn mà thành, không đeo tràng hạt. Nhất bát là bình bát – dụng cụ để chư tăng
mang đi khất thực mỗi ngày. Trong chùa, chư tăng mặc hở vai phải, ra ngoài mặc
kín mình. Khi khất thực chỉ được đi chân đất, không đội nón mũ, thường đi trong
khu vực lân cận nhà chùa, đến khi đầy bình bát và đậy được nắp bát, không để thức
ăn quá vung. Chư tăng khi nhận được đồ cúng tiến sẽ đọc kinh chúc phúc, cầu an
lành cho vị đó. Khi về, họ lấy phần đồ ăn cho vào bình bát của mình, chỉ lấy vừa
đủ dùng, tránh lãng phí. Ăn xong, họ tự rửa bình bát của mình. Ngày nay ở một số
chùa, chư tăng tự trồng trọt, chăn nuôi nên không phải đi khất thực.
Kiến trúc các
công trình của Phật giáo Thượng Tọa Bộ không nhất quán, mỗi chùa một vẻ, mỗi quốc
gia một kiểu. Chùa/Tổ đình Bửu Quang do Hòa thượng Hộ Tông và nhóm Phật tử của
cụ Nguyễn Văn Hiển đồng sáng lập năm 1938 được Trung Tâm Sách Kỷ Lục công nhận
là ngôi chùa Phật Giáo Thượng Tọa Bộ (Nam Tông) đầu tiên ở Việt Nam.
Về chi phái, sự
phân chi phân nhánh của phái Thượng Tọa Bộ cũng diễn ra từ rất sớm – khoảng 300
năm sau khi Đức Phật nhập diệt (phân thành 11 nhánh ở Ấn). Sau đó, dù chỉ khác
biệt quan điểm về một vấn đề rất nhỏ, họ cũng lập ra một phái mới.
Khoảng thế kỷ
3-7 ở Ấn Độ, Đại Thừa thắng thế, các chi phái của Thượng Tọa Bộ tàn lụi dần, một
phần chuyển hướng sang các nước khác (Sri Lanka, Mianmar…). Đến thế kỷ 13, Phật
giáo bị xóa khỏi Ấn Độ, lúc đó Thượng Tọa Bộ đã có căn cơ vững chắc ở nhiều nước
Nam Á và Đông Nam Á, thậm chí còn trở thành quốc giáo ở một số quốc gia.
Đầu thế kỷ 20,
Thượng Tọa Bộ được khôi phục ở Ấn cùng các chi phái khác của Phật giáo. Khá nhiều
người phương Tây cũng chú ý đến phái này. Nhưng để Thượng Tọa Bộ chấn hưng lại
và đạt thành tựu rực rỡ như thời Đức Phật vẫn còn cần một hành trình rất dài.
Ngày nay, chi
phái thường phân theo lãnh thổ quốc gia hoặc tộc người, chẳng hạn như nhánh Thượng
Tọa Bộ ở Thái, Thượng Tọa Bộ ở Campuchia, Thượng Tọa Bộ của người Khmer Tây Nam
Bộ…
Phái thứ hai, Đại Thừa, manh nha từ kỳ kết tập kinh
điển thứ 2 (100 năm sau ngày Đức Phật nhập Niết bàn), nhưng chỉ thực sự phát
triển một cách có hệ thống từ thế kỷ thứ 3 nhờ ngài Long Thọ. Đây là phái chủ
trương thay đổi Tam Tạng theo thời thế, có nhiều tư tưởng tiến bộ tích cực
trong quá trình phát triển, nhưng cũng bị cáo buộc kèm theo không ít hành trì
mang tính mê tín dị đoan, tà giáo.
Đại Thừa nhanh
chóng chiếm ưu thế ở Ấn Độ tới tận thế kỷ 7-10, và truyền bá rộng rãi sang
Trung Quốc, Nhật, Triều Tiên, Việt Nam… Ngày nay, Đại Thừa có mặt khắp nơi trên
thế giới, với số lượng tín đồ đông đảo nhất trong số ba tông phái Phật giáo.
Phái Đại Thừa thờ
nhiều vị Phật và nhiều vị Bồ Tát.
Phái này nhìn Đức
Phật bằng con mắt “huyền thoại, siêu hình”. Họ cho rằng Đức Phật Thích Ca không
phải người thường. Cái thân xác của Ngài chỉ là một hóa thân trong một kiếp mà
thôi. Thực ra Ngài đã thành Phật từ vô lượng kiếp rồi. Nhưng vì muốn hóa độ
chúng sinh, nên Ngài mới hiển thị ở loài người, trong hình hài Thái tử Tất Đạt
Đa, để dễ bề giáo hóa. Phật Thích Ca chỉ là một hóa thân trong muôn triệu hóa
thân, chỉ là thân phàm trong một giai đoạn tạm thời giữa muôn triệu giai đoạn.
Trong kinh điển Đại Thừa, một số đoạn huyền thoại về Đức Phật được cho rằng đã
tìm cách chen vào các bản kinh cổ điển nhất (ví dụ, trong những hóa thân quá khứ
Ngài đã hoàn thành những điều kiện khó khăn để kiếp này có thể đạt được địa vị
phi thường cao quí; khi Ngài đầu thai vào bụng mẫu hậu và khi chào đời có luồng
ánh sáng vô lượng xuất hiện; Ngài vừa ra đời đã được các vị thần chào đón, Ngài
đi bảy bước và tuyên bố mình là bậc tối thượng trên đời;…).
Đại Thừa cho rằng,
mỗi chúng sinh đều có Phật tánh hay pháp thân. Pháp thân lặng lẽ, không sinh,
không diệt, trùm khắp pháp giới. Người nào cũng có Phật trong mình. Xứ nào cũng
có Phật. Tùy duyên ứng hiện, hữu cảm tất ứng, nơi nào tưởng nhớ Phật, Phật sẽ
hiện thân ở đó để giáo hóa.
Các vị Phật cũng
có thể tương trợ để hóa độ chúng sinh hoặc giới thiệu công hạnh cho nhau. Ví dụ,
Đức Phật Thích Ca giới thiệu đức Phật A Di Đà ở cõi Tây phương Cực lạc cho
chúng sinh biết, để niệm danh hiệu Ngài mong cầu về cõi đó.
Lý tưởng Bồ Tát
là hạnh nguyện của đệ tử Đại Thừa. Dù trong kinh tạng nguyên thủy, chưa bao giờ
thấy nói về quả vị Bồ Tát hay Bồ Tát đạo. Tại sao lại như vậy? Đến bây giờ điều
này vẫn là một bí ẩn với giới nghiên cứu. Phái này cho rằng các Alahán còn có
thoái lui, chỉ liên quan đến chứng đắc của cá nhân – tự mình chứng đắc mà không
có đạo sư, cũng không trở lại giáo huấn chúng sinh. Bồ tát là người đã chứng đắc,
nhưng quay ra phục vụ kẻ khác, hy sinh thân mình vì lợi ích của kẻ khác – làm đạo
sư dẫn dắt người ta tới bờ giác ngộ, nhờ thế tạo được nhiều công đức và đạt đức
hạnh đưa tới chứng đắc Phật quả. Trên ý tưởng này, Đức Phật Thích Ca chính là một
vị Bồ tát. Không phải ngẫu nhiên mà trí tưởng tượng của đệ tử phái Đại Thừa đã
sản sinh ra một kho tàng tích truyện rộng lớn về các tiền thân của Đức Phật,
nâng cao năng lực của Ngài và gán cho Ngài những đức tính của đấng toàn năng, mở
rộng số lượng các vị Phật, các vị Bồ Tát… tới cả vũ trụ và vô lượng thế giới.
Các vị Bồ Tát
cũng như các vị Phật vậy, có mặt ở khắp các cõi. Cứ nơi nào chúng sinh đau khổ,
khẩn cầu cứu độ, Bồ Tát sẽ thị hiện để cứu khổ. Người hoạt động vì lợi lạc và hạnh
phúc của nhân gian. Hình ảnh Bồ Tát và Phật đạt đến đỉnh cao, mang một sức mạnh
có tính lý tưởng, ràng buộc, qui chuẩn và ước lệ. Những người theo Đại Thừa từng
tự cho rằng con đường Bồ Tát đạo của họ tối ưu hơn, cao cả hơn lý tưởng Alahán
của phái Thượng Tọa Bộ, rằng Thượng Tọa Bộ hẹp hòi trong vấn đề giải thoát cá
nhân, sợ hãi vòng sinh tử, ít lòng từ bi, ít hoạt động đưa đến lợi lạc cho kẻ
khác. Vì vậy, nhiều người trong số họ quá bận rộn với các nhiệm vụ xã hội mang
lại lợi ích cho chúng sinh đến nỗi từ bỏ việc tu tập thiền định, điều phục tâm,
phát triển trí tuệ như lời Đức Phật dạy. Thực tế, các Phật tử mẫn tiệp và giới
học giả đều biết rằng, Alahán và Bồ tát giống nhau nhiều hơn người ta vẫn tưởng.
Alahán và những người cầu quả vị Alahán thường hoạt động để cải thiện đời sống
vật chất và tâm linh của chúng sinh – giống Bồ tát. Còn Bồ tát và những ai theo
đuổi Bồ tát hạnh cũng phải trải qua thời gian dài nhập thất hành thiền, tu tập
những kỹ năng thiền định đến trình độ xảo diệu, học tập tất cả giáo lý – gần giống
kỹ năng của vị tu theo hạnh Alahán - điều kiện để họ có thể đạt được quả vị Phật.
Về giáo lý, Đại
Thừa có hệ thống kinh điển đồ sộ nhất trong ba trường phái Phật giáo. Hệ thống
triết học Đại Thừa luôn biến hóa, cải biên qua từng thời kỳ và ở mỗi quốc gia
khác nhau, do đó vô cùng phong phú. Nhiều Thánh tăng của phái này có trí tuệ
uyên thâm, quyền lực to lớn, đạo hạnh cao khiến thế tục phái kính ngưỡng. Phái
cũng có nhiều học giả lỗi lạc, góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của môn
phái. Đây cũng là một trong các lý do khiến Đại Thừa vẫn còn tồn tại và phát
triển mạnh mẽ đến tận ngày nay.
Về phương diện
sinh hoạt, người xuất gia ăn chay nghiêm túc, không được phép ăn mặn – dù loại
thịt cá đó có là “tam tịnh nhục”. Các nhà nghiên cứu cho rằng, việc ăn chay này
xuất phát từ Trung Quốc. Khi Phật giáo Đại Thừa lan tới Trung Quốc khoảng thế kỷ
thứ 3-4, hệ thống giáo lý và giới luật của nó đã bị các tổ sư ở Trung Hoa thay
đổi cho phù hợp với căn cơ và văn hóa nơi này. Tuy ăn chay, nhưng các món ăn được
chế biến cầu kỳ, thậm chí còn mô phỏng thịt cá của thế tục giống như thật. Tăng
sĩ không đi khất thực. Khi ăn, dùng bát, chén, đĩa, đũa… như người bình thường.
Phái Đại Thừa an
cư tập trung, vì số lượng tăng ni lớn.
Y phục của tăng
sĩ phái Đại Thừa khác hoàn toàn phái Thượng Tọa Bộ, được may thành quần áo chứ
không dùng vải quấn. Sự khác biệt này, theo các nhà nghiên cứu, mới chỉ bắt đầu
từ khi Đạo Phật du nhập vào Trung Quốc. Có thêm mũ mão, hia, hài, trượng, trang
phục nhiều màu sắc hơn, có đeo tràng hạt… Y phục cũng thay đổi dần theo thời
gian và lãnh thổ cho gần gũi với đời sống hằng ngày.
Chùa chiền phái
Đại Thừa tô vẽ hay đúc tượng Phật có nhiều nét giống người nước họ, vì họ cho rằng
thế mới là Phật giáo nước họ - mỗi người đều có ông Phật của riêng mình. Điều
này tạo ra mối liên hệ gần gũi, thân thiết với người dân, dễ bề cảm hóa, lôi
kéo họ tin và sùng kính đạo. Chùa thường thờ Phật và các Bồ Tát, nặng về lễ
bái. Kiến trúc chùa tùy biến theo từng quốc gia. Các nước Trung Quốc, Việt Nam,
Nhật, Triều Tiên, Hàn Quốc có kiến trúc chùa khá giống nhau (hình tháp, trang
trí rồng phượng…) do ảnh hưởng từ lịch sử.
Trong quá khứ, Đại
Thừa giai đoạn đầu là Đại Chúng bộ, sau được chia thành 9 nhánh, thịnh suy ở từng
khu vực đồng bằng sông Hằng. Tới thế kỷ 4-5, phái Đại Chúng chia thành hai tôn
phái lớn Không, Hữu. Sau đó, chia lại thành Mật giáo, Hiển giáo (Không, Hữu nhập
vào Hiển giáo). Khi Mật giáo lớn mạnh, phát triển độc lập thành nhánh riêng,
thì Hiển giáo cũng thay đổi và lan sang các nước lân cận.
Đại Thừa ngày nay
cũng có vô số chi phái lớn nhỏ, một số kế thừa từ các tôn phái trong quá khứ, một
số khác mới dựng lên.
Hai tôn phái Đại
Thừa được biết đến nhiều nhất hiện nay ở Việt Nam là Tịnh Độ và Thiền tôn.
Tịnh
Độ tôn: được nhắc tới từ thời Đức Phật, nhưng mãi tới đời Đông Tấn ở
Trung Hoa, ngài Huệ Viễn đại sư bắt đầu truyền bá, lại được các đại sư nhiệt liệt
hoằng dương tán thán, mới chính thức trở thành một tôn phái. Ngài Huệ Viễn
thành vị Tổ đầu tiên của tôn này.
Ưu điểm lớn nhất
của tôn này là ai ai cũng tu trì theo được.
Tịnh Độ dạy mọi
người tin tưởng và thực hành niệm Phật thường xuyên, phát nguyện sinh về cõi Cực
Lạc.
Tôn này cực thịnh
ở Trung Quốc và Việt Nam thời hiện đại (thế kỷ 20 đến nay), có lẽ do phương
pháp thực hành dễ dàng, đơn giản nên lôi cuốn được nhiều tín đồ, đặc biệt là
người già. Tôn này không được người phương Tây tu học, nguyên nhân chính được
cho là vấn đề ngôn ngữ.
Về bản chất, tôn
này thuộc phái Đại Thừa, sử dụng và tán dương kinh điển Đại Thừa. Ba bộ kinh
quan trọng của tôn phái này gồm: kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật,
kinh A Di Đà.
Thực tế lịch sử,
niệm Phật cũng là một trong các phương pháp Đức Phật Thích Ca từng giảng dạy
cho đối tượng người già, người bệnh… để họ có thể đạt tới giải thoát, nhưng con
đường này có lẽ vì quá dễ dàng hành trì, nên không phải ai cũng nhất tâm theo
đuổi, do đó cũng không dễ chứng đắc hoàn toàn. Đặc biệt ngày nay, người Việt và
người Trung Quốc lạm dụng Tịnh Độ theo hướng cúng bái mê tín quá nhiều, càng
gây phản tác dụng.
Ba điều thiết yếu
nhất cho người tu theo pháp môn Tịnh Độ là: tín – hạnh – nguyện. Dù chỉ thiếu một
cũng không được. Tín là lòng tin, là cái tâm niệm của mình hiện hữu ngay đây,
không trước không sau (theo thời gian), ngang suốt cõi (theo không gian), theo
duyên mà chẳng biến đổi, quyết không lừa dối, không nghi ngờ, tin lời Phật dạy,
tin có bốn cõi, tin rằng ở cõi Cực Lạc các bậc Thiện, Thánh đều hội một chỗ,
tin rằng nhờ tu tập cách niệm Phật mà được vãng sinh về cõi Cực Lạc… Hạnh là đạo
hạnh, phẩm đức, năng làm việc thiện, mang lại lợi lạc cho tha nhân, chuyên tâm
hành trì, một lòng không loạn. Nguyện là phát nguyện, thề nguyện đã chán cõi
Ta-bà (thế giới chúng ta đang sống, có nhiều ô uế, khổ ải), mong cầu về miền Cực
Lạc (thế giới của thần Phật, các bậc hiền thánh, chỉ toàn điều vui vẻ, hạnh
phúc).
Có 4 cách niệm
Phật: xưng danh niệm Phật (ở chỗ vắng lặng, để tâm ý an định, buộc vào một đức
Phật, chuyên tâm niệm danh hiệu Ngài ấy, vững vàng ngồi xây mặt chính trước Phật,
niệm đi niệm lại vô biên – cách này dễ nhất nên được phần nhiều tín đồ sử dụng),
quán tượng niệm Phật, quán tưởng niệm Phật, thiệt tướng niệm Phật.
Thiền
tôn: thiền định là công cụ chính của Phật giáo. Phật Tổ thành đạo cũng
chính bằng cách ngồi thiền 49 ngày đêm dưới cội Bồ Đề. Do đó, thiền là phương
pháp tu luyện của hầu hết các chi phái trong Phật giáo. Tùy mỗi trường phái,
cách thức và lý luận triết học về thiền định có thể khác nhau ít hoặc nhiều.
Ngày nay, Thượng Tọa Bộ (Tiểu Thừa) được người ta biết đến với loại Thiền Minh
Sát, Đại Thừa có phái Thiền Tôn (hay Thiền Tông), Mật Giáo có kiểu hành thiền đặc
biệt kiểu yoga (Du già).
Do là phương
pháp cội rễ cơ bản của Phật giáo, nên Thiền tôn có mặt trước tiên ở Ấn Độ với tổ
đầu tiên là ngài Ma Ha Ca Diếp (người kế tục Phật Tổ điều hành tăng đoàn). Lịch
sử Phật Giáo Ấn Độ cũng là giai đoạn thăng hoa của Thiền tôn với 28 vị Tổ sư.
Khi sang Trung
Hoa, các thiền phái cũng mọc lên như nấm. Thiền Tôn phát triển mạnh nhất và chiếm
địa vị độc tôn trong lịch sử Phật giáo Trung Hoa thời phong kiến, vì hợp với
căn cơ người Hoa. Vị tổ cuối cùng – tổ đời thứ 28 của Thiền phái Ấn Độ - Bồ Đề
Đạt Ma, sang truyền đạo ở đây, đã trở thành vị Tổ đầu tiên của Thiền Tôn Trung
Hoa (Đệ Nhất Tổ Sư Thiền Trung Hoa). Kế tục ngài là 5 vị tổ: Huệ Khả, Tăng Xán,
Đạo Tín, Hoằng Nhẫn, Huệ Năng. Khi Phật giáo Trung Hoa suy tàn cuối thế kỷ 19,
đầu thế kỷ 20 thì các chi phái Thiền Tôn cũng biến mất.
Ở Việt Nam, năm
580 Đa Lưu Chi sang truyền bá thiền tôn và Mật giáo, trở thành Sơ Tổ Thiền Tôn
Việt Nam. Những năm về sau dưới các triều đại phong kiến, khi Phật giáo thịnh
hành, Thiền tôn cũng giữ địa vị độc tôn trong văn hóa đời sống người Việt. Sang
thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, Phật giáo suy bại, Thiền tôn cũng biến mất trong dòng
lịch sử.
Có vẻ như Thiền
phái liên quan chặt chẽ đến thăng trầm lịch sử các dân tộc. Điều này không phải
ngẫu nhiên. Vì thiền là phép định tâm. Khi tâm lý, tinh thần của một người
không an, tán loạn, sợ hãi… họ không còn tâm trí để ngồi thiền, càng không thể
vào định. Một dân tộc cũng vậy, khi còn phải lo bao nguy cơ sống còn trước mắt,
sẽ không có chỗ cho Thiền tôn phát triển.
Ngày nay, cùng với
phong trào chấn hưng Phật giáo ở châu Á và thế giới, Thiền tôn cũng được các
cao tăng tâm huyết phục hồi ở Trung Quốc, Việt Nam. Nhưng việc phát triển đang
gặp rào cản lớn từ thói quen lễ bái, mê tín đã bị Nho giáo làm cho hủ hóa từ mấy
trăm năm nay.
Trường phái thứ
ba, Kim Cương Thừa hay Mật Giáo có
khuynh hướng giữ bí mật các thông tin nên khó xác định thời điểm ra đời chính
xác của phái này. Xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 5 – 7 ở Bắc Ấn Độ, được cho
là bắt nguồn từ Đại Thừa (là sự phát triển đặc sắc của Đại Thừa giai đoạn cuối ở
Ấn, một số nghiên cứu lại cho rằng Mật tông là sự kết hợp của Phật giáo và Ấn Độ
giáo), sau được truyền sang Tây Tạng (thế kỷ 11), Trung Quốc, Nhật, Mông Cổ,
Nga. Ngày nay, Mật giáo có mặt ở khắp nơi trên thế giới, trong đó có Việt Nam,
nhưng số lượng tín đồ không nhiều.
Khi Phật Tổ còn
sống, Ngài cực lực phản đối thần quyền, bài xích những quan điểm thần bí, phủ định
các chú thuật… Tuy nhiên, kinh tạng nguyên thủy có nhắc tới một số trường hợp
khi ăn không tiêu, bị rắn độc cắn, đau răng… Đức Phật vẫn dùng vài bài chú, còn
truyền dạy lại cho các đệ tử để hộ thân. Nhưng nguồn gốc của Mật chú (Mantra) được
cho là xuất phát từ Bà la môn giáo. Đến thời Phật giáo phân thành bộ phái, chú
pháp đã thịnh hành. Mật chú thời kỳ đầu bằng tiếng Pali, có hàm nghĩa vô cùng
sâu sắc – tín đồ của nó cho rằng, xướng tụng những kinh văn này sẽ tạo công đức,
phước sẽ đến họa sẽ đi, nhiếp tâm điều tức, dần đạt đến Đà la ni, thống nhất
tinh thần (Nhất Tâm) – giai đoạn tối sơ của Tạp Mật.
Giáo lý Mật tông
ghi rằng, Đại Nhật Như Lai (ông Tổ Mật Tông) đã bí mật truyền thừa chú pháp Mật
Tông cho ngài Kim Cang Tát Đõa (Nhị Tổ Mật Tông). 800 năm sau khi Đức Phật nhập
Niết Bàn, ngài Long Thọ xuất thế, mở bảo tháp Nam Thiên Thiết, nhận được truyền
thừa từ đệ nhị tổ, trở thành đệ tam tổ Mật giáo. Câu chuyện này nói lên một sự
thật lịch sử: Mật giáo thực ra có thể ra đời vào thế kỷ thứ 2-3 (800 năm sau
ngày Phật Tổ mất), nhưng vẫn rất mơ hồ và phức tạp. Các học giả Mật giáo sau
này truyền bá câu chuyện này để cố gắn nó với Phật Tổ. Không có tác giả nào của
phái này quyền uy trên phương diện nghiên cứu và học thuật, cũng không có chế độ
truyền thừa rõ ràng, nên người ta qui toàn bộ thời kì đầu là Tạp Mật. Từ thế kỷ
7, Mật giáo bắt đầu được chú ý. Đến tận thế kỷ 11, Mật giáo dần được bồi đắp
thêm hệ thống lý luận và kinh điển, phát triển rầm rộ ở Ấn. Số lượng tín đồ
tăng lên rõ rệt. Đại Thừa tại Ấn dần bị Mật giáo hóa. Đến thế kỷ 13, Mật giáo bị
tiêu diệt cùng với sự biến mất của toàn bộ Phật giáo nói chung tại Ấn. Lúc ấy
nó đã có đất sống mới ở Tây Tạng.
Ba yếu tố chính
trong tu hành Mật giáo là: từ bi, trí tuệ, phương tiện thiện xảo. Có bốn bậc từ
cao xuống thấp (bốn tantra): Tối thượng Mật tông, Thiền quán Mật tông, Nghi thức
Mật tông, Lễ bái Mật tông. Triết lý và phương pháp hành trì cũng đi theo tiến
trình Giới – Định – Tuệ như hai trường phái kia, nhưng đặt nặng Gia Trì Lực của
tín đồ, nên khiến người ngoại đạo cảm thấy “thần thông biến hóa”, “bí ẩn li kỳ”.
Mật giáo coi trọng
sư thừa pháp thống, quan hệ “sư sư tương thừa”, còn gọi là “tâm pháp” – tức phải
bí mật truyền trao giữa thầy và trò. Đạo sư hay “guru” – thời Ấn Độ là nhân vật
quan trọng trong Mật giáo. Ở Tây Tạng người ta gọi họ là Lạt ma. Ngày nay, Lạt
ma là từ dùng chung để chỉ các vị cao tăng Tây Tạng. Về bản chất, Lạt ma là hiện
thân của giáo pháp – họ giảng dạy giáo lý, thực hành các nghi lễ, hướng dẫn tu
tập cho các đạo tràng.
Mật giáo rất xem
trọng tu hành thực tiễn, nghi chấp phức tạp, rườm rà, việc thiết đàn, cúng dường,
tụng chú, quán đảnh đều theo một mô thức đã qui định rất nghiêm khắc, còn do vị
Lạt ma bí mật truyền pháp. Họ cho rằng chúng sinh nếu tu hành nhu pháp “tam mật
gia trì”, tức thủ quyết ấn, miệng tụng chú, tâm quán Đức Phật, khiến cho ba
nghiệp luôn thanh tịnh, tương ứng với thân miệng ý của Đức Phật, liền ngay đó tức
thân thành Phật. Quan điểm cùng những nghi chấp tu hành đặc sắc, tuyệt kỹ xảo
diệu xuất chúng, và cả sự bí ẩn khiến Mật giáo có sức hấp dẫn mãnh liệt.
Phép điểm đạo là
một hành trì mang nặng tâm linh. Trong quá khứ, thể nhập vào Mạn đà la và lễ
truyền phép điểm đạo rất công phu, riêng biệt từng lễ một. Có tiêu chí cho từng
bậc khác nhau với người thể nhập Mạn đà la, ai được thọ nhận nước và mũ quán đảnh.
Vị Lạt ma trước khi hành lễ sẽ phân tích cho môn đệ để họ phát tâm tu học Giới
- Định - Tuệ. Một Mạn đà la được xem là rất màu nhiệm, như pháp giải độc, nhanh
chóng tiêu trừ phiền não chướng và sở tri chướng, tập khí vi tế - rất khó với
người có căn cơ thấp. Ngày nay, chúng được truyền bá cho mọi người.
Mật giáo nghiên
cứu rất nhiều về vấn đề sinh lý của con người, dùng phương pháp Yoga (Du già) để
khống chế nội bộ thân thể, tránh được ảnh hưởng của sự lưu chuyển của thời gian
mà được trường thọ, thiết lập cho mình sự tái sinh hoán cốt, biến thân người
mình thành thân Phật. Phương pháp yoga của Mật giáo sánh cùng thiền định: đem cả
thời gian và không gian của vũ trụ thống nhất thành một thể.
Chú ý rằng yoga
trong Phật giáo là một từ có ý nghĩa “tương ứng”, “hài hòa”, vốn xuất phát từ
văn thư cổ của Ấn Độ giáo trước đó, còn có hàm ý là các pháp quán hành điều tức,
quán phạm ngã hợp nhất, đại ngã và tiểu ngã đồng nhất thể. Phật giáo ra đời,
vay mượn lại từ “yoga” để dùng trong thiền định (quán hạnh chỉ quán, tương hợp
chánh lý). Nhưng Yoga trong Mật giáo sau này lại chịu ảnh hưởng từ ngoại đạo (bộ
yoga Sutras của Patanjali). Yoga của Mật giáo được đặt ở vị trí rất cao. Họ cho
rằng thực hành nó có thể đạt đến tất cả mục đích xuất thế - tức cảnh giới của
Phật – “tức thân thành Phật”. Yoga của Mật giáo là nghi thức sinh hoạt pháp với
hành vi đều thuộc thiền định, tức vượt khỏi sinh hoạt pháp về mặt hình thức, là
quá trình hiện quán một cách vi tế, hành giả có thể thể nghiệm một cấp bậc nào
đó của nội tại.
Do sự phức tạp,
buộc phải có hỗ trợ, người muốn hành trì Mật giáo phải rất cẩn mật, nếu không sẽ
cực kỳ nguy hại nếu nhầm lẫn, kể cả mất mạng, tâm thần điên đảo rơi vào ma chướng
vì tâm thức không thể thống nhất. Không phải ai cũng có căn cơ tiếp thu việc tu
tập kiểu này. Ở Ấn Độ ngày xưa, các vị chân sư chỉ truyền dạy Mật pháp cho vài
người mà họ biết nghiệp lực và tâm nguyện người đó đã chín muồi. Sau khi truyền
dạy, sự cảm ứng với pháp môn sẽ nảy sinh, giáo pháp khi đó mới được thẩm nhận
sâu hơn, mang lại lợi lạc cho chúng sinh. Nhưng khi Mật giáo truyền sang Tây Tạng,
điều này bị bỏ qua. Người dân đổ xô học vì sức hút thần bí của nó mà không quan
tâm xem họ có khả năng tu theo giáo pháp này không. Đó là lý do tại sao đến
nay, Mật tông dù phổ biến tại Tây Tạng, nhưng không mấy ai đạt được công phu
tuyệt kỹ của nó. (Việc này cũng đúng với các pháp môn khác, khi bạn tu tập theo
một pháp môn bất kỳ, nếu căn cơ phù hợp, bạn có khả năng thành công. Khi thành
công, năng lực hay dấu ấn sâu sắc của pháp môn đó sẽ thị hiện trên người bạn.)
Kế thừa từ Đại
Thừa, Mật giáo cũng nhìn Đức Phật bằng con mắt siêu hình. Đức Phật được Mật
tông sùng bái là Đức Phật “tối sơ” – tức trước Đức Thích Ca Mâu Ni còn có Đức
Phật tối sơ (đầu tiên trên hết). Mật giáo lắp ghép rất nhiều vị thần của Ấn Độ
giáo, hấp thụ vào trong Mạn đà la (mandala), hình tượng các vị thần được quy định
rất nghiêm khắc.
Hệ thống kinh điển
Mật giáo được kết tập vào cuối thế kỷ 7, chia ra 5 bộ theo khái niệm Phật Thiền.
Hai bộ kinh nổi tiếng nhất là Kinh Đại Nhật (Đại Nhật là ánh sánh lớn – một
trong các tướng tốt của Đức Phật) và Kinh Kim Cang Đảnh. Kinh điển của phái này
dù không quá nhiều như Thượng Tọa Bộ và Đại Thừa, nhưng lại thu hút khá nhiều
người quan tâm do hiếu kỳ. Ngày nay nhiều mật pháp được phổ biến, vô số kẻ rao
giảng về các tantra, kinh sách được dịch sang nhiều thứ tiếng, thật giả lẫn lộn.
Đa số người theo học để giải trí – nhất là người phương Tây, do đó càng không
thể thành tựu.
Các tantra có thể
xem như tạng kinh thứ tư ngoài Tam Tạng, tuy nhiên hiện được xếp vào Kinh tạng.
Tantra có nghĩa là “liên tục thống nhất thể”, như một dòng suối, có ba dạng:
nhân, đạo và quả. Có 4 tantra: Tác tantra (Lễ bái Mật Tông) – Action tantra (dạng
thấp nhất, hành giả thực hành công phu mô phỏng theo bốn chi phái của yoga, sau
đó thực hành ba dạng thiền định, giúp nhanh chóng đạt được chỉ quán), Hành
tantra (Nghi thức Mật Tông) – Performance tantra (chú trọng tới cả thủ ấn và
yoga), Du già tantra (Thiền quán Mật Tông) – Yoga tantra (chú trọng vào nội
yoga nhiều hơn so với các hành động bên ngoài), Tối thượng Du già tantra (Tối
Thượng Mật Tông) – Highest Yoga tantra (nhấn mạnh vào nội yoga, không có lớp
tantra nào vượt qua được). Bốn tantra được phân biệt dựa theo khả năng của hành
giả, không dùng để so sánh sự trội hơn của hành giả hay từng tantra.
Về y phục, mỗi trường
phái Mật giáo có một màu sắc khác nhau. Cũng giống như các trường phái Phật
giáo khác, trang phục đều bị bản địa hóa cho phù hợp với văn hóa, khí hậu từng
vùng.
Ăn uống kham khổ,
ăn chay giống phái Đại Thừa (vì sinh ra từ Đại Thừa). Đôi khi tăng sĩ cũng hành
trì khất thực như phái Thượng Tọa Bộ, nhất là trong các dịp lễ lớn.
Do có nhiều nghi
lễ và chú trọng thực hành, cuộc sống của tăng sĩ Mật giáo được đánh giá là khổ
hạnh hơn nhiều so với hai phái Thượng Tọa Bộ và Đại Thừa. Hành giả Mật giáo cao
cấp cần có am riêng, sống kham khổ, ở chốn a luyện nhã, rừng thiêng nước độc,
hoang vu, tu luyện theo thời khóa ngắn hoặc dài (từ một tuần đến 3 năm nhập thất).
Ngày nay, ở nhiều đạo tràng, Mật giáo được truyền bá rộng rãi, việc tu tập dễ
chịu hơn nhiều. Hành giả cũng khổ hạnh, phân thời khóa biểu, nhưng dùng liêu
phòng cao ráo sạch sẽ, ít đồ đạc, không gian trống thật lớn để niệm chú không bị
chi phối quá nhiều. Nhưng thành tựu ở các đạo tràng kiểu này là không đáng kể.
Kiến trúc chùa
chiền Mật giáo cũng đa dạng, thường có vẻ kín đáo bí ẩn đặc biệt với vô số tượng
Phật và tranh vẽ tượng hình đặc trưng, nhưng vẫn mang dấu ấn bản sắc địa
phương. Ở Tây Tạng, kiến trúc Potala điển hình của Mật phái đã được nhiều nơi
trên thế giới sao chép lại. Ở Việt Nam, chùa Thầy (huyện Quốc Oai, Hà Nội) là điển
hình của kiến trúc phái Mật giáo Việt Nam.
Bộ phái Mật tông
chia theo thời gian gồm 2 nhành chính: Mật giáo Bắc Tông, Mật giáo Nam Tông. Ở Tây
Tạng, Mật giáo có nhiều chi phái, đa số đều xuất phát từ 4 nhánh chính: Cổ Mật
(lâu đời nhất), Kagyu, Gelug, Sakya. Ở Việt Nam, các tăng sĩ Mật giáo thường niệm
chú kết hợp đọc kinh. Nhiều đạo tràng hiện nay vừa kết hợp tu tập Thiền tông và
Mật tông.