Thứ Tư, 15 tháng 7, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 15



Chương 15: Thử thách thứ hai

Oros cúi chào và rời đi, còn Hesea ra hiệu chúng tôi đứng bên phải bà và Atene đứng bên trái. Hiện giờ từ hai bên, các nam và nữ tu sĩ khoác áo trùm đầu bất thình lình đi vào căn phòng, số lượng lên tới năm mươi người hoặc hơn, xếp thành hàng dọc theo tường. Rồi tới hai thân ảnh trong áo cà sa đen và đeo mặt nạ, mang cuốn sách da trên tay, đến bên cạnh cái xác, còn Oros đứng dưới chân xác chết, đối diện với Hesea.
Giờ bà nâng chiếc trống đang cầm lên, tuân theo tín hiệu, Oros nói – “Hãy để những cuốn sách mở ra.”
Sau đó Nguyên Cáo đeo mặt nạ bên phải phá vỡ niêm phong quyển sách của anh ta và bắt đầu đọc từng trang. Đó là một câu chuyện về tội lỗi của người đã khuất đầy đủ như thể nghi lễ này là ý thức khi còn sống và giọng nói của chính anh ta. Trong từng chi tiết lạnh lẽo và kinh khủng, nó kể về những việc làm xấu xa của anh ta thời thơ ấu, thời trẻ, và trong những năm tháng trưởng thành, và tập hợp lại thành bản ghi thực sự đen tối.
Tôi kinh ngạc lắng nghe, tự hỏi gián điệp hẳn phải được cài rất sâu bên người đàn ông này, trong từng hành động thường nhật của anh ta; suy nghĩ đó khiến tôi rùng mình, liệu chuyện đó có xảy ra với một trong chúng tôi không, khi có một gián điệp đồng hành cùng anh ta từ cái nôi đến nấm mồ; nhớ rằng toàn bộ số liệu này được các bản ghi chép lưu lại thận trọng hơn nhiều so với các mục sư của Hes.
Cuối cùng câu chuyện dài đã tới hồi kết. Đoạn cuối nó kể về việc nhân vật cao quí này bị giết bên bờ sông; kể rằng đó là âm mưu hại tính mạng chúng tôi không vì lý do gì; kể về cuộc săn đuổi chúng tôi tàn nhẫn cùng bầy chó tử thần, và kết cục. Sau đó Nguyên Cáo gập sách lại và ném xuống đất, rồi nói – “Bản ghi chép lại như vậy đó, thưa O Đức Mẹ. Hãy tổng hợp theo sự thông thái của người.”
Không nói gì, Hesea chỉ chiếc trống vào Người Biện Hộ, cũng đang phá vỡ niêm phong cuốn sách của anh ta và bắt đầu đọc.
Chuyện kể về tất cả những việc tốt mà người đã khuất làm được; ông nói bằng những lời lẽ cao quí về mọi hành động; về các kế hoạch anh ta làm mang lại lợi ích cho các chư hầu; về những cám dỗ bệnh hoạn anh ta phải chống lại; về tình yêu thực sự anh ta dành cho người phụ nữ là vợ mình; về những lời cầu nguyện anh ta đã ban tặng và các tặng phẩm anh ta đã gửi tới đền thờ của Hes.
Không đề cập đến tên, chuyện cũng kể vợ anh ta căm ghét anh ta thế nào, cô ấy và thầy phù thủy, kẻ đã nuôi dưỡng và giáo dục cô, là họ hàng và người chỉ dẫn cô, đã sắp đặt những phụ nữ khác như thế nào để dẫn dắt anh ta lạc đường, để cô ấy thoát khỏi anh ta. Họ cũng làm anh ta bị điên như thế nào với đồ uống chứa chất độc, làm anh ta mất đi khả năng phán xét, ác quỉ lộng hành trong tim, ảnh hưởng độc hại khiến anh co lại mất tự nhiên trước cô ấy, người anh ta vẫn khao khát có được tình yêu.
Chuyện cũng phát biểu, tình tiết nặng nề nhất trong mọi tội lỗi của anh ta đều được truyền cảm hứng từ người vợ này, người luôn tìm cách làm nhục thanh danh anh ta trong tai người dân, cô ấy đã lôi kéo anh ta đàn áp nhân dân, ghen tuông cay đắng điều khiển anh ta tới những hành vi độc ác, lần cuối cùng và tệ nhất khiến anh ta hèn hạ vi phạm luật hiếu khách, cố mang cái chết tới những vị khách vô tội, rồi lại thấy cái chết của chính mình trong tay họ.
Người Biện Hộ đọc xong, gấp quyển sách lại và ném nó xuống đất, nói – “Bản ghi chép lại như vậy đó, hỡi O Đức mẹ, hãy tổng hợp theo sự thông thái của người.”
Sau đó Khania, vẫn đứng lạnh lùng bình thản từ nãy, bước về phía trước nói chuyện với bác cô, Pháp Sư Simbri. Nhưng trước khi lời nói thốt ra từ môi Atene, Hesea đã giơ cây vương trượng và ngăn cản họ, rồi nói – “Ngày phán xét của ngươi chưa tới, chúng ta sẽ không làm gì ngươi. Khi nào ngươi nằm xuống nơi anh ta nằm và những cuốn sách về mọi hành vi của ngươi được đọc to lên cho người ngồi ở vị trí phán xử, lúc đó sẽ để ngươi biện hộ trả lời cho mọi chuyện.”
“Đành thế vậy,” Atene ngạo mạn trả lời và lui lại.
Giờ tới lượt linh mục bề trên Oros. “Thưa đức mẹ,” ông nói, “người đã nghe rồi đó. Hãy lập lại công bằng từ các bản ghi chép, hãy đánh giá sự thật, bằng sự thông thái của người, xin người hãy ra lệnh. Chúng tôi sẽ ném chân Rassen xuống vực lửa trước để hắn không bước lại trên con đường tới sự sống, hay ném đầu hắn xuống trước, để báo rằng hắn thực sự đã chết?”
Sau đó tất cả chờ đợi trong trông mong tĩnh lặng, Nữ Tu Sĩ vĩ đại đưa ra phán quyết của mình.
“Ta đã nghe, ta đã điều chỉnh cho công bằng, ta đã đánh giá, nhưng ta không thể phán xử, ta tuyên bố không có quyền năng như vậy. Hãy để Linh Hồn đưa anh ta đi, anh ta sẽ được quay trở lại, trải qua phán xét trên linh hồn chính mình. Người đã khuất này phạm tội rất lớn, nhưng anh ta phản kháng lại việc phạm tội còn lớn hơn nhiều. Việc phản kháng không thể tính vào trách nhiệm trước những hành vi điên rồ. Hãy ném anh ta xuống mồ, ném chân xuống trước để thanh danh anh ta có thể bị xóa trắng trong tai những ai chưa ra đời, do đó anh ta có thể sẽ trở lại vào thời điểm qui định. Phán quyết đã xong.”
Giờ Nguyên Cáo nâng quyển sách chứa các tội lỗi của anh ta từ trên đất lên, tiến lên, ném nó xuống vực để báo rằng nó đã được xóa hết. Sau đó anh ta quay lại và biến mất khỏi căn phòng; trong khi đó Người Biện Hộ lấy quyển sách của mình, đưa nó cho linh mục Oros trông giữ, nó sẽ được bảo quản trong kho lưu trữ của ngôi đền vĩnh viễn. Làm xong, các tu sĩ bắt đầu tụng kinh tang lễ và đọc lời khẩn cầu long trọng cho vị Lãnh Chúa vĩ đại của địa ngục, để ngài thu nhận linh hồn này và tha bổng nó ở đó như ở nơi này, nó đã được Hesea, mục sư của ngài, tha bổng.
Trước khi lễ mai táng kết thúc, vài tu sĩ bước chậm rãi lên trước, nâng quan tài và đưa nó đến bờ vực, theo ra hiệu của Đức Mẹ, ném nó xuống hồ lửa bên dưới sao cho chân rơi xuống trước, tất cả quan sát nó chạm vào ngọn lửa như thế nào. Vì điều này mang theo điềm báo, nếu thi thể quay lộn lại khi rơi xuống, đó là dấu hiệu phán xét về người chết bị từ chối trong Cung Điện Bất Tử. Nó không lộn lại; nó lao thẳng xuống như quả dọi và nhảy thẳng vào đống lửa hàng trăm feet bên dưới, rồi biến mất vĩnh viễn. Thực sự không còn gì ly kì nữa, sau đó chúng tôi phát hiện ra chân đã nặng trĩu.
Thực tế nghi lễ long trọng này là một công thức, chính xác đến từng lời phán xử và kết tội, đều đã được thực hành ở đây từ thời đại nào không rõ, trên các thi thể nam nữ tu sĩ của Ngọn Núi, và một vài nhân vật vĩ đại của Đồng Bằng. Ở Ai Cập cổ đại cũng như vậy, không nghi ngờ, nghi lễ phán xử người chết này đã xuất phát từ đó, và vẫn tiếp tục tồn tại trên mảnh đất của Hes, vì không nữ tu sĩ nào dám mạo hiểm lên án linh hồn người đã khuất.
Lợi ích thực sự của phong tục này, bỏ xa vẻ ngoài long trọng và khủng khiếp của nó, tập trung vào kiến thức biện hộ thể hiện bởi Nguyên Cáo và Người Biện Hộ đeo mặt nạ với các hành vi khi còn sống của người quá cố. Nó cho thấy, dù Học Viện Hes tác động không sai biệt lên hành động và chính trị của cư dân Đồng Bằng mà họ từng cai trị, cơ hội tái chinh phạt vẫn đang âm thầm được mong đợi, họ vẫn tuyên bố cai trị về mặt tâm linh, nhưng điều này chỉ là giả định, không phải sự thật. Hơn nữa, có một hệ thống gián điệp rất mạnh mẽ và kỳ lạ đến khó tin, không trợ giúp cho thói quen sinh hoạt thường xuyên, có thể nhìn thấu những thứ vô hình.
Dịch vụ này, nếu tôi có thể gọi nó như vậy, đã xong; người chết theo bản ghi tội lỗi đã đi vào biển lửa khủng khiếp, giờ đã thành cát bụi. Nhưng nếu quyển sách về anh ta đã đóng lại, quyển của chúng tôi vẫn còn mở ra và đang ở chương ly kỳ nhất. Chúng tôi biết điều đó, tất cả chúng tôi, đều chờ đợi, dây thần kinh hồi hộp trông mong.
Hesea ngồi trầm ngâm trên ngai đá. Bà ấy cũng biết giờ khắc đã tới. Hiện tại bà ấy ra hiệu, cùng cây vương trượng, nói một hai từ, giải tán đám tu sĩ, họ nhanh chóng rời đi và không còn thấy ai nữa. Nhưng hai người trong số họ vẫn ở lại, Oros và nữ tu sĩ đứng đầu tên là Papave, một phụ nữ trẻ có gương mặt cao quí.
“Nghe đây, những người đầy tớ của ta,” bà nói. “Những điều lớn lao sắp xảy ra, phải làm điều đó cho các vị khách đằng kia, ta đã chờ đợi rất nhiều năm như các ngươi đã biết. Ta cũng không thể nói ra chuyện này, vì với ta, quyền năng được ban ra tự do, nhưng tiên đoán về tương lai bị từ chối. Có lẽ nó sẽ diễn ra tốt đẹp, do đó, chiếc ghế này sẽ sớm trống rỗng và thân thể này sẽ thành thức ăn cho đống lửa vĩnh cửu. Không, đừng đau buồn, đừng đau buồn, vì ta sẽ không chết, và nếu vậy, linh hồn sẽ lại quay lại.”
“Nghe này, Papave. Ngươi là người cùng huyết thống, ta đã mở tất cả cánh cửa thông thái cho riêng mình ngươi. Nếu ta ra đi bây giờ hay bất kỳ lúc nào, ngươi hãy giữ lấy quyền năng cổ xưa, ngồi vào vị trí của ta, làm mọi việc như ta đã chỉ dẫn cho ngươi, từ ánh sáng Ngọn Núi này có thể soi rọi khắp thế gian. Ta đã truyền cho ngươi nhiều hơn rồi, và cả ngươi nữa, linh mục Oros, nếu ta bị triệu hồi, ngươi hãy tiếp đãi những người khách lạ này thật chu đáo cho tới khi có thể đưa họ thoát khỏi vùng đất này, theo con đường họ đã tới hoặc theo dải đồi núi và sa mạc phía bắc. Nếu Khania Atene cố giam giữ họ trái với ý nguyện của họ, hãy kêu gọi các bộ lạc chống lại nàng ta với danh nghĩa Hesea; phế truất nàng khỏi ngôi vị, chinh phạt mảnh đất của nàng và trông giữ nó. Hãy nghe lời và tuân theo.”
“Thưa Đức Mẹ, chúng ta đã nghe thấy và sẽ tuân theo,” Oros và Papave đồng thanh đáp.
Bà ấy vẫy tay ra hiệu chuyện này đã kết thúc; sau đó suy nghĩ một lúc lâu rồi nói chuyện tiếp, hướng về phía Khania.
“Atene, đêm qua ngươi đã hỏi ta một câu hỏi – tại sao ngươi yêu người đàn ông này,” và bà ấy chỉ vào Leo. “Câu trả lời rất đơn giản, vì anh ta không phải là người có thể khuấy động đam mê trong lòng một phụ nữ như ngươi sao? Nhưng ngươi cũng đã nói, trái tim ngươi và trí tuệ thông thái của thầy phù thủy kia, bác ngươi, đã nói cho ngươi biết từ lần đầu tiên linh hồn ngươi bước vào sự sống, ngươi đã yêu anh ta, và nài nỉ ta, do có Quyền Năng, ta phải có trách nhiệm vén tấm màn trong quá khứ, để sự thật được phơi bày.”
“Người phụ nữ kia, giờ khắc đó đã tới, ta vâng lời hiệu triệu của ngươi – không phải vì ngươi đã ra lệnh, mà vì đó là ý nguyện của ta. Ban đầu ta không thể kể gì cho ngươi, kẻ vẫn chỉ là con người, không phải nữ thần. Ta không biết tại sao ba chúng ta bị buộc vào chung cuộn dây định mệnh này; ta không biết số phận đưa chúng ta đến đâu trên cái thang hàng nghìn kiếp, buồn bã và đau đớn trèo lên nấc thang sự kiện vô tận, nếu ta biết, ta có lẽ cũng không nói. Vì thế, ta sẽ kể lại câu chuyện mà hồi ức của chính ta được soi sáng.”
Hesea dừng lại, chúng tôi thấy thân hình bà lắc lư như thể đang ở dưới những áp lực tinh thần đáng sợ bên trong. “Giờ hãy nhìn phía sau các ngươi,” bà kêu lên, đưa cánh tay rộng ra.
Chúng tôi quay lại, thoạt tiên không thấy gì ngoài tấm rèm lửa lớn dựng lên từ miệng núi lửa, nơi đó như tôi đã kể, cái đỉnh hơi cong do gió thổi qua. Nhưng hiện giờ chúng tôi thấy, dưới sâu của tấm che mạng màu đỏ ấy, ngọn đèn lửa khủng khiếp của Mẹ Tự Nhiên, một bức tranh bắt đầu hình thành như thể tạo từ các mảnh tinh thể ma thuật của nhà tiên tri.
Nhìn kìa! Một đền thờ nằm giữa bãi cát, được con sông rộng có cây cọ bao quanh gột sạch, dọc theo điện thờ trên cột tháp, từng đoàn tu sĩ rước qua lại với những biểu ngữ phô trương. Điện thờ trống không; tôi có thể nhìn thấy bóng đôi cánh chim ưng chạy trốn trên sàn đầy ánh mặt trời của nó. Một người đàn ông khoác áo choàng trắng của linh mục, cạo trọc đầu, đi chân trần, bước vào cửa tháp phía nam và chậm rãi hướng tới đền thờ sơn đá granite, nơi đó hình ảnh một phụ nữ đang ngồi, đội vương miện kép của Ai Cập, bao quanh là đài sen, trong tay bà ấy cầm chiếc trống thiêng. Giờ, như thể anh ta nghe thấy âm thanh gì đó, anh ta dừng lại và nhìn về phía chúng tôi, từ bầu trời bên trên chúng tôi, gương mặt đó là gương mặt Leo Vincey thời trẻ, cũng là gương mặt Kallikrates mà chúng tôi đã nhìn thấy xác ông ấy ở Khu Hang Động Kôr!
“Nhìn kìa! Nhìn kìa!” Leo thở hổn hển, giữ lấy cánh tay tôi; nhưng tôi chỉ gật đầu đáp lại.
Người đàn ông lại bước tiếp, quì xuống trước nữ thần trong điện thờ, ôm chân bà và cầu nguyện bà ấy. Giờ cánh cửa đã cuộn mở, một đoàn rước tiến vào, dẫn đầu là một phụ nữ che mạng, trông rất cao quí, mang theo lễ vật, cô ấy đặt chúng lên bàn trước điện thờ, uốn gối trước hình nộm của nữ thần. Lễ dâng đồ cúng của cô đã xong, cô quay ra đi về, khi cô đi qua, chạm tay vào tay vị linh mục đang quan sát, người đó do dự rồi đi theo cô.
Khi đoàn người của cô đã đi qua cổng, cô ấy một mình nán lại trong bóng tối ngôi tháp, thì thầm với vị linh mục và chỉ vào con sông cùng mảnh đất phía nam xa xa. Anh ta bị phân tâm; anh ta tranh luận với cô ấy, cho tới khi, sau cái liếc nhanh quanh quẩn, cô vén mạng che mặt, uốn người về phía anh ta và – đôi môi họ gặp nhau.
Thời gian trôi qua, gương mặt cô ấy quay lại phía chúng tôi, và than ôi! Đó là gương mặt Atene, giữa mái tóc sẫm màu của cô, hào quang tỏa ra từ đồ trang sức vàng nạm ngọc, biểu tượng cho địa vị hoàng tộc của cô ấy. Cô nhìn vị linh mục đầu trọc; cười như thể chiến thắng; cô chỉ vào mặt trời đang hướng dần sang tây, và chỉ lên con sông, rồi đi mất.
Đúng, tiếng cười từ rất xa xưa đó đang được Atene lặp lại bên cạnh chúng tôi, vì cô cũng cười đắc thắng và than khóc với vị Pháp Sư già – “Những lời tiên đoán thực sự là trái tim ta và chàng! Nhìn kìa, ta đã có chàng trong quá khứ.”
Sau đó, giọng nói lạnh lẽo như băng trong lửa của Hesea rơi xuống.
“Im lặng đi, người phụ nữ kia, hãy nhìn xem ngươi đã để mất anh ta trong quá khứ như thế nào.”
Ôi! Cảnh đã thay đổi, trên điện thờ, một bóng hình yêu kiều đang nằm ngủ. Nàng đang mơ; nàng sợ hãi; cúi xuống bên nàng và thì thầm vào tai nàng là một thân ảnh mờ nhạt khoác biểu tượng của nữ thần trong điện thờ, nhưng giờ đội trên đầu chiếc mũ kền kền. Người phụ nữ tỉnh dậy từ trong mơ và nhìn quanh, ôi! Gương mặt đó là gương mặt của Ayesha, như lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy nàng buông mạng che ở Khu Hang Động Kôr.
Một tiếng thở dài phát ra từ trong chúng tôi; chúng tôi không thể nói, ai lại không khiếp sợ trước vẻ đẹp của nàng.
Nàng lại ngủ, thân ảnh kinh khủng lại cúi mình thì thầm bên nàng. Nó chỉ trỏ, khoảng cách mở ra. Than ôi! Trên biển đầy bão tố, một con thuyền trên đó có hai người ôm lấy nhau tay trong tay, vị linh mục và người phụ nữ hoàng tộc, trong khi đó phía trên họ là Thần Báo Thù, cổ thô ráp và bị trói lại rách rưới, một con kền kền bay lơ lửng theo sau, con kền kền đó giống như nữ thần đã đội trên đầu làm mũ.
Bức tranh đó mờ dần khi khung hình bị thiêu cháy, bỏ lại cột lửa to lớn trống rỗng như bầu trời ban trưa. Rồi đến những thân ảnh khác. Đầu tiên là một hang động lớn, trơn nhẵn, trải cát, hang này chúng tôi nhớ rất rõ. Rồi nằm trên cát, giờ không cạo trọc mà để tóc vàng, xác vị linh mục đang mở mắt chằm chằm nhìn lên trên, da anh ta trắng toát nhuốm máu, hai phụ nữ đứng trước anh ta. Một người giữ cây lao trong tay và trần truồng, ngoại trừ mái tóc tuôn chảy của nàng, và vẻ xinh đẹp, xinh đẹp ngoài sức tưởng tượng. Còn người kia, mặc áo choàng tối màu, đập tay vào không khí, trừng mắt như thể kêu gọi lời nguyền rủa từ Thượng Đế rơi lên đầu đối thủ. Hai người phụ nữ đó là cô gái ngủ bên tai còn nghe chiếc bóng thì thầm, và người Ai Cập mang dòng máu hoàng tộc đã hôn người yêu mình dưới cổng tháp.
Các hình ảnh chậm rãi mờ dần; như thể lửa liếm ăn hết chúng, vì thoạt tiên chúng trở nên mỏng dần rồi trắng xóa như tro; sau đó biến mất. Hesea, người vẫn nhìn phía trước, đang lún sâu trên ghế, như thể mệt mỏi với trò ma thuật của mình.
Vì các hình ảnh lộn xộn lướt qua lại rất nhanh trong chốc lát và dọc theo tấm gương lửa mênh mông, có lẽ phản chiếu từ một trí tuệ đầy ký ức của hơn hai nghìn năm, quả thật sẽ kiệt sức để phân định và sàng lọc ra.
Các khung cảnh hoang dã, rất nhiều người, khu hang động hùng vĩ, trong những gương mặt đó, có cả mặt chúng tôi, trông méo mó và khổng lồ, rồi nhỏ dần trong chốc lát và lại như ban đầu; những tưởng tượng rõ rệt về Những Dáng Hình nổi lên như thần thánh; về Những Thứ quái dị và không nhân tính; các đội quân diễu hành, chiến trường bao la, các xác chết lăn lộn trong máu, bay lơ lửng phía trên chúng là các linh hồn của những người bị giết hại.
Những hình ảnh biến mất khi mọi người chết hết, và lửa lại xóa trắng.
Rồi Hesea nói trong âm điệu thoạt tiên rất mơ hồ, nhưng dần dần cường độ mạnh hơn.
“Câu hỏi của ngươi đã được trả lời rồi, phải không O Atene?”
“Ta đã thấy những cảnh kỳ lạ, thưa Đức Mẹ, những hình vẽ hùng vĩ xứng đáng với phép thuật của người, nhưng làm sao ta biết chúng chỉ là hơi nước chụp lấy não của người đặt lên ngọn lửa kia để lừa dối và chế nhạo chúng ta chứ?”5
5 Được coi là ánh sáng của những mạc khải sau này, do chính Ayesha ban cho chúng tôi, tôi khá tin rằng phán đoán sắc sảo của Atene là chính xác, và những hình ảnh đáng sợ kia, dù dựa trên những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ, vẫn chỉ là “hơi” trên miệng núi lửa; ảo cảnh sinh ra trong đầu óc chúng ta sẽ “lừa dối và chế nhạo chúng ta”. – L.H.H.
“Nghe đây,” Hesea nói, bằng giọng mệt mỏi, “dịch bản văn tự và đừng làm phiền ta bằng những hoài nghi của ngươi. Nhiều năm trước đây, ngay sau khi ta vừa bắt đầu sống kiếp số dài cuối cùng này của mình, Isis, nữ thần vĩ đại của Ai Cập, sở hữu Cung Điện Thần Thánh tại Behbit, gần sông Nile. Giờ nó chỉ là một đống đổ nát, và Isis đã rời khỏi Ai Cập, dù vẫn ở dưới Quyền Năng tạo ra nó và bà ấy: bà ấy cai trị thế giới, vì bà ấy chính là Mẹ Tự Nhiên. Trong điện thờ đó, một người đàn ông, một người Hy Lạp, tên là Kallikrates, là linh mục đứng đầu, đã lựa chọn phụng sự dưới đặc ân của nữ thần, tuyên thệ vĩnh viễn và duy nhất phụng sự bà ấy, lời thề khủng khiếp đó có lẽ không thể bị phá vỡ mà không chịu trừng phạt muôn đời.”
“Trong ngọn lửa, ngươi đã thấy vị linh mục đó, anh ta đang đứng ở đây bên ngươi, được tái sinh, để hoàn thành sứ mệnh của anh ta và của chúng ta.”
“Nơi đó cũng có con gái của gia tộc Pharaoh, Amenartas, rơi vào tình yêu với Kallikrates này, và trói buộc anh ta trong phép thuật của mình – vì lúc đó cũng như bây giờ, cô ta đều đang tập luyện các tà thuật của phù thủy – khiến anh ta phá vỡ lời thề và chạy trốn cùng cô ấy, như ngươi đã thấy được viết trong ngọn lửa. Ngươi, Atene, là Amenartas đó.”
“Cuối cùng, nơi đó cũng có một người Ả Rập, tên là Ayesha, một phụ nữ xinh đẹp và thông thái, do sự trống trải trong lòng, nỗi buồn vì quá nhiều tri thức, đã tìm cách lánh nạn và phụng sự Đức Mẹ của thế gian, vì cho rằng ở đó sẽ đạt được sự thông thái thực sự đã từng bỏ chạy khỏi nàng. Ayesha này, nhưng các ngươi cũng đã thấy, nữ thần đã tới thăm trong giấc mơ, ra lệnh cho nàng đuổi theo những kẻ vô đạo kia, thực hiện việc trả thù họ của Đấng Tối Cao, và hứa hẹn với nàng phần thưởng nếu thành công là vượt qua cái chết trên trần thế và có được nhan sắc lộng lẫy chưa bao giờ nhìn thấy ở phụ nữ.”
“Nàng đã đuổi theo rất xa; nàng đợi họ ở nơi họ đang lang thang. Được chỉ dẫn bởi Noot, một người thông thái, người được chỉ định từ đầu để phụng sự nàng, và một người nữa – ngươi, O Holly, chính là người này – nàng đã tìm ra tinh chất và tắm trong đó để sống lâu hơn bao Thế Hệ, Tín Ngưỡng, và Đế Chế, và tự nhủ – ‘Ta sẽ giết những kẻ tội lỗi kia. Giờ ta sẽ giết chúng, như được ra lệnh.’”
“Nhưng Ayesha đã không giết, và giờ tội lỗi của họ trở thành tội lỗi của nàng, vì nàng chưa bao giờ yêu, nhưng đã kháo khát người đàn ông này. Nàng dẫn họ tới Cung Điện Sự Sống, để ở đó khoác lên anh ta và chính nàng sự bất tử, còn cho người phụ nữ kia chết. Nhưng định mệnh không như thế, vì nữ thần đã trừng phạt. Sự sống là của Ayesha như đã hứa hẹn, nhưng trong giờ khắc đầu tiên, mù quáng vì tức giận ghen tuông khi anh ta co rúm người lui lại chỗ người phụ nữ đã chết bên cạnh trước vẻ đẹp lộng lẫy lộ ra của nàng, Ayesha đã đưa anh ta tới cái chết, than ôi! Than ôi! Còn bản thân mình bất tử.”
“Như vậy nữ thần giận dữ đã gây ra đau đớn do hành vi không giữ lời của nàng, cho vị linh mục nhanh chóng tới địa ngục, còn nữ tu sĩ Ayesha hối hận và đau khổ dài lâu, với nàng Amenartas mang dòng máu hoàng tộc, ghen tuông nhiều cay đắng hơn cả sống chết, và số phận của nỗ lực không ngừng nghỉ giành lại tình yêu nàng dám đánh cắp bất chấp ý Trời đó, là sẽ lại mất đi lần nữa.”
“Than ôi! Giờ bao thời đại đã đi qua, vào thời điểm đã định, nàng Ayesha bất tử đó trong lúc chờ đợi anh ta tái sinh, suốt từ thế kỷ này sang thế kỷ khác tưởng niệm việc mất đi anh ta, cay đắng đền tội cho tội lỗi của mình, rồi người đàn ông đó, niềm đam mê của nàng, đã trở lại. Sau đó, trong lúc mọi thứ đều diễn ra tốt đẹp với nàng và anh ta, nữ thần lại một lần nữa trừng phạt, cướp đi phần thưởng đã trao cho nàng. Trước mắt người nàng yêu, chìm sâu trong xấu hổ và đau khổ tột cùng, người đẹp trở thành xấu xí, người bất tử lại dường như phải chết đi.”
“Nhưng, hỡi O Kallikrates, ta nói cho ngươi biết, nàng đã không chết. Ayesha không phải đã thề với ngươi trong Khu Hang Động Kôr kia rằng nàng sẽ trở lại đó sao? Ngay cả trong giờ phút khủng khiếp đó, sự thoải mái này vẫn hôn lên linh hồn nàng. Sau đó, Leo Vincey, cũng chính là Kallikrates, linh hồn của nàng ấy không phải đã dẫn đường cho ngươi trong giấc ngủ và đứng cùng ngươi trên đỉnh núi này, nơi có ánh sáng đèn hiệu chỉ lối cho ngươi trở về bên nàng ư? Và không phải ngươi đã tìm kiếm bao năm qua, mà không hề biết nàng cũng đồng hành với ngươi trên mỗi bước đi, bảo vệ ngươi trước mọi hiểm nguy, tới khi giờ khắc cho phép đến, ngươi sẽ chân chính trở lại bên nàng ư?”
Bà ấy dừng lại, nhìn về phía Leo, như thể đợi cậu đáp lại.
“Phần đầu của câu chuyện, ngoại trừ những gì bản văn tự trên mảnh gốm cổ nói đến, tôi không biết gì hết, thưa quí bà,” cậu nói; “phần còn lại, tôi, đúng hơn là chúng ta, đều biết đó là sự thật. Nhưng tôi muốn hỏi một câu, và cầu xin lòng thiện nguyện của người hãy trả lời nhanh và ngắn gọn. Người đã nói vào giờ khắc cho phép, tôi sẽ trở lại bên Ayesha. Thế thì Ayesha đang ở đâu? Người là Ayesha ư? Nếu vậy, tại sao giọng nói của người lại thay đổi? Tại sao người không giống trước kia nhiều lắm? Ôi! Nhân danh bất kì thần thánh nào người đang tôn thờ, hãy nói cho tôi người là Ayesha chứ?”
“Ta là Ayesha” bà ấy long trọng trả lời, “Ayesha thực sự mà ngươi đã tự cam kết ở bên người đó vĩnh viễn.”
“Bà ta nói dối, bà ta nói dối,” Atene phá vỡ bầu không khí. “Ta nói cho chàng biết, chồng của ta – vì chính miệng bà ta tuyên bố chàng là của ta – người phụ nữ kia nói rằng bà ta đã chia tay với chàng lúc còn trẻ đẹp, không quá hai mươi năm trước, đó không phải vị nữ tu sĩ già nua này, ít ra một thế kỷ qua, bà ta vẫn cai trị trong các điện thờ của Hes. Hãy để bà ta chối bỏ điều đó nếu bà ta có thể làm được.”
“Oros,” Đức Mẹ nói, “ngươi hãy kể câu chuyện về cái chết của nữ tu sĩ kia, người mà Khania đang nói đến.”
Linh mục cúi đầu, bằng giọng bình tĩnh thường lệ, như thể ông đang kể lại sự kiện thường nhật nào đó, nói một cách máy móc, theo cách không đáng tin với tôi – “Mười tám năm trước, vào đêm thứ tư, tháng đầu tiên của mùa đông năm 2333 tính từ thời điểm sáng lập nghi thức thờ phụng Hes trên Ngọn Núi này, nữ tu sĩ mà Khania Atene nói tới, đã chết vì tuổi già trước sự chứng kiến của ta sau 108 năm cầm quyền. Ba giờ sau, chúng ta nâng bà khỏi ngai vàng nơi bà đã chết, chuẩn bị mai táng xác bà trong ngọn lửa, theo phong tục cổ xưa. Than ôi! Một điều kì điệu, bà ấy đã sống lại, chính là bà ấy, nhưng rất khác.”
“Cho rằng việc này là một trò ma thuật xấu xa, các Nam Tu Sĩ và Nữ Tu Sĩ của Học Viện đã chối bỏ bà ấy, buộc bà rời khỏi ngai vàng. Lúc đó Ngọn Núi bùng lên sáng rực và giáng sấm sét xuống, ánh sáng từ những cây cột lửa tắt ngúm, vẻ khiếp sợ vô hạn rơi xuống linh hồn con người. Sau đó từ bóng tối sâu thẳm trên bàn thờ, nơi đặt bức tượng Đức Mẹ của Con Người, giọng nói của nữ thần sống động vang ra – ‘Hãy chấp nhận nàng, người ta lập ra để cai trị các ngươi, như thế các phán xét và mục đích của ta mới có thể được hoàn thành.’”
“Giọng Nói ngừng lại, các bó đuốc bùng cháy trở lại, và chúng ta quì gối trước Hesea mới, gọi bà là Đức Mẹ. Đó là câu chuyện hàng trăm người có thể làm chứng.”
“Ngươi nghe thấy chưa, Atene,” Hesea nói. “Ngươi vẫn còn nghi ngờ?”
“Đúng,” Khania trả lời, “vì ta cho rằng Oros cũng nói dối, hoặc nếu không, hẳn là ông ta đang mơ, không chừng giọng nói ông ta nghe thấy chính là của người. Giờ nếu người là người phụ nữ bất tử này, Ayesha, hãy chứng minh điều đó với hai người đàn ông đã biết người trong quá khứ. Hãy tháo lớp vải quấn bảo vệ nhan sắc đáng ghen tị của người ra. Hãy để thân thể thần thánh, vẻ đẹp không sánh nổi của người tỏa sáng làm lóa mắt chúng ta. Chắc chắn người yêu của người sẽ không quên được vẻ quyến rũ đến nhường ấy; chắc chắn anh ta sẽ nhận ra người, quì gối và nói ‘Đây là Người Phụ Nữ Bất Tử của ta, không còn phụ nữ nào khác.’”
“Sau đó, không cần phải chờ đến sau đó, ta sẽ tin người chính là những gì người đã tuyên bố, một linh hồn xấu xa, mua sự sống bất tử bằng việc giết người và sử dụng nhan sắc ma quỉ của mình để làm say mê linh hồn con người.”
Giờ Hesea trên ngai vàng dường như rất bối rối, vì bà ấy lắc lư người qua lại, và siết chặt bàn tay quấn vải trắng.
“Kallikrates,” bà ấy nói trong tiếng rên rỉ, “đó là ý nguyện của ngươi chứ? Vì nếu thế, ta phải tuân theo. Nhưng ta xin ngươi đừng muốn làm thế, vì thời khắc chưa tới; lời hứa không thể phá vỡ vẫn chưa được thực hiện. Ta đã phần nào thay đổi, Kallikrates, vì ta đã hôn lên trán và gọi tên ngươi bằng tên ta, ở Khu Hang Động Kôr.”
Leo nhìn quanh đầy tuyệt vọng, rồi mắt cậu rơi trên khuôn mặt mang vẻ nhạo báng của Atene giờ đang than khóc – “Hãy ra lệnh để bà ta tháo che mạng đi chàng ơi. Ta thề với chàng, ta sẽ không ghen tị nữa.”
Trước vẻ chế giễu đó, lòng cậu bùng lên ngọn lửa.
“Phải,” cậu nói, “tôi sẽ ra lệnh cho bà ấy hãy tháo che mạng, tôi sẽ biết dù tốt hay xấu, chứ không phải chết vì hồi hộp thế này. Dù thay đổi thế nào, nếu bà ấy chính là Ayesha, tôi sẽ biết ngay, nếu bà ấy là Ayesha, tôi sẽ yêu bà ấy.”
“Những lời thật hùng hồn, Kallikrates,” Hesea trả lời; “nhưng từ tận đáy lòng mình, ta cảm ơn ngươi vì những lời đó: những lời ngọt ngào đầy tin tưởng và trung thành với người không biết gì. Giờ hãy đón nhận sự thật, vì ta giữ lại cũng vô ích với ngươi. Khi ta lộ diện, ta ra lệnh ngươi phải lựa chọn lần cuối trên đời giữa người phụ nữ kia, đối thủ ngay từ ban đầu của ta, và Ayesha này, người mà ngươi đã nguyện thề. Ngươi có thể từ chối ta nếu muốn, ngươi sẽ không bị làm sao hết, nhưng xin hãy ban phước lành, vì con người luôn tính toán giữa quyền lực, của cải và tình yêu. Chỉ ngươi mới xé được hồi ức của ta khỏi trái tim ngươi, vì thế ta sẽ để ngươi theo đuổi định mệnh một mình, tới khi mục đích những hành động và nỗi đau khổ của ngươi đã sáng tỏ.”
“Chú ý. Không thử thách rõ ràng nào lại lừa gạt ngươi. Chú ý. Ta không hứa hẹn gì với ngươi ngoại trừ tình yêu mà phụ nữ chưa bao giờ cho đàn ông được, tình yêu mà không chừng – ta không biết – hẳn phải luôn không được thỏa mãn trên trần thế.”
Rồi bà ấy quay sang tôi và nói:
“Ôi! Ngươi, Holly, người bạn thực sự của ta, người bảo vệ từ xa xưa, luôn kề bên chàng - người ta yêu nhất, tinh thần trong sáng và tinh khiết của ngươi được ban cùng trí tuệ thông thái đã bị chúng ta – những đứa trẻ được vòng tay ngươi bảo vệ - từ chối. Ngươi hãy khuyên chàng, Holly của ta, những lời khuyên đã được ban cho ngươi, và ta sẽ tuân theo lời ngươi và chàng, dù bất kỳ điều gì xảy ra, linh hồn ta sẽ luôn ban phước cho ngươi. Phải, nếu chàng từ bỏ ta, thì trên Vùng Đất bên ngoài nơi này, trên Vì Sao được chỉ định, tất cả đam mê trần thế sẽ phai nhạt, chúng ta sẽ vĩnh viễn cùng nhau sống trong tình bạn vinh quang, chỉ ngươi và ta.”
“Vì ngươi đã không từ chối; khối thép của ngươi được tôi luyện trong lò của sự thật thuần túy và quyền năng, nên sẽ không mất bình tĩnh trước những cám dỗ nhỏ bé và trở thành xiềng xích rỉ sét trói buộc ngươi vào lòng người phụ nữ khác – cho đến khi tai ương xảy đến với cô ta và ngươi.”
“Ayesha, tôi xin cảm ơn vì những lời của người,” Tôi trả lời đơn giản, “Vì những lời đó và lời hứa của người, tôi, người bạn khốn khổ của người – vì tôi chưa bao giờ nghĩ gì hơn thế - sẽ trả giá gấp nghìn lần bằng đau đớn. Tôi cũng nói thêm, về phần mình, tôi biết người là Bà Ấy mà chúng tôi đã đánh mất, vì dù đôi môi nói gì đi nữa, thì những suy nghĩ và lời nói kia là của Ayesha và chỉ của bà ấy mà thôi.”
Tôi nói như vậy, không biết phải nói thêm gì nữa, vì tôi rất vui vẻ, bình tĩnh và hài lòng khôn tả cứ thế yếu ớt phá vỡ trái tim tôi. Vì giờ tôi biết mình cũng là người thân với Ayesha, giống như tôi luôn luôn là người thân với Leo; tình cảm gần gũi nhất của bạn bè, nhờ đó bà ấy sẽ không bao giờ bị chia lìa. Tôi còn mong gì hơn nữa chứ?
Chúng tôi bình tĩnh trở lại, nói chuyện cùng nhau, trong khi mọi người im lặng nhìn chúng tôi. Chúng tôi nói gì tôi không còn nhớ rõ nữa, nhưng cuối cùng, theo như Hesea bảo, Leo đã yêu cầu tôi phán xử và lựa chọn. Một mệnh lệnh rõ ràng đi vào đầu tôi, trong chính ý thức của tôi hay nơi nào khác, ai biết được? Đó là mệnh lệnh bảo tôi ra lệnh cho bà ấy lộ diện, để số phận tuyên bố mục đích của nó.
“Quyết định đi,” Leo nói, “Cháu không thể chịu đựng hơn nữa. Như người phụ nữ kia, dù bà ấy là ai đi nữa, dù chuyện gì xảy ra đi nữa, cháu sẽ không kết tội bác, bác Horace.”
“Tốt” tôi đáp, “bác đã quyết định,” và bước lên phía trước, tôi nói: “Chúng tôi đã tranh luận, thưa Hes, và đó là ý nguyện của chúng tôi, những người muốn biết sự thật và phần còn lại, người nên tháo mạng che mặt và lộ diện trước chúng tôi, ở đây và bây giờ.”
“Ta đã nghe thấy và sẽ làm theo,” Nữ Tu Sĩ trả lời, giọng nói như người chết, “chỉ có điều, ta tha thiết mong hai ngươi, thật đáng thương cho ta, hãy tha thứ cho ta, đừng chế nhạo nữa; đừng bỏ thêm những hòn than căm ghét và khinh miệt của các ngươi vào đống lửa của một linh hồn dưới địa ngục, vì ta có là bất kì thứ gì, cũng đều vì lợi ích của ngươi, Kallikrates. Nhưng ta cũng khát khao tri thức; vì dù ta thông thái, dù ta nắm nhiều quyền năng, vẫn còn một điều ta cần phải học – làm sao xứng đáng để yêu một người, nếu thực sự chỉ sống trong kinh hoàng nơi nấm mồ?”
Rồi chậm rãi đứng dậy, Hesea bước đi, đúng hơn là lảo đảo bước tới không gian thông thoáng không mái che phía trước căn phòng đá, đứng gần bờ vực rực lửa bên dưới.
“Tới đây, Papave, tháo những tấm mạng che này ra,” bà ấy kêu lên bằng giọng the thé, mỏng manh.
Papave tiến tới, vẻ kinh ngạc hiện trên gương mặt xinh đẹp của cô ấy khi bắt đầu nhiệm vụ. Cô ấy không phải là một phụ nữ cao lớn, nhưng khi cô cúi người trước bà ấy, tôi thấy cô dường như còn cao hơn nữ chủ nhân của mình, Hesea.
Những mạng che bên ngoài đã rơi xuống. Giờ trước mặt chúng tôi, thân ảnh như xác ướp đứng đó, tầm vóc không đủ lớn, chính là sinh vật kỳ lạ đã gặp chúng tôi ở Cung Điện Xương Người. Như vậy có lẽ người dẫn đường thần bí của chúng tôi và vị nữ tu sĩ bề trên Hes là cùng một người.
Nhìn kìa! Từng lớp từng lớp vải bao bọc lấy bà ấy. Bao giờ mới kết thúc? Thân hình đó nhỏ bé đến mức nào? Giờ bà ấy đã rất thấp, thấp một cách không bình thường đối với một phụ nữ trưởng thành, ôi! Tôi phát ốm mất thôi. Những dải băng cuối cùng tự rơi ra như vỏ bào trên cây gỗ; hai bàn tay nhăn nheo xuất hiện, nếu chúng có thể gọi là bàn tay. Rồi đến chân – tôi từng thấy xác ướp một công chúa Ai Cập cũng như vậy, và giờ trước cảnh không tưởng này, tôi lại nhớ tới chiếc quan tài nàng công chúa đó được đặt tên là “Người Đẹp”.
Mọi thứ giờ đã biến mất, ngoại trừ một sự thay đổi và tấm mạng che cuối cùng bên trong ở trên đầu. Hes vẫy tay với nữ tu sĩ Papave, đang sắp ngã xuống đất ngất xỉu, cô ấy nằm đó, lấy tay che mắt. Rồi thốt lên gì đó như tiếng thét, bà ấy nắm chặt tấm mạng trong những ngón tay mỏng manh của mình, xé nó đi, và bằng một cử chỉ tuyệt vọng, quay lại đối mặt với chúng tôi.
Ôi! Bà ấy là – không, tôi sẽ không miêu tả bà ấy. Tôi đã từng biết bà ấy, vì tôi đã nhìn thấy bà ấy lần cuối trước Ngọn Lửa của Sự Sống, thật ly kì, dù mang mặt nạ tuổi tác khôn tả, dù choàng chiếc áo phân rã cuối cùng của nhân loại, vẫn ánh lên điểm tương đồng với Ayesha lộng lẫy siêu nhiên: hình dạng gương mặt, khí chất kiêu hãnh đầy thách thức từng nâng bà ấy lên – tôi không biết gì nữa.
Đúng, bà ấy đứng đó, ánh sáng khốc liệt và ngọn lửa tàn nhẫn đánh vào bà ấy, lộ ra mọi sự xấu hổ.
Không khí im lặng ghê người bao trùm. Tôi thấy môi Leo trắng bệch và đầu gối cậu run rẩy; nhưng nhờ nỗ lực cậu tự trấn định lại, đứng thẳng như người chết bị treo trên dây. Tôi cũng nhìn Atene – đây là vì yêu cầu của cô ấy – cô quay mặt đi. Cô đã khao khát nhìn đối thủ của mình bị làm nhục, nhưng cảnh tượng kinh khủng làm cô sốc; những lúc thế này cảm giác của phụ nữ nói chung đã chạm đến lòng thương xót của cô. Chỉ có Simbri, tôi nghĩ, ông biết đó chính là điều mong đợi, và Oros vẫn duy trì tư thế hoàn toàn bất động; quả thật, trong sự im lặng ma quái đó, lúc sau mới nói những lời mà vì thế sau này tôi thấy yêu quí ông ấy.
“Thế nào là kẻ thấp hèn, mục nát trong nấm mồ thời gian? Thế nào là xác thịt đã hư nát?” Ông ấy nói. “Hãy nhìn từ ngọn đèn đổ nát để thấy ánh sáng vĩnh hằng bùng cháy bên trong. Hãy nhìn từ xác thịt thối rữa phủ bên ngoài để thấy tâm hồn bất diệt.”
Lòng tôi đang hoan nghênh tình cảm cao quí đó. Tôi có cùng ý nghĩ với Oros, nhưng than ôi, Lạy Chúa! Tôi cảm thấy não mình đã biến mất, tôi ước giá mà như thế, khi đó tôi sẽ không nghe thấy và nhìn thấy gì nữa.
Dáng vẻ đó có tập trung trên gương mặt xác ướp của Ayesha không? Thoạt tiên, hơi hy vọng, rồi hy vọng biến mất, chỉ còn nỗi thống khổ, nỗi thống khổ đau đớn thay vào đó.
Cần phải làm gì đó, chuyện này không thể chịu nổi. Môi tôi dính chặt lấy nhau, không thể thốt ra lời; chân tôi không muốn di chuyển.
Tôi bắt đầu tiên liệu cho hoàn cảnh. Cột lửa tuyệt vời biết bao, sóng lửa lên xuống theo chiều cao của nó. Đỉnh sóng cồn mới hùng vĩ làm sao. Có thể ấm áp nằm dưới vực đỏ bên dưới kia cùng Rassen đã khuất, nhưng than ôi! Tôi ước mình được chung giường với anh ta và kết thúc mọi thống khổ này.
Cảm ơn Thượng Đế, Atene đã cất tiếng nói. Cô ấy bước tới bên Vật Mang Đầu Trần, đứng cạnh trong niềm kiêu hãnh về nhan sắc đẹp đẽ và vẻ nữ tính hoàn hảo của cô.
“Leo Vincey, hay Kallikrates,” Atene nói, “tên nào cũng được tùy chàng; có lẽ chàng phát ốm với ta, nhưng nhớ rằng, ít ra ta khinh miệt việc chế nhạo đối thủ đang trong cảnh xấu hổ ghê gớm. Bà ấy đã kể cho chúng ta một câu chuyện điên cuồng, nhưng giờ chuyện đó thật hay giả, giả nhiều hơn thật, ta nghĩ, làm sao ta cướp đi nữ thần của kẻ sùng đạo, làm sao nữ thần đó – không chừng hiện thân qua Ayesha – lại trả thù ta vì tội nhường lại người đàn ông ta yêu. Phải, hãy để các nữ thần làm theo cách của họ đi – nếu thực sự có các nữ thần như vậy – làm theo ý muốn bất lực của họ, còn ta, một người có sinh tử, sẽ làm theo cách của ta, tới khi nanh vuốt của địa ngục quấn quanh cổ họng ta và làm sự sống cũng như ký ức của ta bị chặn lại, ta cũng là một nữ thần – hoặc một kẻ ngu ngốc.”
“Trong khi đó, chàng, người đàn ông kia, ta không xấu hổ khi nói trước tất cả những người chứng kiến ở đây, ta yêu chàng, và có lẽ - người phụ nữ hay vị nữ thần này – cũng yêu chàng, bà ấy đã nói cho chúng ta, bây giờ, bây giờ chàng phải lựa chọn giữa chúng ta một lần và mãi mãi. Bà ấy cũng bảo rằng, nếu ta đã phạm tội chống lại Isis, vị thần mà bà ấy tự tuyên bố mình là tín đồ thừa hành, thì nữ thần ấy còn phạm tội nhiều hơn. Vì nữ thần đó đã lôi hai người các ngươi ra khỏi mối tình như mơ và lòng kiêu hãnh trần tục, rồi lại cướp đi phần thưởng bất tử lẽ ra giờ là của bà ấy. Do đó, nếu ta là quỉ dữ, nữ thần đó còn xấu xa hơn, ngọn lửa cháy trong quan tài mà ngài Oros nói không tỏa sáng tinh khiết và sáng lạn đến vậy đâu.”
“Chàng hãy chọn đi, Leo Vincey, hãy để chuyện kết thúc ở đây. Ta không khoe khoang nữa; chàng biết ta đã thế nào và cho rằng ta là người như vậy. Nhưng ta có thể cho chàng tình yêu và hạnh phúc, và có lẽ, cả những đứa con, cùng với cung điện và quyền lực. Những gì mụ phù thủy kia có thể cho chàng, hẳn chàng đoán được. Những câu chuyện của quá khứ, những hình ảnh trên lửa, những câu châm ngôn thông thái và những lời đường mật, sau khi chàng chết một lần nữa, có lẽ niềm vui hứa hẹn sẽ tới khi vị nữ thần kinh khủng mà bà ta phụng sự kia nguôi giận. Ta đã nói rồi đấy. Ta chỉ nói thêm một lời:”
“Hỡi O, dù người là ai, nếu câu chuyện của Hesea là thật, ta đã từng từ bỏ địa vị hoàng tộc của mình và dám mạo hiểm tới vùng biển không vượt qua nổi; Hỡi O hàng ngàn năm qua, ta từng muốn che chở thể xác yếu đuối của mình bằng những phép thuật phù thủy lạnh lẽo tự chế; Hỡi O, chỉ một thời gian ngắn trước đây, ta đã liều mạng cứu chàng thoát chết bên con sông kia, hãy chọn đi, chọn đi!”
Toàn bộ bài diễn văn này, thật ôn hòa nhưng cũng thật độc ác, thật hợp lý nhưng cũng thật vô lý, vì vẻ bề ngoài hào nhoáng và những thiếu sót của nó, Ayesha qui chung lại dường như lắng nghe một cách say mê ghê gớm. Nhưng bà không trả lời, không một lời nào, thậm chí không phát ra một dấu hiệu nào; bà ấy như thể khinh bỉ việc biện hộ cho phần của mình.
Tôi nhìn gương mặt tái mét của Leo. Cậu nhìn về phía Atene, có lẽ buồn rầu trước lòng khao khát bùng cháy trong đôi mắt xinh đẹp của cô ấy, rồi đột ngột thẳng người, lắc đầu và thở dài. Màu sắc rạng rỡ trên lông mày cậu, đôi mắt cậu gần như ánh lên hạnh phúc.
“Cuối cùng,” cậu nói to lên, “tôi phải làm không phải với quá khứ không thể biết được hay tương lai huyền bí, mà với những gì trong chính kiếp này của tôi. Ayesha đã chờ đợi tôi hai nghìn năm; Atene đã cưới người đàn ông nàng căm ghét vì quyền lực, rồi đầu độc anh ta, không chừng nàng có thể đầu độc tôi khi tôi lấy nàng. Tôi không biết mình đã thề nguyền gì với Amenartas, nếu có một phụ nữ như vậy từng sống. Tôi chỉ nhớ những lời tôi đã thề với Ayesha. Nếu giờ tôi co rúm người lại trước nàng, thì kiếp này của tôi chỉ là một sự dối trá và lòng tin của tôi thật giả tạo; tình yêu sẽ không chịu nổi cú va chạm của tuổi tác và không bao giờ sống sót trong nấm mồ.”
“Không, Ayesha là ai tôi cũng sẽ giữ đúng như thế, nàng sẽ là những gì đúng như niềm tin và hy vọng. Ít ra tình yêu là bất tử và nếu thế, tại sao lại để nó cô đơn gặm nhấm ký ức tới chết, hãy giải phóng cho linh hồn.”
Rồi bước về nơi hình bóng ghê sợ, bị teo tóp đang đứng, Leo quì xuống trước nó và hôn lên trán bà ấy.
Đúng, cậu đã hôn lên sự kinh hoàng run rẩy của cái đầu nhăn nheo kia, tôi nghĩ đó là một trong những hành động tuyệt vời nhất, can đảm nhất mà cậu từng làm.
“Chàng đã lựa chọn,” Atene nói bằng giọng lạnh lẽo, “và để ta nói cho chàng biết, Leo Vincey, cách lựa chọn của chàng làm ta khóc thương cho mất mát của mình nhiều hơn. Giờ hãy giữ lấy cô dâu của chàng và để ta đi.”
Nhưng Ayesha vẫn không nói lời nào và không đưa ra dấu hiệu nào, hiện tại bà ấy ngồi sụp trên đầu gối xương xẩu của mình và bắt đầu cầu nguyện lớn tiếng. Đây là những lời cầu nguyện của bà, theo như tôi nghe thấy, dù Quyền Năng cụ thể được nói đến không dễ xác định, giống như tôi không bao giờ biết được bà ấy tôn thờ ai hay thứ gì trong lòng – “Hỡi O, Mục Sư của Ý Chí toàn năng, thanh gươm sắc bén trên tay Tử Thần, Luật Lệ quen thuộc mang tên Mẹ Tự Nhiên; ngài đã mang vương miện với tư cách thần Isis của người Ai Cập, nhưng cũng là nữ thần của mọi vùng miền và triều đại; ngài dẫn dắt đàn ông đến với thiếu nữ, đặt trẻ em vào lòng mẹ, mang cát bụi của chúng ta trở về với cát bụi quen thuộc của chính nó, đưa sự sống tới cái chết, và trong bóng tối của cái chết lại thở ra ánh sáng của sự sống; ngài làm thế gian phong phú sinh sôi, mỉm cười là Mùa Xuân, cười to lên là sóng biếc, nghỉ ngơi ban trưa là Mùa Hạ say nồng, ngủ là đêm Đông, xin ngài hãy lắng nghe lời cầu khẩn của đứa con được lựa chọn và kẻ tôi tớ trung thành của ngài:”
“Từ xa xưa ngài đã ban cho con sức mạnh với những ngày tháng bất tử, nhan sắc hơn tất cả các cô con gái của Vì Sao. Nhưng con đã phạm tội khiến ngài đau buồn, con đã trả giá cho tội lỗi của mình bằng hàng thế kỷ bất tận trong cô đơn, bằng sự thấp hèn khiến con ghê tởm trước mặt người con yêu, vì vương vị quyền năng hoàn hảo đặt lên trán con, vương miện của sự nhạo báng không che đậy. Nhưng trong hơi thở của ngài, tinh chất xoay chuyển mang cho con ánh sáng, mang cho con bóng tối, ngài đã thề rằng, con – kẻ không thể chết – sẽ một lần nữa nhổ bông hoa nhan sắc bất tử đã mất kia khỏi vũng bùn xấu xa hôi hám này.”
“Vì vậy, Đức Mẹ thương xót mang con đến, để con cầu nguyện với ngài. Ôi, hãy để tình yêu đích thực của chàng cứu chuộc cho tội lỗi của con; nếu không thể, hãy ban cho con cái chết, đây là lời cầu xin cuối cùng và thiêng liêng nhất của con!”

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 14



Chương 14: Phiên Tòa Tử Thần

Bây giờ tấm rèm được mở ra. Trước mặt chúng tôi hiện ra một căn phòng đào sâu vào theo độ dày của bàn thờ, chính giữa có một ngai vàng, trên ngai vàng, một thân ảnh khoác trong sóng cồn trắng xóa tuôn chảy từ đầu bệ đỡ tay ngai vàng xuống từng bậc cẩm thạch. Chúng tôi không thể thấy gì nữa trong bóng tối ở nơi đó, ngoại trừ bên dưới các nếp quần áo, Nhà Tiên Tri cầm trong tay một cây vương trượng bằng châu báu có hình vòng thòng lọng.
Theo sự thôi thúc nào đó, chúng tôi làm như Oros đã làm, tự quì lạy, và vẫn duy trì tư thế quì ở đó. Cuối cùng chúng tôi nghe thấy tiếng leng keng như chuông ngân, nhìn lên, thấy cây vương trượng hình chiếc trống đang chỉ về phía chúng tôi, được giữ bằng cánh tay quấn vải. Rồi một giọng mong manh, rõ ràng vang lên, tôi nghĩ nó hơi run rẩy. Giọng nói tiếng Hy Lạp, nhưng là thứ tiếng Hy Lạp thuần khiết hơn rất nhiều so với khi mọi người sử dụng.
“Ta chào mừng các ngươi, Những Kẻ Lang Thang, đã du hành từ rất xa tới thăm đền thờ cổ xưa nhất này, dù mang đức tin khác, không cần xấu hổ khi tôn kính kẻ không có giá trị, lúc này là Nhà Tiên Tri và người bảo vệ những bí ẩn. Giờ hãy đứng lên và đừng sợ ta; không phải ta đã gửi Sứ Giả cùng các tôi tớ của ta tới dẫn các ngươi đến Điện Thờ này sao?”
Chúng tôi từ từ đứng dậy, và im lặng, không biết nói gì.
“Ta chào mừng các ngươi, Những Kẻ Lang Thang,” giọng nói lặp lại. “Ngươi hãy nói cho ta” – và cây vương trượng chỉ vào Leo – “ngươi gọi thế nào?”
“Tôi tên là Leo Vincey,” cậu đáp.
“Leo Vincey! Ta thích tên này, với ta, nó rất phù hợp với một người đàn ông đẹp trai. Còn ngươi, bạn đồng hành của – Leo Vincey?”
“Tôi tên là Horace Holly.”
“Vậy à. Thế thì hãy nói cho ta, Leo Vincy và Horace Holly, các ngươi tới tìm kiếm thứ gì?”
Chúng tôi nhìn nhau, và tôi nói – “Chuyện rất dài và ly kì. Kính thưa O – nhưng chúng tôi phải gọi người thế nào?”
“Theo tên ta mang ở nơi này, Hes.”
“Thưa O Hes,” tôi nói, tự hỏi bà ấy còn mang tên gì ở những nơi khác nữa.
“Nhưng ta muốn nghe câu chuyện,” bà ấy tiếp tục, tôi nghe giọng bà thật háo hức. “Không, không cần toàn bộ trong đêm nay, vì ta biết cả hai ngươi đã mệt mỏi; chỉ một chút thôi. Hỡi những Người Lạ, quả thật rất đơn điệu trong ngôi nhà trầm lắng này, không trái tim nào chỉ gặm nhấm quá khứ, nếu có thứ như vậy. Vì thế ta hoan nghênh câu chuyện mới mẻ từ thế giới bên ngoài. Hãy kể nó cho ta, ngươi, Leo, thật ngắn gọn theo ý ngươi, hãy kể sự thật, vì trong Hiện Thân khi ta là Mục Sư, không gì khác nữa được phép nói ra.”
“Thưa Tu Sĩ,” cậu nói theo cách ngắn gọn, “Tôi xin tuân lệnh. Nhiều năm trước khi tôi còn trẻ, bạn tôi, cha nuôi tôi và tôi, được các văn tự trong quá khứ dẫn dắt, đã du hành tới một vùng đất hoang dã, và thấy ở đó một phụ nữ như thần thánh đã chinh phục được thời gian.”
“Thế thì người đó hẳn phải rất già và ghê tởm.”
“Thưa Tu Sĩ, tôi đã bảo nàng ấy chinh phục được thời gian, không bị nó làm cho đau đớn, vì món quà tuổi thanh xuân bất tử đã dành cho nàng. Nàng cũng không ghê tởm; nàng vô cùng xinh đẹp.”
“Thế nên người lạ, ngươi đã tôn thờ nàng ta vì nhan sắc của nàng, như cách một người đàn ông vẫn làm.”
“Tôi không tôn thờ nàng; tôi yêu nàng, đó là chuyện khác hẳn. Linh mục Oros đây tôn thờ người ông ấy gọi là Đức Mẹ. Tôi đã yêu người phụ nữ bất tử đó.”
“Sau đó ngươi vẫn còn yêu nàng ta. Nhưng không phải vậy, vì tình yêu đều phải chết.”
“Tôi vẫn yêu nàng,” cậu trả lời, “dù nàng đã chết.”
“Tại sao, như thế nào vậy? Ngươi đã nói nàng ta bất tử.”
“Không chừng nàng chỉ có vẻ như đã chết; không chừng nàng đã biến đổi. Ít nhất tôi đã mất nàng, và tôi tìm kiếm thứ tôi đã làm mất, và đã tìm kiếm rất nhiều năm rồi.”
“Tại sao ngươi tìm nàng ta trong Ngọn Núi của ta, Leo Vincey?”
“Vì một ảo cảnh đã dẫn tôi tới hỏi lời tư vấn của Nhà Tiên Tri. Tôi tới đây để tìm tin tức về người yêu mình đã đánh mất, vì chỉ duy nhất nơi này mới có thể thấy.”
“Còn ngươi, Holly, ngươi cũng yêu một phụ nữ bất tử, mà sự bất tử của nàng ta có vẻ cũng phải cúi đầu trước tử thần?”
“Thưa Tu Sĩ,” tôi trả lời, “Tôi đã tuyên thệ trước cuộc tìm kiếm này, con trai nuôi của tôi đi đâu, tôi sẽ đi theo tới đó. Cậu ấy theo đuổi người đẹp đã chết – “
“Và ngươi đi theo anh ta. Như vậy cả hai người các ngươi đều theo đuổi người đẹp như mọi đàn ông từng làm, mù quáng và điên rồ.”
“Không,” tôi trả lời, “nếu họ mù, nhan sắc sẽ vô ích với họ vì không thể nhìn thấy, nếu họ điên, họ sẽ không biết khi nào từng thấy nhan sắc ấy. Tri thức và tầm nhìn thuộc về sự khôn ngoan, thưa O Hes.”
“Ngươi có cái lưỡi thật nhanh nhạy và sắc bén, Holly ạ,” bà ấy tự kiểm tra, rồi đột nhiên nói, “Hãy nói cho ta, đầy tớ của ta, Khania của Kaloon đã tiếp đón các ngươi nồng nhiệt ở thành phố của nàng ta, rồi nhanh chóng đưa các ngươi tới đây như ta đã ra lệnh cho nàng chứ?”
“Chúng tôi không biết nàng là đầy tớ của người,” tôi đáp. “Nồng nhiệt thì chúng tôi đã được hưởng và dư thừa nữa, nhưng chúng tôi bị buộc phải nhanh chóng đi khỏi Cung Điện của nàng tới đây do đàn chó săn tử thần của Khan, chồng nàng. Hãy nói cho chúng tôi, thưa Tu Sĩ, người đã biết gì về hành trình này của chúng tôi.”
“Một chút,” bà ấy trả lời bất cẩn. “Hơn ba tuần trăng trước, các gián điệp của ta đã nhìn thấy các ngươi trên dãy núi phía xa, ban đêm đã bò tới rất gần các ngươi, nghe thấy các ngươi nói chuyện về mục đích chuyến lang thang của các ngươi, sau đó nhanh chóng trở lại báo cho ta. Do đó ta đã ra lệnh cho Khania Atene, và tên phù thủy già, bác nàng ta, là Người Bảo Vệ Cánh Cổng, đi xuống cánh cổng cổ xưa của Kaloon đón các ngươi và mang các ngươi tới đây nhanh nhất. Nhưng vì có những người đã thiêu cháy đáp án cho câu đố, nên các người đã mất nhiều thời gian mới tới đây được.”
“Chúng tôi đã tới nhanh nhất trong khả năng của mình, thưa O Hes,” Leo nói; “và nếu gián điệp của người có thể tới dãy núi nơi không ai tới được, tìm được đường xuống vực thẳm ghê gớm đó, họ hẳn phải có khả năng nói cho người lý do chúng tôi chậm trễ. Vì thế tôi cầu xin, đừng hỏi chúng tôi về chuyện đó nữa.”
“Không, ta sẽ hỏi Atene, chắc chắn nàng sẽ trả lời ta thôi, vì nàng ta đang đứng đây,” Hesea đáp bằng giọng lạnh lẽo. “Oros, hãy dẫy Khania tới đây, nhanh lên.”
Linh mục quay đi và bước nhanh tới cánh cửa gỗ chúng tôi vừa đi vào đền thờ, và biến mất ở đó.
“Bây giờ,” Leo căng thẳng nói với tôi trong bầu không khí yên ắng, bằng tiếng Anh, “bây giờ cháu ước chúng ta ở một nơi khác, vì cháu nghĩ sẽ có rắc rối.”
“Bác không nghĩ thế, bác chắc đấy,” tôi trả lời; “nhưng càng nhiều càng tốt, vì hết rắc rối có thể tới sự thật, thứ chúng ta vô cùng cần.” Rồi tôi dừng lại, nghĩ rằng người phụ nữ kỳ lạ trước mặt chúng tôi đã nói các gián điệp của bà ta tình cờ nghe được cuộc nói chuyện của chúng tôi trên dãy núi, nơi chúng tôi không nói gì ngoài tiếng Anh.
Như thể chứng minh tôi thật khôn ngoan, Hesea lặng lẽ lặp lại theo tôi – “Ngươi đã có kinh nghiệm, Holly, hết rắc rối sẽ tới sự thật, như hết rượu.”
Rồi sau đó bà ấy im lặng, không cần nói, tôi cũng không theo đuổi cuộc trò chuyện.
Cánh cửa bật mở, một đoàn rước mặc đồ đen đi tới, Pháp Sư Simbri theo cùng, ông ấy đi trước quan tài, trên đó thi thể Khan đang nằm, được tám tu sĩ khiêng. Phía sau là Atene, bọc kín người trong mạng che màu đen từ đầu đến chân, sau cô là một đoàn tu sĩ nữa. Trước bàn thờ, quan tài được đặt xuống và các tu sĩ lui ra, để lại Atene và bác cô đứng bên cái xác.
“Kẻ nô lệ của ta đang tìm kiếm thứ gì, hỡi Khania của Kaloon?” Hesea hỏi bằng giọng lạnh lẽo.
Giờ Atene đã tiến lên và quì gối, nhưng vẫn rất thanh lịch.
“Thưa Đức Mẹ cổ xưa, Đức Mẹ trường thọ, ta thể hiện lòng tôn kính trước Nghi Lễ thần thánh của người, như tổ tiên ta đã làm bao thế hệ qua,” rồi cô lại khẽ nhún gối cúi chào. “Thưa Đức Mẹ, người đàn ông đã chết này yêu cầu người quyền được chôn cất trong lửa của Ngọn Núi thiêng mà từ xưa, những người hoàng tộc qua đời trước chàng đã được đối xử như vậy.”
“Chuyện đó đã từng như ngươi nói,” Hesea trả lời, “do các nữ tu sĩ ngồi vị trí này trước ta làm, nên sẽ không từ chối phu quân đã chết của ngươi – hay chính ngươi, Atene – khi thời khắc của ngươi tới.”
“Ta xin đa tạ người, hỡi O Hes, ta cũng cầu xin hiệp ước này nên được viết ra, vì sương tuyết năm tháng đã tụ tập trên đầu tôn kính của người, và người sẽ sớm phải rời bỏ chúng ta một thời gian. Do đó hãy ra lệnh cho kẻ làm luật cuả người ghi lại, thì các Hesea cai trị đời sau của người sẽ thực hiện đúng theo nó.”
“Ngừng,” Hesea nói, “ngừng rót sự cay đắng của ngươi ra, dám ra lệnh cho bề trên tôn kính của ngươi, ôi! Ngươi, đứa trẻ ngu ngốc kia, ngươi không biết nhưng ngày mai ngọn lửa sẽ đòi lại tuổi trẻ và nhan sắc mong manh từng là niềm tự hào của ngươi. Ta ra lệnh ngươi ngừng lại, hãy nói cho ta làm sao cái chết tìm đến vị phu quân của ngươi?”
“Hãy hỏi những kẻ lang thang kia, đó là những vị khách của chàng, vì máu của chàng đã rơi trên đầu họ và than khóc đòi báo thù từ tay người.”
“Tôi đã giết hắn,” Leo nói, “để cứu mạng mình. Hắn cố săn đuổi chúng tôi cùng bầy chó của hắn, vẫn còn dấu tích của chúng,” và cậu chỉ vào cánh tay tôi. “Linh mục Oros biết, vì ông ấy đã băng vết thương.”
“Chuyện đã xảy ra thế nào?” Hesea hỏi Atene.
“Phu quân của ta bị điên,” cô mạnh dạn trả lời, “và đó là môn thể thao độc ác của chàng.”
“Vậy à. Phu quân của ngươi cũng rất ghen tuông phải không? Không, hãy giữ lại sai lầm ta thấy đang hiện lên trên môi ngươi. Leo Vincey, hãy trả lời ta. Nhưng ta sẽ không yêu cầu ngươi vạch trần bí mật của người phụ nữ đã trao tình yêu cho ngươi. Ngươi, Holly, hãy nói đi, hãy nói sự thật.”
“Chuyện là thế này, thưa O Hes,” tôi trả lời. “Người phụ nữ kia và bác nàng, Pháp Sư Simbri đã cứu chúng tôi thoát chết trên dòng sông bên các vách đá của Kaloon. Sau đó chúng tôi bị ốm, họ đối xử với chúng tôi rất tốt, nhưng Khania bắt đầu say mê con trai nuôi của tôi.”
Lúc này thân ảnh vị Tu Sĩ run rẩy bên dưới lớp vải bọc mỏng như sương, Giọng Nói hỏi – “và con trai nuôi của ngươi cũng bắt đầu say mê Khania, như một người đàn ông thường làm, vì không nghi ngờ gì, nàng ta rất xinh đẹp?”
“Cậu ấy có thể tự mình trả lời câu hỏi này, thưa O Hes. Tất cả những gì tôi biết là cậu ấy đã cố gắng trốn khỏi nàng ấy, cuối cùng, nàng ấy cho cậu một ngày để lựa chọn giữa cái chết và cưới nàng sau khi chồng nàng chết. Vì thế, nhờ sự trợ giúp của Khan, chồng nàng, người rất ghen tuông với cậu ấy, chúng tôi đã chạy trốn theo hướng Ngọn Núi, nơi chúng tôi khao khát được tới. Sau đó Khan xua lũ chó săn đuổi theo chúng tôi, vì hắn điên cuồng và mang trái tim lầm lỗi. Chúng tôi đã giết hắn và đi tiếp, mặc dù người phụ nữ này và bác nàng muốn ngăn cản, tới Cung Điện Xương Người chúng tôi gặp một người dẫn đường che mặt, người đó dẫn chúng tôi lên Ngọn Núi và đã hai lần cứu chúng tôi thoát chết. Đó là toàn bộ câu chuyện.”
“Người phụ nữ kia, ngươi muốn nói gì?” Hesea hỏi bằng giọng đầy đe dọa.
“Một chút thôi,” Atene trả lời không do dự. “Bao năm qua ta bị ràng buộc với một tên điên và vũ phu, nếu sự yêu thích của ta hướng về người đàn ông này và sự yêu thích của chàng hướng về ta – phải, Mẹ Tự Nhiên đã nói với chúng ta, thế thôi. Sau đó có lẽ chàng sợ sự trả thù của Rassen, hay chính tên Holly này, kẻ ta nghĩ bầy chó săn hẳn phải xé tan thành từng khúc, hắn đã sợ hãi. Vì thế họ cố trốn thoát khỏi vùng đất, và chừng như lang thang tới Ngọn Núi của người. Nhưng ta rất khó chịu khi nói về chuyện này, xin người hay để ta đi nghỉ ngơi trước nghi lễ ngày mai.”
“Ngươi đã nói, Atene,” Hesea nói, “rằng Mẹ Tự Nhiên đã nói với người đàn ông này và ngươi, và trái tim hắn là của ngươi; nhưng vì sợ sự trả thù của phu quân ngươi, hắn đã chạy trốn khỏi ngươi, hắn có vẻ không phải kẻ hèn nhát. Hãy nói cho ta, lọn tóc hắn giấu trong túi da trước ngực chính là vật làm tin của ngươi cho tình yêu với hắn ư?”
“Ta không biết gì về thứ chàng giấu trong túi da,” Khania buồn bã trả lời.
“Nhưng trong ngôi nhà Cánh Cổng đằng kia, khi hắn ốm yếu nằm đó, hắn đã đưa lọn tóc ra so sánh với tóc của chính ngươi – a, giờ nhớ ra chưa?”
“Đúng vậy, thưa O Hes, chàng đã nói cho người tất cả bí mật của chúng ta, dù hầu hết bọn đàn ông đều che dấu như thế trong ngực;” và cô khinh bỉ nhìn Leo.
“Tôi không nói gì cho bà ta về chuyện này, Khania,” Leo nói bằng giọng tức giận.
“Không, ngươi đã không nói gì với ta, Kẻ Lang Thang, trí khôn quan sát đã nói cho ta. Ôi, ngươi nghĩ xem, Atene, ngươi có thể che dấu sự thật khỏi Hesea của Ngọn Núi nhìn thấu vạn sự sao? Nếu vậy, thật lãng phí hơi thở của ngươi rồi, vì ta biết tất cả, và biết ngay từ đầu. Ta bỏ qua việc ngươi không tuân lệnh; ta cũng không để ý đến các tin tức giả của ngươi. Vì mục đích của mình, đối với ta, thời gian là vô nghĩa, ta chịu đựng được cả việc ngươi giữ những người này, các vị khách của ta, như tù nhân của ngươi, trong khi ngươi cố đe dọa và ép buộc họ để giành một tình yêu bị từ chối.”
Bà ấy dừng lại, rồi lại tiếp tục đầy lạnh lùng: “Người phụ nữ kia, ta nói cho ngươi biết, để thực hiện tội lỗi của ngươi, ngươi thậm chí dám nói dối ta ở nơi này, trong Điện Thờ linh thiêng của ta.”
“Nếu vậy thì sao?” Câu trả lời mạnh mẽ vang lên. “Người cũng yêu người đàn ông này sao? Không, thật quái đản. Mẹ Tự Nhiên sẽ than khóc vì báng bổ. Ôi! Đừng run rẩy vì tức giận. Hỡi Hes, ta biết những quyền năng xấu xa của người, nhưng ta cũng biết rằng, ta là khách của người, ở nơi linh thiêng này, dưới biểu tượng Tình Yêu vĩnh hằng đằng kia, người sẽ không muốn có đổ máu. Hơn nữa, người không thể làm hại ta, hỡi Hes, người cũng chỉ ngang bằng với ta thôi.”
“Atene,” Giọng Nói đáp lại chừng mực, “nếu ta muốn thế, ta có thể tiêu diệt ngươi dù ngươi ở đâu. Nhưng ngươi nói đúng, ta sẽ không làm hại ngươi, kẻ tôi tớ vô đạo của ta. Mệnh lệnh của ta không truyền đến cho ngươi qua kẻ nghiên cứu các vì sao đằng kia, bác ngươi, yêu cầu gặp các vị khách này và đưa họ đến ngay đền thờ của ta sao? Hãy nói cho ta, vì ta muốn biết, làm sao ngươi không tuân lệnh ta?”
“Sẽ như người muốn,” Atene trả lời bằng một giọng mới mẻ và nghiêm túc, giờ không còn sự cay đắng và giả dối. “Ta không tuân lệnh người vì người đàn ông kia không phải là của người, mà là của ta, chứ không phải của bất kì phụ nữ nào khác; vì ta yêu chàng và đã yêu chàng từ rất xa xưa. Đúng, ngay từ lần đầu linh hồn chúng ta đi vào cuộc đời, ta đã yêu chàng, dù ta không biết như thế nào, ở đâu và khi nào có chuyện đó. Vì thế ta tới bên người, Đức Mẹ của Những Điều Bí Ẩn, Người Bảo Vệ các bí mật trong quá khứ, để biết sự thật. Ít ra người sẽ không thể nói dối trước bàn thờ của chính người, và ta cầu xin người, nhân danh Quyền Năng người cũng phải có trách nhiệm, người hãy trả lời ta bây giờ ở đây đi.”
“Người đàn ông mà ta khao khát này là ai? Chàng là gì với ta? Chàng là gì với người? Hãy nói đi, thưa O, Nhà Tiên Tri, hãy làm rõ điều bí ẩn này. Hãy nói đi, ta ra lệnh đấy, dù sau này người giết ta – nếu người có thể.”
“Phải, hãy nói đi! Nói đi!” Leo nói, “vì tôi cũng hồi hộp đến đau đớn. Tôi cũng hoang mang trong đống ký ức và mang theo cả hy vọng cùng sợ hãi.”
Tôi cũng lặp lại, “Hãy nói đi!”
“Leo Vincey,” Hesea nói, sau khi suy nghĩ một lúc, “ngươi tin ta là ai rồi đúng không?”
“Tôi tin,” cậu trang trọng trả lời, “rằng người là Ayesha, tôi đã bị chết trong tay người từ xa xưa ở Khu hang động Kôr, Châu Phi. Tôi tin người là Ayesha, không đầy hai mươi năm trước tôi đã gặp và yêu ở chính Khu Hang Động Kôr đó, rồi lại nhìn người chết thảm hại ở đó và thề rằng người sẽ trở lại.”
“Xem kìa, phải điên rồ đến mức nào mới có thể làm một người lạc lối,” Atene ngắt lời một cách đắc thắng. “’Không đầy hai mươi năm trước,’ chàng đã nói thế, trong khi ta biết rõ rằng hơn tám mươi mùa hè qua kể từ lúc ông của ta còn trẻ, đã thấy chính vị nữ tu sĩ này trên ngai vàng của Đức Mẹ.”
“Còn ngươi tin ta là ai, hỡi O Holly?” Tu Sĩ hỏi, không chú ý đến lời của Khania.
“Những gì cậu ấy tin, tôi đều tin,” tôi trả lời. “Người chết biến thành người sống – thi thoảng. Nhưng chỉ duy nhất người biết sự thật, và chỉ nhờ người, sự thật mới được tiết lộ.”
“Đúng,” bà ấy nói, như thể đăm chiêu suy nghĩ, “người chết biến thành người sống – thi thoảng – trong hình hài khác, và có lẽ ta biết sự thật. Ngày mai khi thi thể kia được mang lên cao để mai táng, chúng ta sẽ nói lại chuyện này. Giờ tất cả các ngươi hãy đi nghỉ đi, hãy chuẩn bị đối mặt với điều đáng sợ - Sự Thật.”
Trong lúc Hesea vẫn nói, tấm rèm bạc đong đưa đi về vị trí ban đầu một cách thần bí như khi chúng được vén lên. Rồi như thể được ra hiệu, các tu sĩ áo đen tiến vào. Vây quanh Atene, họ đưa cô ấy ra khỏi Điện Thờ, đi cùng cô là bác cô, vị Pháp Sư, theo tôi dường như ông ấy mệt mỏi hoặc sợ hãi đến mức khó có thể đứng trên đôi chân mình, nhưng vẫn đứng vững, nhấp nháy đôi mắt mờ đục như thể ánh sáng làm ông bàng hoàng. Khi họ đi rồi, các nam nữ tu sĩ ban đầu xếp hàng quanh tường, cách xa để không nghe được cuộc nói chuyện của chúng tôi, đã tập hợp thành đoàn riêng rẽ, vẫn tụng kinh và đi mất, bỏ lại chúng tôi cùng Oros và thi thể của Khan, vẫn nằm ở nơi được đặt xuống.
Giờ vị linh mục đứng đầu Oros vẫy tay ra hiệu cho chúng tôi đi theo ông ấy, và chúng tôi đi. Tôi cũng không hối tiếc khi rời khỏi nơi này, vì vẻ cô đơn chết chóc của nó – thật kỳ lạ, được tăng lên theo dòng lũ ánh sáng tràn ngập; vẻ cô đơn tụ tập lại và thể hiện trên thân ảnh khủng khiếp nằm dài trên quan tài, áp bức và xâm chiếm chúng tôi, khiến dây thần kinh chúng tôi vỡ ra trước những gì vừa trải qua. Tôi thật biết ơn khi đi qua khỏi các gian ngang, xuống gian giữa của giáo đường mênh mông, chúng tôi đến cánh cửa sắt, lối đi bằng đá, rồi ra cổng ngoài trước đó đã mở ra để chúng tôi qua, cuối cùng hòa vào không khí đêm ngọt ngào lạnh giá của thời khắc trước bình minh.
Oros dẫn chúng tôi tới một ngôi nhà được xây dựng chắc chắn và đầy đủ nội thất, theo lệnh của ông, như người đang mơ, chúng tôi uống chút chất lỏng ông đưa cho. Tôi nghĩ đồ uống đó là thuốc mê, ít ra sau khi nuốt nó, tôi không nhớ gì nữa cho đến khi tỉnh dậy thấy mình nằm trên một cái giường và cảm thấy khỏe mạnh, thư thái kỳ lạ. Chuyện này thật ly kì, vì ngọn đèn cháy trong phòng cho tôi biết trời vẫn tối, nên tôi có thể nghỉ ngơi thêm chút nữa.
Tôi cố ngủ lại, nhưng không thể, vì vậy rơi vào trầm tư tới khi tôi mệt mỏi vì việc đó. Những suy nghĩ đó không giúp gì cho tôi, không gì có thể giúp được, ngoại trừ sự thật, “điều đáng sợ”, như lời vị Nữ Tu Sĩ che mặt đã gọi thế.
Ôi! Chuyện gì đây nếu bà ta không phải là Ayesha mà chúng tôi muốn, mà là “điều đáng sợ” nào đó? Những lời ám chỉ của Khania và sự táo bạo của cô ấy có ý nghĩa gì, chắc được truyền cảm hứng từ sức mạnh bí ẩn nào đó chứ? Chuyện gì nếu – không, không thể - tôi muốn ngồi dậy và bó lại cánh tay. Hoặc tôi muốn đánh thức Leo và bảo cậu bó lại nó – bất kỳ việc gì chiếm giữ tâm trí tôi tới giờ đã định, khi đó chúng tôi sẽ biết – tốt nhất – hoặc tệ nhất.
Tôi ngồi dậy trên giường và nhìn thân ảnh tiến đến trước tôi. Đó là Oros, đang cầm cây đèn trên tay.
“Ngươi đã ngủ rất lâu, anh bạn Holly thân mến ạ,” ông nói, “giờ đến lúc dậy rồi.”
“Lâu ư?” tôi gắt gỏng nói. “Làm sao có thể thế được, trời vẫn còn tối đấy thôi?”
“Vì, anh bạn ạ, bóng tối là của một đêm mới. Nhiều giờ đã trôi qua kể từ khi ngươi nằm xuống giường này. Đúng, ngươi thật khôn ngoan khi nghỉ ngơi trong lúc còn có thể, vì ai biết khi nào ngươi sẽ lại ngủ tiếp chứ! Đi nào, để ta rửa tay cho ngươi.”
“Hãy nói cho tôi,” tôi ngắt lời – “Không, anh bạn,” ông ta kiên quyết chặn lời tôi, “Ta sẽ không kể gì cho ngươi cả, trừ việc ngươi phải nhanh chóng có mặt tại đám tang của Khan, và không chừng sẽ biết được đáp án cho các câu hỏi của ngươi.”
Mười phút sau, ông ấy dẫn tôi tới phòng ăn của ngôi nhà, tôi thấy Leo đã ăn mặc tươm tất, vì Oros đã đánh thức cậu trước khi tới chỗ tôi, và ra lệnh cậu tự chuẩn bị. Oros kể cho chúng tôi rằng Hesea không chịu nổi khi bị chúng tôi làm phiền tới khi màn đêm lại tới lần nữa, kể từ đêm đó. Vì thế hiện giờ chúng tôi mới bắt đầu.
Chúng tôi lại một lần nữa được dẫn tới khán phòng lửa chiếu sáng, rồi tới khu tụng niệm hình vòng thòng lọng. Giờ chỗ này đang trống không, cả cái xác của Khan cũng biến mất, không còn vị Tiên Tri quấn vải ngồi trong điện thờ, vì tấm rèm bạc đã được rút ra, và chúng tôi thấy nó trống không.
“Đức Mẹ đã đi ban vinh dự cho người chết, theo phong tục cổ xưa,” Oros giải thích cho chúng tôi.
Rồi chúng tôi đi qua ban thờ, sau bức tượng thấy một cánh cửa trên tường đá của khu tụng niệm, ngoài cánh cửa có một lối đi, một khán phòng như căn nhà, vì mọi cánh cửa trong đó đều mở ra, dẫn tới các phòng. Ở đó, người dẫn đường nói cho chúng tôi, là chỗ ở của Hesea và các hầu gái của bà. Ông ấy nói thêm, chúng chạy ra tận sườn Ngọn Núi và có cửa sổ mở ra khu vườn để ánh sáng và không khí đi vào. Trong phòng, sáu tu sĩ đang đợi, mỗi người mang một bó đuốc dưới tay và giữ một ngọn đèn chiếu sáng trên bàn tay.
“Con đường chúng ta đi xuyên qua bóng tối,” Oros nói, “dù ban ngày chúng ta có thể trèo trên tuyết bên ngoài, nhưng vào ban đêm chuyện này rất nguy hiểm.”
Rồi lấy bó đuốc, ông ấy châm chúng vào một cây đèn và đưa cho chúng tôi mỗi người một bó.
Giờ chúng tôi bắt đầu trèo. Chúng tôi đi lên những hành lang dốc đứng vô tận, được đào vào đá tảng của Ngọn Núi nhờ công sức khó tin của các tín đồ thờ lửa thời nguyên thủy. Với tôi, dường như chúng kéo dài hàng dặm, quả thực là vậy, vì dù sườn núi dốc thoai thoải, nhưng chúng tôi vẫn mất hơn một giờ mới trèo lên được. Cuối cùng chúng tôi tới chân một cầu thang lớn.
“Dừng lại đây một lúc, chàng trai,” Oros nói, cúi đầu trước Leo với vẻ cung kính mà ông đã thể hiện ngay từ đầu, “vì cầu thang này rất dốc và dài. Giờ chúng ta đang đứng trên miệng trên cùng của Ngọn Núi, và sắp trèo lên cây cột to lớn có hình thòng lọng nhô lên phía trên kia.”
Thế là chúng tôi ngồi xuống nơi như mái vòm, để luồng không khí sắc bén vội vã qua lại giữa các lối đi chơi đùa với chúng tôi, vì chúng tôi đều bị hun nóng trên đường đi lên các hành lang kia. Khi ngồi đó, tôi nghe thấy một âm thanh gầm rú và hỏi Oros đó là gì. Ông trả lời, chúng tôi đang ở rất gần miệng núi lửa, thứ chúng tôi nghe thấy xuyên qua lớp đá dày là tiếng xô đẩy của lửa vĩnh cửu trong lòng nó. Rồi hành trình đi lên tiếp tục.
Không nguy hiểm dù rất mệt mỏi, vì có gần sáu trăm bậc. Việc trèo lên các lối đi nhắc tôi nhớ tới hành lang Kim Tự Tháp Vĩ Đại kéo dài hàng furlong; lối đi lên cây cột trụ giống như đi lên tháp chuông nhà thờ, hay đúng hơn là vài ngọn tháp chất đống lên nhau, cái này nối tiếp cái kia.
Nghỉ ngơi hết lần này đến lần khác, chúng tôi kéo lê thân mình lên các bậc thang dốc đứng, mỗi bậc cao một bàn chân, tới khi trèo qua cây cột trụ, chỉ còn vòng dây thòng lọng. Chúng tôi vẫn đi lên tiếp, Oros dẫn đường, tôi rất vui vì cầu thang vẫn chạy trong lòng đá, tôi có thể cảm nhận được con mắt hùng mạnh của cái cột tháp nhọn run rẩy trong từng trận gió mạnh quét qua bên ngoài.
Cuối cùng chúng tôi đã nhìn thấy ánh sáng phía trước, cách khoảng hai mươi bước nổi trên một nền phẳng. Khi Leo vốn đi trước tôi, bước ra khỏi cầu thang, tôi thấy Oros và vị tu sĩ khác giữ lấy tay cậu, nói cho cậu các yêu cầu họ sắp làm.
“Không sao,” cậu kêu lên và quay lại, “ngoại trừ nơi này thật chóng mặt, họ sợ cháu sẽ rơi xuống. Hãy để tâm vào việc bác đi thế nào, bác Horace,” và cậu giơ tay cho tôi nắm.
Giờ tôi đã nhìn rõ đường hầm, tôi tin nếu không có bàn tay đó, tôi đã rơi xuống sàn đá, cảnh tượng trước mắt dường như làm não tôi tê liệt. Đừng băn khoăn nữa, vì tôi nghi ngờ thế gian liệu còn có thể trình diễn một cảnh khác tương tự được sao.
Chúng tôi đứng trên đỉnh vòng thòng lọng, không gian bằng đá bằng phẳng dài khoảng tám mươi thước, rộng ba mươi thước, bầu trời sao rải rác phía trên. Ở phía nam, khoảng hai mươi nghìn feet bên dưới, Đồng Bằng Kaloon mờ nhạt trải dài, phía đông và phía tây đều là bờ vai phủ đầy tuyết của đỉnh núi và các sườn dốc màu nâu trải rộng bên dưới. Phía bắc là cảnh tượng khác hẳn, vô cùng khiếp sợ. Nơi đó, ngay dưới chúng tôi, vì cây cột trụ bị cong vào trong, là cái miệng rộng của ngọn núi lửa, tâm của nó là một hồ nước rộng bốc lửa, nổi bọt và hoa lửa phụt lên ngẫu nhiên hay bắn ra, quằn quại, xoắn xít như biển cả đang giận dữ.
Trên bề mặt hồ, khói và khí bay lên tạo ra lửa khi chúng nổi lên và hòa lẫn với nhau, tạo ra cột ánh sáng sống động khổng lồ. Ngay đối diện chúng tôi, cột lửa rực cháy, ngọn lửa đi qua con mắt của lỗ kim trên cây cột trụ, bên dưới chúng tôi, phóng ra một chùm rực rỡ chạy dọc đất nước Kaloon, dọc dãy núi bên ngoài, rồi biến mất nơi chân trời.
Gió thổi từ nam sang bắc, bị hút về phía cái miệng nóng bỏng của ngọn núi lửa, hơi thở khốc liệt của nó la hét xuyên qua con mắt trên cột trụ, chống lại bề mặt gồ ghề của nó, luồn qua đỉnh cột lửa, như cơn lốc trên đại dương phải uốn mình trước trận gió lớn, và bị xé tan thành từng mảnh lửa, bị gió cuốn đi như những cánh buồm tơi tả từ chiếc thuyền đang cháy.
Nếu không nhờ gió mạnh và ổn định, không sinh vật nào có thể sống nổi trên cột trụ, vì hơi bốc lên sẽ đầu độc chúng; nhưng gió mạnh không ngừng đã lái chúng về hướng bắc. Vì thế, trong không gian mỏng manh nơi băng giá này, sức nóng không quá lớn và có thể chịu đựng được.
Kinh hoàng trước khung cảnh tuyệt vời đó, nó dường như phù hợp với vẻ khủng bố trong Hầm Lò hơn là với nơi trần thế này của chúng ta, sợ gió xoáy quay cuồng tôi như chiếc lá úa rơi xuống cái vực sáng rực bên dưới, tôi khuỵu gối xuống, chống bàn tay lành lặn lên, hét lên với Leo hãy làm tương tự, và nhìn lại mình. Giờ tôi quan sát thấy các hàng tu sĩ khoác áo choàng tuyệt đẹp, quì trên mặt đá và tham gia cầu nguyện, nhưng Đức Mẹ Hes, hay Atene, hay cái xác của Khan, tôi chẳng thấy ai trong số đó cả.
Khi tôi đang băn khoăn tự hỏi họ có thể ở đâu, Oros, người không bị ảnh hưởng bởi cảnh tượng kinh hãi đó, cùng mấy tu sĩ theo hầu vây quanh chúng tôi và đưa chúng tôi theo lối đi khá nguy hiểm chạy ven cạnh tảng đá đã mài tròn. Vài bước đi xuống, chúng tôi thấy mình đang ở dưới mái che, gió mạnh gầm rú phía trên đầu chúng tôi. Hơn hai mươi bước nữa, chúng tôi tới một khe cắt thụt vào, tôi nghĩ là do bàn tay con người, nó nằm trên bề mặt vòng thòng lọng, để trần nham thạch chiếu lên nửa chiều rộng của nó.
Khe cắt này, hay căn phòng bằng đá, đủ lớn để che cho một số người đông đảo, chúng tôi tới đó an toàn, mới phát hiện ra chỗ này đã có người. Ngồi trên một cái ghế đẽo từ đá là Hesea, khoác áo choàng thêu hoa màu tím bên ngoài lớp quần áo mỏng như sương phủ từ đầu đến chân. Đứng gần bà là Khania Atene và bác cô, vị Pháp Sư già, trông có vẻ ốm yếu, không thoải mái, và cuối cùng, nằm dài trên chiếc giường tang lễ, ánh sáng khốc liệt đập vào thân hình và gương mặt cứng ngắc, là Rassen, vị Khan đã chết.
Chúng tôi tiến tới ngai vàng, cúi chào bà ấy đang ngồi đó. Hesea ngẩng đầu trùm mũ lên, dường như vừa gục xuống trước ngực như thể miên man suy nghĩ, rồi ra lệnh cho linh mục Oros. Vì ở chỗ này, các bức tường đá rất lớn, nên rất yên tĩnh và mọi người có thể nghe thấy nhau nói chuyện.
“Ngươi đã mang họ tới đây an toàn, người đầy tớ của ta,” bà nói, “và ta rất hài lòng, vì với những người không biết, con đường này rất đáng sợ. Các vị khách của ta, các ngươi có nghe nói gì về hố chôn cất lộ thiên cho Các Con Của Hes không?”
“Đức tin nói cho chúng tôi đó là địa ngục, thưa quí bà,” Leo trả lời, “và tôi nghĩ cái vạc đằng kia giống như miệng của nó.”
“Không,” bà ấy trả lời, “không có địa ngục, ngoại trừ từ đời này sang đời khác, chúng ta tạo hình bản thân cho thích hợp trong vòng tròn của ngôi sao nhỏ này. Leo Vincey, ta nói cho ngươi biết, địa ngục là đây, đúng, là đây,” và bà ấy vỗ tay lên ngực mình, trong khi đầu lại rũ xuống phía trước lần nữa như thể cúi xuống dưới sức nặng của khổ đau âm thầm.
Bà ấy giữ tư thế đó một lúc, rồi ngẩng đầu lên, và nói tiếp – “Nửa đêm là quá khứ, rất nhiều chuyện phải làm và chịu đựng trước khi bình minh lên. Đúng, bóng tối sẽ lại trở thành sáng, hoặc không chừng ánh sáng rồi lại đến bóng tối vĩnh hằng.”
“Người phụ nữ hoàng tộc kia,” bà ấy tiếp tục, hướng về phía Atene, “theo quyền lợi của anh ta, ngươi đã đưa vị phu quân vừa chết của mình tới đây mai tang ở nơi linh thiêng này, nơi tro tàn của tất cả những người đi trước anh ta đã thành nhiên liệu cho ngọn lửa thần thánh. Linh mục Oros, ngươi hãy gọi Nguyên Cáo và kẻ biện hộ ra đây, và hãy để những cuốn sách mở ra, ta sẽ thông qua phán xét với người chết, gọi linh hồn anh ta sống lại lần nữa, hoặc cầu nguyện để hơi thở sự sống rời bỏ anh ta.”
“Linh mục, ta tuyên bố, Phiên Tòa Tử Thần bắt đầu.”


Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham