Phần 4: Tại sao ngày nay người ta đổ xô đi học thiền?
Thống kê đáng ngạc nhiên là,
hiện nay người châu Âu, Mỹ… ngồi thiền nhiều hơn người châu Á. Việc ứng dụng
thiền ở các quốc gia phát triển cũng nhiều hơn các quốc gia đang hoặc kém phát
triển. Có vẻ như cái cội nguồn lịch sử lâu đời vô cùng quí giá cũng chẳng được
người phương Đông biết đường gìn giữ và phát triển.
“Thiền” là từ tiếng
Việt. Tiếng Phạn là “Dhyana”. Tiếng Pali của Phật Tổ là “Jhana” (nghĩa là tập
trung tĩnh lặng). Tiếng Trung là “Ch’an”. Tiếng Tạng là “Dzogchen”. Tiếng Nhật
là “Zen”. Các ngôn ngữ phương Tây đều dùng từ “Zen” để chỉ nó. Ngoài ra, tiếng
Anh còn một từ “Meditation” (chiêm niệm) cũng hay dùng cho thiền.
Ai cũng nghĩ Thiền
là sản phẩm của Phật giáo. Nhưng thực ra thiền ra đời trước cả Phật Tổ. Thế kỷ
3, thiền được phổ biến ở Seria, Jordan và các quốc gia vùng Lưỡng Hà (sau này
là đất của các nước Hồi giáo). Thế kỷ 10, thiền được truyền tới Nhật, châu Âu,
Nga… Đến thế kỷ 18, gần như cả thế giới đều biết đến thiền. Do giao thoa văn
hóa, thiền biến tướng dưới nhiều dạng và nhiều môn phái, dần dần không còn cái
nào là mẫu mực.
Ngày nay, các lớp học thiền
mọc lên như nấm ở khắp nơi trên thế giới, do công dụng to lớn của thiền đã được
khoa học chứng minh. Nhiều bệnh viện ở phương Tây và các quốc gia phát triển
như Nhật, Hàn, Singapore, Hồng Kong, Đài Loan sử dụng thiền như một lựa chọn điều
trị cho bệnh nhân. Các trường học đưa thiền vào thời khóa giảng dạy cho học
sinh từ rất sớm: học sinh cấp 1 ở Hàn Quốc, Nhật, Singapore đã học thiền, học
sinh cấp 2 và cấp 3 ở châu Âu và Mỹ có thể lựa chọn thiền làm môn học phụ. Các
nhân vật nổi tiếng của thế giới phương Tây cũng hành thiền như cựu Tổng thống Mỹ
Obama, Bill Clinton, vợ chồng phó tổng thống Mỹ Al Gore…
Khoa học công nhận tác dụng
Khoa học dùng thực chứng và
thí nghiệm. Thiền dùng trực giác và chiêm nghiệm. Về đối tượng, khoa học hướng
tới bản chất và qui luật của thế giới vật chất, khách quan (bao gồm cả con người).
Đối tượng của Thiền là thế giới nội tâm con người. Mục đích của cả hai đều nhằm
giải đáp, xử lý các vấn đề của thế giới và con người. Nói chung, Thiền cùng Phật
giáo có nhiều quan niệm và bản chất gần với khoa học hơn chúng ta tưởng.
Từ những năm 70 thế kỷ trước,
giới khoa học phương Tây đã bắt đầu bắt tay vào nghiên cứu thiền. Có thể kể đến
những cái tên như Richard Peterson, John Kabatzin, Sam Harris… Mấy chục năm qua
có hàng ngàn báo cáo khoa học liên quan đến thiền trên các tạp chí và diễn đàn
khoa học chính thống.
Họ phát hiện ra rằng, thiền
– dù có vô số phương pháp và trường phái tràn lan trên thế giới – nhưng đều nhằm
vào sự tập trung và khả năng kiểm soát phản ứng của con người. Thiền được giới
khoa học công nhận là một cách cực kỳ hiệu quả giúp:
-
Cân bằng cảm xúc
-
Tập trung tốt hơn
-
Nâng cao năng suất và sự sáng tạo
-
Nâng cao trí nhớ
-
Nâng cao đầu óc (kiểu thông minh, sáng suốt hơn)
-
Tăng cường hệ miễn dịch
-
Tăng cường lòng từ bi, bác ái, cảm thông…
Do tâm trí con người luôn
xao động, điền đầy những tin tức, suy tưởng, hình ảnh,… nên luôn thấy căng thẳng,
mệt mỏi. Thiền tạo ra nhiều khoảng trống trong đầu. Tập lâu dần sẽ ít bị xao
lãng, thoát khỏi các luồng ý thức cũng dễ dàng hơn, khả năng tập trung của não
mạnh lên. Nhiều thí nghiệm chiếu/chụp não bộ của các thiền sư hoặc những người
tập thiền đều đặn một thời gian đều cho thấy phần bên trái của thùy não trước
(liên quan tới những cảm xúc tốt, tích cực) phát triển hơn hẳn, mật độ chất xám
dày hơn người bình thường.
Một nghiên cứu kéo dài gần 2
tháng do Harvard thực hiện tại bệnh viện đa khoa Massachusetts cho thấy, thiền
có thể khôi phục lại lượng chất xám của não chỉ trong 8 tuần. Đây là nghiên cứu
đầu tiên chứng minh thiền làm thay đổi não bộ theo thời gian. Ngoài ra, họ còn
công bố nghiên cứu cho biết thiền tác động đáng kể đến các triệu chứng lâm sàng
của chứng rối loạn tiêu hóa, hội chứng ruột kích thích, viêm ruột. Nó giúp giảm
căng thẳng và cải thiện triệu chứng trong tất cả các rối loạn này. Nghiên cứu
chỉ ra, sau 8 tuần tập thiền trung bình 27 phút mỗi ngày, cấu trúc não sẽ thay
đổi theo hướng tốt hơn: tăng độ dày chất xám tại hippocampus – phần não phụ
trách trí nhớ, kiểm soát cảm xúc, nhận thức; giảm mật độ chất xám tại vùng
amydala – vùng quản lý cảm giác lo lắng, sợ sệt. Như vậy các chuyên gia cho thấy
tốt nhất nên tập thiền 20-40 phút/ngày vào một khoảng thời gian nhất định trong
ngày. Nếu quá bận rộn thì bạn có thể tập thiền ngắn 2-10 phút vào những khoảng
lịch trống trong ngày. Thực ra độ dài mỗi lần tập không quá quan trọng, bạn chỉ
cần thường xuyên uốn nắn tâm trí, tạo cho nó những thói quen tốt.
Thiền còn giúp trẻ hóa, chậm
lão hóa. Những nghiên cứu cho thấy người sống trong căng thẳng sẽ có telomere
(loại protein bít hai đầu chuỗi ADN, mỗi lần phân chia tế bào, telomere lại ngắn
thêm chút nữa) ngắn nhanh chóng, và trông họ già hơn người bình thường, do đó
có tuổi thọ ngắn hơn. Thiền giúp thúc đẩy quá trình sản sinh ra telomerase – loại
enzyme tự nhiên ngăn sự co lại của telomere và bảo vệ telomere, thậm chí còn bổ
sung chiều dài cho telomere và giúp một số loại tế bào có tuổi thọ cao hơn. Những
người thiền định lâu năm có độ dày vỏ não và chất xám vượt trội hơn những người
không thiền từ mười đến vài chục năm lão hóa.
Nghiên cứu về chất trắng của
20 vùng não bộ của tiến sĩ thần kinh học Eileen Luders tại UCLA cho thấy, khi
người ta già đi, chất trắng theo tự nhiên sẽ giảm dần. Nhưng hiện tượng này lại
không xảy ra ở những người thiền định lâu năm. Đó là lý do một người có hàng
nghìn giờ tọa thiền vẫn rất minh mẫn và thông tuệ dù ở tuổi thất thập cổ lai
hi.
Trong nghiên cứu khác, Paul
Ekman (Viện Đại học California) cho rằng thiền định và quán chiếu có thể chế phục
được nhân hạnh đào (amygdale) – một vùng não lưu trữ những ký ức sợ hãi. Ông
khám phá ra rằng các thiền sư lâu năm khó bị chấn kinh, bất an, hoảng hốt hay nổi
giận như người khác. Tuyến thượng thận – nơi tiết adrenalin điều khiển nhịp tim
khi sợ hãi – gần như được các thiền sư khống chế hoàn toàn.
Ngồi kiết già có công dụng
chữa bệnh, hai chân ép lên các vị trí huyệt mạch trên đùi sẽ ép các mạch máu,
gây tác động tới não phải. Chỉ cần ngồi vào tư thế kiết già, dù không cần tập
trung tư tưởng vẫn có một sự thay đổi sóng não từ nhịp Beta khoảng 20c/s xuống
nhịp Alpha khoảng 8c/s (nhịp Alpha là sóng não của một người trầm tĩnh, minh mẫn,
tâm lý ổn định). Điều này có nghĩa là tự thân tư thế kiết già đã có công năng để
dẫn dắt người tập dễ đi đến trạng thái thư giãn, an tĩnh.
Thiền liên quan đến các cảm
nhận mang tính cá nhân. Nhưng luyện tập với một nhóm nhiều người sẽ được trợ lực
và tọa thiền lâu hơn ngồi một mình, cũng tiến bộ nhanh hơn. Đây là vấn đề đã được
các nhà tâm lý học chỉ ra.
Tiến sĩ Dean Radin (giám đốc
nghiên cứu khoa học tại Viện Khoa Học Tinh Thần – Institute of Noetic Sciences)
từng nghiên cứu những người tập thiền ở phương Tây một thời gian dài, và nhận
thấy khi ngày càng có nhiều người ngồi thiền vì lý do sức khỏe, thể chất hay
tinh thần, những khả năng tâm linh phi thường xuất hiện ngày càng nhiều, theo
nhiều cách khác nhau. Ví dụ như dùng ý
nghĩ di chuyển đồ vật, thần giao cách cảm, thấu thị (nhìn từ xa, nhìn xuyên vật
chất)… - những hiện tượng vốn chỉ biết trên phim ảnh hoặc từ các tăng sĩ Mật
giáo ở Tây Tạng. Nhưng nay, những hiện tượng tâm linh kỳ lạ này – giới khoa học
gọi là “siêu năng lực” – đã phổ biến trong những người hành thiền lâu năm và được
các nhà khoa học nghiên cứu xác nhận. Các nhà sinh học lượng tử thấy rằng, sự rối
lượng tử Albert Einstein mô tả cho thế giới vi mô (các hạt hạ nguyên tử) cũng tồn
tại ở cấp độ vĩ mô (con người). Thiền định được khoa học cho rằng có thể sản
sinh siêu năng lực. Thần giáo cách cảm, thấu thị… vốn dĩ bị coi là bất thường
và gây sợ hãi ở văn hóa phương Tây, thì nay lại được coi là bình thường, được
giải thích theo khoa học. Những người trải qua hàng ngàn giờ thiền định sẽ biết
đó chỉ là một chứng ngộ bình thường.
Còn một vấn đề cũng chưa được
khoa học giải đáp, nhưng đã được xác nhận: thiền giúp giảm tiêu hao năng lượng
đáng kể. Những người tập thiền lâu năm thường không ăn nhiều, cũng không có các
nhu cầu lớn cho sinh hoạt. Các thiền sư thường chỉ ăn một bữa vào chính ngọ mà
vẫn sinh hoạt như bình thường. Người ta tạm giải thích rằng, người tập thiền
đúng và đủ lâu sẽ tạo lập được trạng thái cân bằng, điều hòa được các nhu cầu
sinh hoạt tinh thần, chủ động điều tiết được hệ thần kinh sinh dục, luôn cân bằng
ý thức và tâm thức, các cơ quan nội tạng cân bằng và tương tác với nhau ở mức
chuyển hóa rất thấp, cho nên tiêu hao năng lượng ít và hợp lý. Dần dần họ sẽ
không có nhu cầu vật chất lớn.Người tu thiền lâu sẽ có khuynh hướng sống giản dị
hơn, gần gũi tự nhiên hơn, khiêm tốn hơn, từ bi hơn.
Khoa học đến giờ đã công nhận
thiền là phương pháp tốt nhất để tập trung và sống tốt hơn trong thực tại,
nhưng ngoài ra cũng có nhiều phương pháp luyện tập khác giúp tập trung và/hoặc
giúp ta quay về thực tại. Thiền có khả năng “rửa” lại não, giải tỏa khu vực
căng thẳng vì máu ở trong tình trạng ách tắc. Trong trào lưu thiền định rầm rộ
khắp Mỹ và Châu Âu ngày nay, nhiều người cho biết họ chữa được cả bệnh tim, ung
thư, nghiện rượu, stress, HIV-AISD, thậm chí cả suy giảm ham muốn tình dục… chỉ
bằng cách ngồi thiền.
Các nhà khoa học cho biết,
trong 20 năm đầu đời, những kết nối giữa các tế bào não gia tăng và giảm xuống,
năng suất đang sung mãn, tốc độ quá trình nhanh hơn. Đây là thời điểm lý tưởng
để xây dựng các mạch trong não bộ mà sẽ kéo dài cả cuộc đời. Tư duy đúng sẽ
phát sinh từ cấp độ cơ bản nhất, sâu nhất của cuộc đời. Sau đó, một cách tự động,
các hành động sẽ diễn ra phù hợp theo tư duy; nếu tập thiền, nó sẽ giúp hòa hợp
với môi trường và những người xung quanh, có tầm nhìn rộng và khả năng thích
nghi cao độ - trạng thái của sự khai sáng. Đó là lý do bạn nên tập thiền ở ngay
20 năm đầu tiên trong đời mình.
Kỹ thuật thiền phổ biến nhất
ở phương Tây là Thiền Siêu Việt - được giới khoa học phương Tây khám phá và phổ
biến từ những năm 60-70 cho thấy, dù hành trì hết sức đơn giản, nhưng hiệu quả
lại cao bất ngờ: cải thiện chức năng não, giảm tình trạng cao huyết áp, tăng khả
năng tập trung, tăng tính sáng tạo, tăng sự trầm tĩnh, sức đề kháng, tăng tính
tổ chức, cải thiện các mối quan hệ, tăng khả năng tự thể hiện. Thiền siêu việt
sau đó được các trường học phương Tây sử dụng đại trà để dạy cho học sinh.
Đông y ưa dùng
Đông y quan niệm:
tinh, khí, thần là căn bản, cội rễ của sự sống con người (tam bảo). Tinh – thức
ăn, nước uống – gồm tinh của tiên thiên (di truyền) và tinh của hậu thiên (từ
ăn, uống, thở). Khí có chân khí/thanh khí (oxy) và trọc khí (CO2,…). Thần – tâm
linh, tinh anh - có thần của tiên thiên (có sẵn trong người – tâm, Phật tính, bản
tánh chân thật, linh hồn bất tử… - không thể thấy được, chỉ cảm nhận được khi đạt
tới một trình độ nhất định) và thần của hậu thiên (ở não, biểu hiện qua tư tưởng,
cảm giác, cá tính…).
Thiền giúp định
tâm cực kỳ hiệu quả - đến nay vẫn là phương pháp độc tôn trong Đông y để chữa
các bệnh liên quan đền thần (tâm thần, nghiện hút, ảo giác, cai rượu…) và cả
các bệnh nan y, hiểm nghèo (ung thư, suy nhược, huyết áp, tim mạch, khớp mãn
tính, hen suyễn, phong hàn, …).
Bản thân tư thế
ngồi thiền đã là một tổ hợp tái tạo năng lượng hoàn hảo.
Khi ngồi kiết
già, xương mắt cá chân sẽ tạo sức ép khá mạnh lên đúng vị trí huyệt tam âm giao
của chân còn lại, khiến huyệt này được kích hoạt – huyệt này ở chỗ lõm bờ sau xương
chày. Người hay tọa thiền bằng tư thế kiết già sẽ dần dần có một dấu ấn trên mặt
da tại vùng huyệt đó. Khi huyệt tam âm giao được kích hoạt, toàn bộ quá trình
chuyển hóa, hấp thu, bài tiết ở khu vực này được kích hoạt. Ngoài ra, huyệt này
còn có tác dụng “dưỡng âm kiện tỳ” và “sơ tiết can khí” – giúp tái lập cân bằng
nội tiết, nội tạng và điều hòa thần kinh giao cảm. Chính vì thế, kiết già giúp
an định cả thân và tâm trong quá trình hành thiền.
Vậy nên ngồi kiết
già thế nào: chân phải chồng lên chân trái hay chân trái chồng lên chân phải?
Tam âm giao là một số ít huyệt vị có tính tự điều chỉnh rất cao. Dù kích thích
vào huyệt bằng cách nào, lâu hay mau, bên phải hay bên trái thì hiệu ứng mang lại
vẫn rất tích cực: luôn cải thiện, điều chỉnh để tiến tới hòa hợp và cân bằng.
Nên tùy sở thích, thói quen, hai cách ngồi kiết già đều mang lại kết quả tốt đẹp
cho việc hành thiền.
Khi ngậm miệng,
để đầu lưỡi chạm vào nướu hàm trên ở huyệt Ngân Giao, là đang nối thông hai mạch
Nhâm Đốc âm dương lại với nhau. Trường phái nhân điện gọi là ‘nạp điện’. Đây là
động tác mà những người tập khí công hoặc tu luyện nội công cũng phải dùng tới.
Họ thậm chí còn nhìn huyệt Thiên Môn (trên đỉnh đầu) để biết một người có tu
thiền hay không – từ đó mà đánh giá nội lực và tu dưỡng của người đó. Người tu
thiền không liên tục, hoặc theo nhiều pháp môn khác nhau, đường giữa đỉnh đầu từ
huyệt Thiên Môn tới huyệt Bách Hội sẽ lồi lõm không liên tục. Người tu thiền
lâu năm và chỉ theo một pháp môn sẽ có đường này giống một rãnh lớn.
Hai bàn tay để
lên nhau, hai đầu ngón cái chạm vào nhau. Đầu ngón tay cái là huyệt Thiếu
Thương, có các đường kinh lạc liên quan tới hệ hô hấp. Hai đầu ngón cái chạm
vào nhau là nối hai mạch âm dương Thiếu Thương lại với nhau, nạp điện và kích
thích cho hệ hô hấp hoạt động cân đối.
Xả thiền cũng là
phương pháp nạp điện rất tích cực, được Đông y khuyên dùng trong điều trị nhiều
loại bệnh, đặc biệt những bệnh liên quan đến khí, thần như suy nhược, ung thư…
Một số trường
phái Đông y còn cho rằng, bệnh là do năng lượng ứ đọng, thiền là quá trình dẫn
năng lượng ứ đọng ra ngoài. Vì thế về mặt lý thuyết, thiền có thể điều chỉnh được
tất cả các bệnh. Nhưng với mỗi người, hiệu quả sẽ khác nhau do công phu luyện tập.
Họ tạo ra nhiều bài thiền khác nhau với mục đích chính là chữa bệnh, như bài
thiền thư giãn, thiền giãn thân, thiền thư giãn nội tạng, thiền nhân điện… Thiền
kiểu này giống dưỡng sinh nhiều hơn, chủ đích là sức khỏe, mục đích tâm linh bị
bỏ qua. Để thực hành hiệu quả cần thả lỏng tuyệt đối và có tâm yêu thương. Tuy
nhiên, cũng có một số người lợi dụng hướng mọi người đến niềm tin mù quáng, bóp
méo hay làm biến tướng giáo lý Đức Phật để chữa bệnh kiếm tiền. Cần nhớ rằng,
thiền được nhiều tôn giáo và phi tôn giáo sử dụng với những mục đích khác nhau.
Không phải ai cũng ngồi thiền được. Và không phải ai ngồi thiền cũng chữa bệnh
được. Cho nên trước khi áp dụng thiền (hay bất cứ phương pháp điều trị nào), phải
tìm hiểu cho kỹ.
Tôn giáo coi là công cụ đắc lực
Thiền - tự chính
nó không có bóng dáng tôn giáo.
Chiêm niệm
(Meditation) – bắt đầu từ thời sơ khai của Giáo hội Ki-tô và chỉ dành riêng cho
các tu sĩ. Kinh điển Do Thái giáo, Ki-tô giáo, Hồi giáo ghi lại vào thế kỷ thứ
3, nhiều tu sĩ vào sa mạc để chiêm niệm. Bản thân các từ monk (tu sĩ) và
monastery (tu viện) đều có gốc từ tiếng Hy Lạp “monos” (đơn độc). Các nhân vật
nổi tiếng trong các tôn giáo lớn như Nhà tiên tri Moses, Đức cha Poemen, Thánh
Joseph… đều ngồi thiền. Cựu Ước nói tới từ “Mặc Khải” (revelation) cũng được
nhiều học giả cho là một dạng thiền. Kinh Khải Huyền (apocalypse) mô tả những
cõi giới hoàn toàn tương ứng với một tam muội. Thánh Jean de la Croix cũng mô tả
thể nghiệm tâm linh của chính ngài như một hành giả thiền (cuốn Ascension of
Mount Carmel). Như vậy nhiều tôn giáo coi thiền là phương pháp thực hành tâm
linh từ xa xưa.
“Hãy về tĩnh tọa
trong phòng. Căn phòng sẽ dạy ta mọi sự.” (Nhà tiên tri Moses – Hồi giáo)
“Ngài đơn độc
vào sa mạc ẩn trú trong hốc đá. Cứ 6 tháng ngài đi lấy lương thực một lần. Ngài
đơn độc như vậy trong nhiều năm để tu luyện cách từ bỏ mình.” (Giám mục
Atanasius viết về Thánh Anthony)
Linh mục Ki-tô
giáo John Main (1926-1982) lập ra 2 thiền viện ở châu Âu để phổ biến thiền cho
tín đồ Ki-tô giáo. Họ cho rằng phương thế giữ mình trong im lặng là sự an trú
trong tình yêu của Chúa. Mọi khuôn mẫu đều bị giới hạn trong vòng kiểm soát của
trí óc. Chưa buông xả là chưa đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa một cách trọn
vẹn. Chỉ khi nào từ bỏ mọi tư tưởng, hoàn toàn tĩnh lặng, tâm hồn sẽ chìm sâu
vào hư vô, nơi Thiên Chúa hiện diện. Thiền Ki-tô là một dạng thiền phương Đông
kết hợp với lối chiêm niệm của các ẩn sĩ Ki-tô giáo thế kỷ thứ 3. Linh hồn tín
đồ Ki-tô phải gặp Chúa của mình. Thiền là cách giữ tâm thanh tịnh và trong sạch.
“Ai là người đứng trước mặt Chúa. Ấy là người tay không nhúng tội và trái tim
trong sạch.” Vì Thiên Chúa là ánh sáng quá chói chang khiến trí óc và mắt con
người chỉ thấy tối tăm. Để gặp Người, tín đồ Ki-tô phải đi vào bóng tối. Thiên
Chúa không thể hiểu được bằng lời nói, âm thanh, nên để gặp Người, họ phải đi
vào bóng tối, im lặng, cầu nguyện với kinh vô thanh. Chủ yếu là chứng nghiệm cá
nhân, nên khi thiền, đừng mong cầu điều gì. Quyền lực của thiền ở sự qui thuận
hoàn toàn Thiên Chúa. Thiền là trở thành chính mình: sinh ra bởi Chúa Cha, được
cứu chuộc bởi Jesus, là đền thờ của Chúa Thánh Thần. Sau một thời gian tu thiền,
bản tính đạo đức ẩn khuất sẽ từ từ được khai triển (ví dụ, tự nhiên ta có lòng
bác ái).
Với đạo Phật, Đức
Thích Ca cho rằng, biết Phật Pháp là chìa khóa. Nhưng biết Phật pháp mà không
hành thiền thì giống như có học mà không có hành, không thể đi tới giải thoát
và an lạc, coi như uổng công học đạo. Thiền vốn có trước thời Đức Phật, nhưng
chỉ có Ngài mới là người đầu tiên trong lịch sử khám phá ra sự kì diệu của nó
và biến nó thành công cụ hoàn hảo trợ giúp đắc lực cho hành trình đi tới giải
thoát, đạt được trí tuệ lớn lao.
Tất nhiên, việc một thiền sư
ngồi thiền mười mấy tiếng một ngày suốt hàng chục năm ròng, đạt đến cảnh giới
thâm sâu và uyên bác về mặt trí tuệ, cũng không thể làm cho vị đó trở thành
chuyên gia năng lượng, vũ trụ, vật lý hạt nhân… Không nên quy chụp chồng chéo,
lẫn lộn giữa hai lĩnh vực tôn giáo/triết học và khoa học.
Ở nước ta, có vẻ
như mọi người chờ đến khi già yếu, hoặc gặp sự cố, thất bại trong đời mới tới cửa
chùa, cầu xin than khóc với Phật, học Phật pháp nhằm xoa dịu nỗi đau hoặc mong
được siêu thoát về cõi Cực Lạc. Nên nhớ, Phật giáo chân chính không có chuyện cầu
nguyện, lễ bái. Vì Phật là người – một bậc giác ngộ và người thầy dạy cách giác
ngộ, không phải là thần thánh mà xin xỏ. Các vị sư chân chính sẽ bảo bạn “hãy
phát nguyện”, “hãy ngồi thiền”, “hãy học theo lời Phật dạy để thoát khổ”.
Phật giáo cho rằng,
muốn có hạnh phúc chân chính, thì nên giác ngộ. Giác ngộ càng sớm càng tốt. Nói
chung, ai và ở lứa tuổi nào cũng có thể làm theo lời Đức Phật – đây là tôn giáo
của sự giải thoát – trí tuệ - an lạc, dựa trên lý trí và hiểu biết, không phải
dựa trên niềm tin. (Không có chuyện Phật tử đi lôi kéo mọi người vào đạo. Họ thường
chỉ nói khi bạn hỏi tới.) Đó là lý do tại sao ngày nay, nhiều người còn rất trẻ,
thậm chí trẻ con vừa sinh ra, đã ngồi thiền và học Phật pháp.
Nhà Phật coi thiền
là cách giúp phát huy sự can đảm, ý chí vượt qua khó khăn, đặc biệt tăng sự tự
tin nhờ nhận rõ bản chất nỗi sợ trong lòng. Thiền cũng giúp hành giả ý thức về
bản chất của vật chất, sự giàu có và phương pháp sử dụng nó để tạo hạnh phúc
cho mình và cho người. Thiền giúp người trẻ biết định hướng đường đi. Không phải
ngẫu nhiên mà các quốc gia Phật giáo (Nhật, Hàn quốc, Thái, Singapore) và cả Âu
Mỹ ngày nay đều dạy trẻ con học thiền từ cấp một, đưa vào giáo trình học hẳn
hoi. Người về già mới tập thiền, dù muộn còn hơn không. Già thì dính mắc, cố chấp
càng nhiều, cái tôi càng lớn, thường bảo thủ. Thiền giúp họ hòa hợp, an vui, mở
tâm từ bi, bao dung hơn để giúp họ nhận thức được ý nghĩa thâm sâu của cuộc đời.
Đặc biệt hơn, thiền giúp chúng ta tự biến cải bản thân một cách tích cực.
Phật giáo coi
“ngồi” không phải chỉ là một động tác của thân xác, mà nó liên quan đến toàn diện
con người của mình. Thân xác biểu tượng cho trái đất và bầu trời, trái tim là
vương miện của đế vương. Bạn ngồi thật vững vàng trên mặt đất, trong tư thế sẵn
sàng đón nhận bầu không gian của thực tại, hòa nhập vào thể dạng hiện hữu đang
phát động một cách tự nhiên ấy. Tư thế ngồi biểu trưng trọn vẹn cho toàn thể
giáo huấn nhà Phật. Ngồi kiết già phải luyện công phu, chữa được bệnh, lại khiến
con người ta bớt tham ái dục, còn có thể “bay được nếu có thần thông”. Ngồi bán
già “không bay được”. Tư thế ngồi chưa phải toàn bộ kỹ thuật tập luyện. Ngồi
đúng cách chỉ là biểu lộ quyết tâm của hành giả. Ví tư thế ngồi như quả núi,
hành giả có thể tìm thấy ở đó chỗ ẩn cư thuận lợi dù đang phải sống trong bất cứ
bối cảnh nào.
Giữ tâm thức vắng
lặng rất quan trọng, đặc biệt với tôn giáo phương Tây, nhưng trong đạo Phật, đó
không phải là cốt lõi. Lục tổ Huệ Năng từng bảo đó là “một hình thức bệnh hoạn”.
Bà la môn giáo (Ấn
Độ giáo ngày nay) cũng thực hành bằng thiền định, để giúp con người hòa vào làm
một với vũ trụ. Họ cho rằng ngồi kiết già khiến hai chân ở vị thế khóa nhau, tạo
sức ép lên 2 luân xa ở dưới cùng của cơ thể, làm cho dòng năng lượng có khuynh
hướng đi lên nuôi dưỡng các trung tâm lực dọc theo cột sống và kiểm soát toàn bộ
hệ thần kinh. Việc giữ cột sống thẳng giúp luồng năng lượng mạnh mẽ chạy dọc cột
sống lên não. Nếu ngồi cong hoặc gập người sẽ ngăn nguồn năng lượng này, cản trở
hơi thở và giảm sự tập trung của tâm trí.
Ở Việt Nam, một
số hình thức nghi lễ truyền thống như hầu đồng, một số tôn giáo như Cao Đài,
Hòa Hảo cũng có thiền – gọi là thiền động, theo hình thức tập thể.
Ngày nay, có nhiều
phương pháp thiền mới ra đời, như Pháp Luân Công ở Trung Quốc (1992), thiền
Osho ở Ấn Độ (1989)…
Như thế chưa đủ, còn thực tại khách quan
Hòa
bình yên ổn
Cuộc sống thừa mứa
vật chật. Công việc ổn định. Gia đình yên ả. Xã hội tràn lan những thứ hào
nhoáng. Tivi, internet, báo chí… khiến chúng ta ngập đầu trong hàng đống tin tức
tào lao vô bổ. Tất cả khiến con người cảm thấy vô vị, tẻ nhạt.
Trường học và
công sở, trong nhà và ngoài ngõ… đều khuyến khích, ưu ái sự hòa đồng. Hòa đồng
là một kỹ năng quan trọng cần có. Nhưng nó cũng ẩn chứa nguy cơ. Do luôn kiếm
tìm con đường ít trở kháng nhất - con đường hòa giải, bạn sẽ quên bạn là ai, rồi
chìm vào trung tâm cùng mọi người.
Chúng ta bị cào
bằng, đồng hóa, bị chìm lấp giữa cả tỷ người như chúng ta - không còn khác biệt.
Tự trong đáy lòng phát ra những tiếng nói bức bối, muốn nổi dậy, muốn làm loạn…
để gây sự chú ý, để thấy mình đặc biệt và khác biệt, để có cảm giác mình không
tầm thường. Trạng thái này khiến con người ta hoặc cứ mải tìm kiếm vu vơ không
chủ đích hoặc tự chôn mình trong cảm giác bất lực. Họ tìm nhiều cách để giải tỏa,
để bộc lộ bản tính thực sự - những cách khiến họ căng thẳng hoặc tức giận, vì
chỉ khi căng thẳng hay tức giận, những gì bạn cố che dấu mới có khả năng hiển lộ.
Nhẹ thì rượu chè, cờ bạc; nặng thì ma túy, dạt nhà đi đây đó kiếm tìm; nặng nữa
thì thành đệ tử IS hay những thứ điên cuồng, quái thai.
Con người sống
trong hòa bình sẽ mang nội tâm đầy bão tố, dù chỉ là trong vô thức. Họ dễ bị tấn
công và kích động bởi những thứ kỳ lạ, mới mẻ, hoặc những thứ đối lập với thực
tại của họ - những thứ đại diện cho chiến tranh. Bị tấn công là dấu hiệu chứng
tỏ bạn khá quan trọng để trở thành một mục tiêu. Đôi khi họ thấy điều đó là hạnh
phúc, dù thực ra đang ảo tưởng và bị lợi dụng.
Một số ít có lý
trí hơn, tỉnh táo hơn, sẽ tìm các giải pháp đúng đắn để giảm thiểu tác hại của
tình trạng này. Họ coi thiền là một trong những giải pháp ấy. Bạn vẫn có thể
tranh đấu và kiếm tìm, nhưng bạn sẽ dần học cách điều khiển được mục tiêu của
mình để không lạc lối.
Quá
nhiều mối quan hệ
Người thân, họ
hàng, đồng nghiệp, bạn làm ăn, bạn chơi, bạn đạo, bạn rượu, bạn nhậu, bạn
facebook, bạn instagram… Nhiều mối quan hệ thường dẫn tới một nỗi buồn chán nhất
định, có thể đoán trước được.
Ngày nay công nghệ
cho chúng ta những khả năng không tưởng trong tạo lập và mở rộng các liên kết.
Bạn ngồi một góc nhà hàng tháng trời, mà vẫn có thể giao tiếp với cả thế giới.
Cả tuần bạn không nói một câu nào, không gặp mặt trực tiếp một ai, nhưng vẫn “trò
chuyện” sôi nổi trên các diễn đàn. Bạn không có thứ gì, nhưng bạn vẫn có thể
khoác Dior, đi Benley, du lịch Dubai hay NewYork, sống cuộc đời như mơ chỉ với
mấy cái apps. Bạn khóc trong thất bại cay đắng, nhưng bạn vẫn có thể “show” cho
mẹ bạn và thiên hạ thấy bạn đang vui vẻ, thành công dường nào, chỉ cần một chiếc
điện thoại thông minh. Bạn tập trung vào viết báo cáo hay ưu tiên khoe hàng
trên instagram? Bạn lau nốt nước mũi cho con hay trả lời ngay một tin nhắn điện
thoại? “Giá trị thị trường của bạn là bao nhiêu? – 1.800 friends”.
Internet biến quan
hệ cả xã giao lẫn thân mật truyền thống thành những cú click chuột “like”, “unlike”,
“share”… ; những mối quan tâm bắt buộc phải có tương tác vật lý thành những biểu
tượng ảo; rồi những cuộc nói chuyện hời hợt, những mối quan hệ nông cạn, và những
ảo tưởng lớn dần cùng cái tôi ngày càng lạc lõng.
Tại sao người hiện
đại cô độc? Có cả ngàn lý do – bạn có thể tìm hiểu trong vô vàn nghiên cứu tâm
lý xã hội thời gian gần đây. Chủ đề “Nỗi cô đơn của con người” còn đầy rẫy trên
internet, phim ảnh, văn học nghệ thuật… Con người cô đơn trong lễ hội hơn triệu
người tham gia, cô đơn trong cuộc sống hạnh phúc đủ đầy, cô đơn trong công việc
tốt lương cao, cô đơn trên trang facebook với hơn 20.000 friends…
Bạn chẳng còn biết
mình thật sự muốn gì, nên làm gì để thoát khỏi những khuôn khổ chật hẹp ấy. Vậy
thì tôi giới thiệu cho bạn, hãy học thiền.
Không phải thiền
sẽ làm tiêu biến tức khắc nỗi cô đơn của bạn. Nó giúp bạn sáng suốt hơn, trung
thực hơn, khách quan hơn, từ bi hơn khi đối diện với bản thân và thế giới. Ít
nhất bạn cũng sẽ biết bạn là ai, đang ở chỗ quái quỉ nào trên cõi đời này.
Quá
nhiều lựa chọn
Nói chung cái gì
“quá” cũng đều không tốt.
Khi bạn là khách
hàng, doanh nghiệp hay đối tác cố đưa ra nhiều phương án để bạn lựa chọn –
không phải chỉ vì họ chuyên nghiệp, tận tâm, giỏi chăm sóc khách hàng, cũng
không phải chỉ vì bạn là bát cơm hay mỏ vàng của họ, mà vì đối thủ của họ làm
thế, cả xã hội làm thế, cả thế giới buộc họ và cho họ khả năng làm thế.
Đến lượt bạn,
cũng thế thôi. Nếu ngày xưa cụ Hồ phải loay hoay, gian khổ hầu tìm cho ra một
con đường cứu nước, thì nay để đạt được một điều gì đó, bạn loay hoay đứng giữa
trăm dòng nước “chọn một dòng hay để nước trôi xuôi”.
Xã hội tiêu dùng
đa phương tiện đẻ ra cả ngàn vật thay thế, tạo cơ hội lựa chọn phong phú cho mỗi
người, và cũng tạo cơ hội để mỗi người có thể làm phong phú thêm các lựa chọn.
Tuy nhiên, quá
nhiều lựa chọn khiến bạn không thể đặt tâm trí đủ sâu vào một việc để tiến hành
nó một cách trọn vẹn. Cuối cùng bạn không hoàn toàn có được cái bạn muốn hoặc
có nhưng cảm giác chiến thắng không trọn vẹn. Bạn sống trong cảm giác lúc nào
cũng thấy thiếu một cái gì đó.
Dù ai cũng biết
rằng tinh thần có tính chất lây lan; khi có ít hơn, họ sẽ sáng tạo hơn. Nhưng
xã hội kồng kềnh của “đa số”, của sự thừa mứa, phung phí khiến chúng ta không tự
chủ, kiềm chế, kiểm soát hay thay đổi được.
Thiền có là liệu
pháp? Có thể. Thiền giúp bạn đơn giản hóa cuộc sống, tập trung và sáng suốt
hơn, tư duy theo phong cách tối giản và hiệu quả hơn. Thay vì bâng khuâng đứng
trước cả trăm dòng nước, bạn sẽ chỉ tập trung vào những dòng nước có tốc độ chảy
phù hợp với cái bè nứa của bạn mà thôi.
Nghe
quá nhiều sách vở và diễn thuyết
Các khóa học làm
giàu, diễn đàn tư duy triệu phú, trường dạy kỹ năng thương lượng và bán hàng, lớp
yoga, lớp thôi miên, lớp tiếng Anh tiếng Nhật tiếng Hàn, lớp kỹ năng sống cho
trẻ em và người lớn, lớp phòng ung thư cho người già… cùng vô số sách, đĩa, bài
báo dạy kinh doanh bất động sản không dùng tiền, khởi nghiệp 0 đồng, 10 cách kiếm
tiền nhanh nhất, 30 bước thành tỉ phú trước 30 tuổi, cách ngồi thiền kiểu Tây Tạng
trị hết bệnh ung thư, liệu pháp thôi miên chữa bách bệnh, buôn tiền thế nào để
giàu hơn Buffett, 3 bước thành nhà lãnh đạo kiệt xuất, tư duy làm giàu, tư duy
lãnh đạo, cách đánh thức tài năng kiệt xuất trong con bạn, con đường từ anh
nông dân vô học đến tỷ phú giàu nhất tỉnh… Phần lớn con người không sống cuộc đời
họ muốn vì họ suy nghĩ quá nhiều. Mà với lượng thông tin khủng bố thế kia,
không nghĩ mới lạ đấy!
Con người ngày
nay thật đáng thương. Sau khi đã mệt mỏi vì sự nhàm chán của cuộc đời an ổn, những
mối quan hệ nhạt nhẽo, và vô số lựa chọn nhảm nhí hỗn loạn; người ta lại chịu
áp lực từ những tấm gương to nhỏ của đủ thể loại nhân vật: từ nông dân đến lãnh
tụ, từ người tàn tật đến tỷ phú, từ anh hàng xóm đến thằng cha ất ơ ở tận bên
kia bán cầu… Thế nên đừng hỏi tại sao ngày càng có nhiều trại tâm thần, bệnh viện,
trung tâm cai nghiện!
Sách vở là kho
tri thức khổng lồ của nhân loại. Ta đọc sách vì tương lai Việt Nam, vì tương
lai chính mình, hoặc vì chồng con, hoặc chẳng vì cái gì. Sách vở - những thứ
này dù có gây phấn chấn thế nào thì cũng chỉ là một kinh nghiệm quá thụ động để
có một ảnh hưởng lâu dài. Nói thế, không có nghĩa tôi phủ nhận tác dụng to lớn
của sách vở và tri thức nói chung. Tôi chỉ muốn nói tới tình trạng lạm dụng các
hình thức giáo dục để kiếm tiền, qua đó gián tiếp đặt gánh nặng hoặc làm sai lệch
nhận thức của nhiều người.
Thiền trong trường
hợp này đúng là giải pháp vô cùng tốt. Thiền của phái Thiền tôn có tư tưởng “bất
lập văn tự” – không nặng nề sách vở, không tư duy trên ngôn từ. Học thiền không
phải để quẳng hết sách vở đi mà vẫn có tri thức tốt. Thiền định giúp bạn quan
sát và nhìn nhận hiện tượng, sự việc như những gì nó đang diễn ra, trong hiện tại,
đúng với bản chất thực sự của nó. Bạn học được cách nhìn nhận vấn đề, cách tư
duy hiệu quả, từ đó áp dụng cho những thứ khác trong cuộc sống. Bạn được thư
giãn, trở thành chính mình, không phải chạy theo những sở thích có tính “trào
lưu” méo mó của thiên hạ.
Hiển nhiên, tôi
không khuyến khích bạn tới các lớp học thiền của các trung tâm rêu rao nhan nhản
ngoài kia. Bạn nên cân nhắc lên chùa, hoặc tìm hiểu qua internet, hoặc thử tập ở
nhà vài lần xem căn cơ mình có phù hợp không, và phù hợp với trường phái nào.
Thật ngớ ngẩn nếu bạn bỏ một đống tiền theo học anh chàng ất ơ nào đó hoặc sang
tận Tây Tạng, Ấn Độ để học thứ mà người ta chỉ mất 10 phút đọc tài liệu trên mạng
là có thể tự làm được ở nhà.
Nhu cầu
quá dễ dàng được thỏa mãn
Đời nó theo kiểu
“Phàm ai đã có thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay
cái đang có cũng sẽ bị lấy đi.” (Matthew 25:29)
Bạn có quá nhiều
nhu cầu: ăn pizza, uống Ken, mặc đồ D&G, đi làm văn phòng nhẹ nhàng, lương xài
dư dả, xe mới, sửa nhà, đi du lịch, cho con học trường tốt… Nhiều cũng chẳng
sao. Nhưng vấn đề là nhiều nhu cầu mà lại quá dễ dàng được thỏa mãn. Bạn sẽ có
nhiều thời gian trống. Bạn sẽ làm những việc nhảm nhí hoặc chẳng làm gì. Đừng để
cho bản thân nghỉ ngơi, vì nó sẽ là một loại “nghiện”. Nghiện cảm giác buồn
chán. Nghiện trạng thái hoang hoải, vô vị. Nghiện sự cô đơn.
Thiền cũng có thể
giúp bạn cai mấy cái nghiện đó (đến ma túy mà có người còn bảo cai được bằng
thiền nữa là). Quan trọng là hành thiền đòi hỏi sự kiên trì, nỗ lực vượt qua những
chướng ngại rất vi tế; nhờ đó, bạn biết trân trọng hơn bản thân, có những cảm
xúc tích cực hơn với cuộc sống.
Hiệu
quả và hưởng thụ
Cuộc sống hiện đại
lái chúng ta hướng vào cuộc chạy đua theo hiệu quả và xu hướng hưởng thụ tối
đa. Con người càng ngày càng trở nên thiếu kiên nhẫn. Thế giới phương Đông cố gắng
bắt chước thế giới phương Tây về lý tưởng và giá trị vật chất, làm biến mất những
phẩm chất quí báu truyền thống của mình (kiên nhẫn, chăm chỉ, quyết tâm) và cả
những giá trị văn hóa tinh thần là cốt tủy từng có thời kỳ huy hoàng trong các
nền văn minh vĩ đại của quá khứ (các bộ môn nghệ thuật truyền thống, các tư tưởng
và tôn giáo cổ…). Nếu biết cách tu thiền hiệu quả, bạn sẽ sửa được những lỗ hổng
tính cách này.
Tinh
thần doanh nhân muôn năm - Khởi nghiệp! Khởi nghiệp nào!
Thế giới vật chất này coi trọng
ai? Các doanh nhân.
Người người kinh doanh. Nhà
nhà kinh doanh. Phật tử kinh doanh. Đến sư chùa cũng là doanh nhân.
Nhưng bài viết này không có
tham vọng và tâm tư bàn đến việc làm ăn, tư duy kinh doanh hay ý chí khởi nghiệp
của các Phật tử và các chùa, chỉ bàn đến những gì liên quan tới thiền.
Ở Tây, mấy ông khoa học tìm
mãi không ra câu trả lời cho “Ta là ai?” bèn xách ba lô lên đường tới Ấn Độ, rồi
Tây Tạng. Đứng trên đỉnh Himalaya, có ông hốt nhiên đại ngộ, về viết sách, lập
web, tổ chức hội thảo diễn thuyết, mở lớp dạy thiền, tính đầu người thu tiền.
Việt Nam chậm hơn một chút,
sau 30 năm nhà nước mới phát động toàn dân khởi nghiệp. Học theo tấm gương các
nhà khoa học, các học giả trời Tây đủ mọi lứa tuổi mà vẫn hăng say đi Tây Trúc
rồi về kiếm tiền, những người Việt trẻ cũng tự lên đường hoặc thuê người lên đường
đi Ấn Độ, Nepal, Tây Tạng, Nhật Bản, Đài Loan, thậm chí cả Mỹ, để học vài khóa
tu, tu thân còn chưa ngộ, nhưng vẫn trở về mở trường, mở lớp dạy thiền.
Các lớp này thường đầu voi
đuôi chuột, chỉ dạy được phần kỹ thuật thiền, còn những cái tinh hoa cốt tủy của
thiền thì không sao truyền được hoặc truyền không hết, không đúng. Đó là lý do
tại sao, các học viên theo học những lớp này chỉ đạt được một phần hiệu quả về
mặt thể chất, sức khỏe, còn tác dụng hoán cải tâm tính, cải biến tâm linh, và
những tác dụng to lớn hơn kể cả về mặt thể chất (chữa bệnh thần kinh, ung thư,
cao huyết áp... có siêu năng lực…) đều không thể đạt được. Thậm chí có người
còn tẩu hỏa nhập ma, oan gia thay!
Lời khuyên của các vị thiền
sư cho hành giả ở những lớp kiểu này là: thiền – về kỹ thuật chỉ cần 10 phút
lên mạng đọc tài liệu là đủ, có thể tự thực hành ở nhà được, nhưng sau một thời
gian (tùy căn cơ từng người, hoặc khi bạn thấy có những dấu hiệu tâm linh hay
hơi thở bất thường), thì nên đến tìm các đạo sư (tùy việc bạn chọn loại thiền
nào mà chọn thầy của loại đó – các đạo sư chính phái Phật giáo không bao giờ lấy
tiền cho những việc thế này nhé!) hoặc những người có kinh nghiệm hơn để học hỏi.
Hiệu quả tốt nhất của thiền, là khi gắn với những truyền giảng về mặt tâm linh.
Chỉ khi đó, bạn mới có khả năng đạt được lợi lạc nhiều nhất.
Ở Việt Nam, các chùa và đạo
tràng Phật giáo dạy thiền miễn phí (chủ yếu là Thiền quán – Thiền Minh Sát của
Phật Giáo Nguyên Thủy/Thượng Tọa Bộ/Tiểu Thừa, hoặc Thiền quán của Đại Thừa, một
số ít dạy Thiền Yoga của Mật giáo/Phật giáo Tây Tạng).
Kỹ thuật thiền
Đức Phật chia ra 2 loại thiền:
thiền chỉ và thiền quán. Thiền quán là của đạo Phật, mục đích cuối cùng là giải
thoát. Thiền chỉ là thiền ngoại đạo nói chung (của các tôn giáo khác, hoặc cá
nhân tự nghĩ ra… Đức Phật chia nó thành 40 loại đề mục: niệm Phật, niệm pháp,
niệm tăng, niệm thí, niệm giới, niệm thiên…), mục đích cũng đa dạng (đạt trí tuệ,
chữa bệnh, luyện võ, luyện thần thông bát quái, định tâm, …).
Thiền ngoại đạo thường dẫn tới
thiền hữu sắc (có các bậc: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền), thiền vô
sắc (có các bậc: không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi
phi tưởng xứ). Khái quát về thiền ngoại đạo như sau:
-
Tà thiền: tu thiền với mục đích không chân chính để có phép lạ,
cám dỗ mê hoặc người, có thần thông biến hóa tường tận quá khứ tương lai…
-
Thiền của đạo Tiên: tu luyện cho âm khí mất đi, chỉ còn dương
khí sẽ đắc đạo Tiên và có thần thông.
-
Luyện yoga (nhớ rằng không phải phương pháp thiền Yoga của Mật
giáo Tây Tạng): xuất phát từ Bà la môn giáo, mục đích làm toàn thể thân tâm tập
trung hòa làm một với bản thể của trời đất. Có thể đạt những siêu năng lực.
-
Thôi miên: tự thôi miên, ám thị tập thể… là cách tập trung
trường điện từ và điều khiển được chúng tác động lên trường điện từ hoặc các
giác quan, nội tạng của người khác. Các thiền sư hoặc người tập thiền lâu năm đều
có thể có khả năng này. Hình thức này hay dùng để chữa bệnh, hoặc điều tra tâm
lý… nếu tâm không chân chính sẽ dùng để gây họa.
Trong khi tu thiền, trí tuệ
thiền được đánh giá là cực kỳ quan trọng, thậm chí có ý nghĩa sinh tử. Tùy theo
môn phái thiền và mục đích bạn theo học, hãy tìm hiểu và học hỏi để đạt được
tri thức đúng đắn về loại thiền đó. Không có trí tuệ thiền, hoặc hiểu sai, hiểu
nhầm là cực kỳ nguy hiểm, nhất là khi bạn tu luyện thiền của Mật giáo, thiền tạo
siêu năng lực… – hiểu sai có thể dẫn tới mất mạng. Ví dụ, Thiền Minh Sát của Phật
giáo thượng tọa bộ sẽ có 5 giai đoạn. Nếu bạn tự tu thiền, đến một ngày bạn tự
nhiên không còn cảm nhận được bản thân mình, chỉ thấy các luồng khí đi lại ấm/lạnh,
tạo thành sóng lực ở tay, lòng bàn chân, bụng, bạn phải biết mình đang bắt đầu
vào giai đoạn 4 để không thấy sợ hãi hay tự mãn, và biết phải làm gì để hoạnh đạt
được mức cao nhất năng lực và tuyệt kỹ của giai đoạn này (người bình thường sau
5-20 năm tập có thể đạt đến giai đoạn này, tùy căn cơ). Ví dụ khác, tu thiền
Yoga của Mật giáo Tây Tạng, nếu đến một ngày bạn thấy mình nhắm mắt mà vẫn cảm
nhận được mọi vật chuyển động xung quanh – thậm chí cả lá rơi, bạn sẽ làm gì?
Nhớ rằng đừng bao giờ hỏi đạo
sư khác phái bạn đang theo học. Người chân chính sẽ không trả lời bạn. Còn thầy
dỏm (rất tiếc ngày nay đại đa số là loại thầy này) sẽ dẫn bạn càng đi sai đường
mà hệ lụy khôn nguôi.
Thiền
của Phật giáo
(Thiền quán – hay Thiền Minh Sát được coi là
phương pháp thiền nguyên thủy có tính khoa học nhất, nhưng cũng khó nhất. Ngoài
ra mỗi trường phái đạo Phật sẽ có tiểu xảo và lý luận về tọa thiền khác nhau. Ở
đây chỉ trình bày phương pháp phổ biến nhất của Thiền tôn.)
-
Ngồi kiết già hoặc bán già, giữ sống lưng thẳng
tắp, mắt mở 1/3 hoặc nhắm lại, bàn tay để ngửa lên gót chân, tay trái trên tay
phải, hai đầu ngón cái chạm vào nhau, hai hàm răng khép lại, đầu lưỡi chạm vào
lợi hàm trên, thả lỏng tự nhiên, giữ vẻ mặt thư thái.
Phật giáo
nguyên thủy và Mật giáo: nơi ngồi thiền nên thuận lợi cho việc khất thực,
không có côn trùng nhiều, khí hậu không quá nóng hoặc quá lạnh, trong lịch
trình tu dài thì không được phép có điện thoại, internet, tivi... Phòng hạn chế
đồ đạc ở mức tối thiểu để tránh phân tâm. Có bạn đồng tu hỗ trợ hoặc thầy tốt
(với Mật giáo Tây Tạng, sư phụ là bắt buộc – nhưng ở Việt Nam hay Đông Nam Á
nói chung thường cực khó tìm được vị Lạt ma Mật giáo đích thực – toàn những vị
đi Tây Tạng vài khóa, tu thân còn chưa ngộ, đã về mở lớp kiếm tiền, nên hầu như
hành giả không thể được thọ những nghi lễ như truyền giới và thấu hiểu tri thức
đúng đắn để đạt tới trí tuệ thiền cần thiết và tuyệt kỹ do thiền Yoga mang lại).
Trường phái
Trúc Lâm: sử dụng tọa cụ, ngồi trong phòng kín/ít gió và ánh sáng nhẹ,
không có côn trùng, tư thế giống như trên, giữ vẻ mặt vui vẻ, hạnh phúc.
-
Tĩnh tọa vài phút để tâm thanh thản trước khi
chính thức nhập thiền.
-
Khởi động thiền (tùy từng trường phái, có thể
hít vào thở ra, hoặc tụng kinh, hoặc sư phụ hướng dẫn giảng một bài khai tâm…).
Trường phái
Trúc Lâm: hít vào bằng mũi thật sâu rồi thở dài ra bằng miệng 3 lần.
-
Tọa thiền: mỗi trường phái có một vài phương
pháp khác nhau.
Chú ý hơi thở - là công cụ giữ nhịp cho thiền. Quan
tâm tới hơi thở để nâng cao hiệu quả thiền.
Người mới tập sẽ được hướng dẫn cách tập trung vào một
vật (tùy từng trường phái, có thể là một vật nào đó, một điểm cố định phía trước
cách thân 30-50 cm, hơi thở, âm thanh, một câu chú, một câu niệm Phật…)
Trường phái
Trúc Lâm: nhắm mắt hoặc nhìn ra phía trước (một vật hoặc một điểm cố định).
-
Tọa thiền xong, đọc kinh hồi hướng (tùy từng trường
phái).
Trường phái
Trúc Lâm: niệm thầm trong đầu đoạn kinh
“Nguyện đem công
đức này
Hướng về khắp tất
cả
Đệ tử và chúng
sinh
Đều trọn thành
Phật đạo
Nam mô Phật Bổn
Sư Thích Ca Mâu Ni”
-
Xả thiền: làm một số động tác massage toàn thân
để chống nhức mỏi, khơi thông kinh lạc, và quan trọng nhất, để bảo toàn năng lượng
sinh học (tùy từng trường phái sẽ có bài tập khác nhau).
Trường phái Trúc
Lâm: massage bằng cách xoa trên da nhiều lần theo thứ tự từ đầu, mặt, mắt,
tai, cổ, vai, tay, bụng, hông, đầu gối, chân, giãn cột sống, các khớp gối, đến
khi nào hết mỏi thì thôi.
Thiền
của Ki-tô giáo
-
Có thể ngồi kiết già, bán già, hoặc ngồi dựa
lưng trên ghế.
-
Đừng kỳ vọng bất cứ một điều gì.
-
Giữ sống lưng thẳng đứng, hơi thở điều hòa, mắt
nhắm lim dim, miệng tụng mantra (câu chú hay được dùng là “maranathan” – do
John Main đề xuất – có nghĩa là “lạy Chúa xin hãy đến” bằng tiếng Aramiac tiếng
mẹ đẻ của Chúa Jesus, là lời kinh tối cổ của giáo hội Ki-tô). Chỉ tụng lời, đừng
nghĩ đến nghĩa.
-
Chìm vào hư vô.
Sau một thời gian công phu luyện tập, sẽ đạt tới trạng thái
hoàn toàn tĩnh lặng (nhập định), khi đó không cần dùng mantra nữa.
Thiền
theo trường phái khoa học phương Tây
Của
Douglas Harding
-
Nhiều người xếp thành vòng tròn (nếu nhiều hơn một
người).
-
Ngồi xuống hoặc đứng lên, giữ thẳng lưng, mắt
lim dim mở 1/3
-
Nhìn vào mắt bạn tập đối diện hoặc vào chân họ.
Nếu một mình thì nhìn vào chân mình.
-
Im lặng và/hoặc niệm chú trong đầu trong vòng
20-40 phút.
Thiền
siêu việt (kỹ thuật do các học giả châu Âu nghiên cứu Kinh Vệ Đà - Ấn Độ phổ biến
khắp phương Tây từ những năm 60 -70)
-
Ngồi bất kì tư thế nào (có thể dựa lưng) miễn
sao thoải mái dễ chịu, nhắm mắt lại
-
Đọc chú (cách chọn câu mantra phù hợp có thể
tham khảo thêm các tài liệu)
-
Giữ trạng thái an bình 20-40 phút. Luyện ngày 2
lần.
Khó khăn và hiểu nhầm thường gặp
1. Không
phải lúc nào cũng thiền được. Nên ngồi thiền mỗi ngày 1-2 lần, mỗi lần
20-30 phút vào những giờ nhất định. Nên vào sáng và tối, chỗ thanh vắng.
2. Không
nên chỉ chú trọng tới kỹ thuật thiền. Vì kỹ thuật chỉ biến nó thành một
loại công phu kiểu yoga rèn luyện thể chất. Dù về mặt thể chất, ngồi im lặng
cũng giúp giảm căng thẳng thể xác và thư giãn tinh thần, nhưng sẽ mất hoàn toàn
khía cạnh tâm linh – đây mới là cái chính mà thiền nhắm đến.
3. Cực kỳ
khó tập trung vào hơi thở. Khi bạn mới tập, việc ngồi xuống và tập
trung vào từng hơi thở gần như bất khả thi. Có hàng ngàn suy nghĩ, lời nói… xổ
ra tự lúc nào, lấy đi mất sự chú tâm của bạn. Cái này các thiền sư gọi là
“monkey mind” – tâm trí nhảy nhót loạn xạ. Đa số trường phái Phật giáo đều cho
rằng, không thể tránh khỏi các thứ ý nghĩ và xúc cảm viếng thăm bạn, có lúc còn
tràn ngập tâm thức bạn. Nhưng đừng vội xua đuổi chúng, hãy tìm cách quan sát
quá trình xuất hiện và biến mất của chúng. Đừng vội vã sợ hãi hay nôn nóng mong
cầu một trạng thái không còn ý nghĩ nào trong tâm trí ngay. Đôi khi bạn có thể
cảm thấy không vừa ý với các kết quả mang lại hoặc hoàn toàn thất vọng khi nhận
ra trong suốt buổi hành thiền đầu óc mình chỉ toàn hiện ra những chuyện tào lao
vô tích sự. Hãy để mọi thứ thật tự nhiên. Thiền trước tiên giúp thiết lập mối
tương quan giữa bản thân với thực tại. Khi bạn không thể làm gì được khiến
chúng trải dài bất tận, thì cũng đừng vội bình luận gì. Các thiền sư đều từng
trải qua việc này. Phật giáo cho rằng, chỉ cần quan sát các niệm (tư duy) hiện
ra và mất đi – chúng không phải là mình, cũng không phải của mình – vì thế cứ dửng
dưng thôi. Rất đơn giản phải không? Thế nhưng đại đa số chúng ta đều sẽ nhanh
chóng thối chí.
4. Càng
tập càng hành thiền như tập yoga hay thể dục. Nếu thế bạn đã làm mất đi
tác dụng tâm linh thiêng liêng nhất của nó. Bạn mất đi cơ hội hoàn hảo nhất
giúp cải biến tất cả những gì có thể làm phương hại sâu rộng đến sự sống của
mình. Nguyên nhân là do bạn chỉ muốn có kết quả ngay tức khắc. Trong khi thiền
đòi hỏi kiên nhẫn và quyết tâm. Chúng ta chỉ có thể tiến bộ trên con đường thiền
định khi đủ sức tự cải biến chính mình nhanh hơn ảnh hưởng chi phối bởi mọi thứ
hoang mang. Giai đoạn đầu bao giờ cũng dễ, vì lúc đó tâm thần chúng ta chưa đủ
sáng suốt, dễ dàng thấy các hiệu quả mang lại. Nhưng càng luyện tập, chúng ta
càng gặp những khó khăn tinh tế hơn, nên phải khéo léo hơn để loại bỏ chúng –
nhờ đó bạn cũng sẽ thành thạo hơn trong việc tự bảo vệ mình trước gai góc của
thực tại. Đó là lý do tại sao các thiền sư gạo cội khuyên “luôn giữ tinh thần của
một người mới tu tập”. Thiền sư Fabrice Midal khuyên bạn thiền “Đối với việc luyện
tập thì con ngựa tệ nhất lại là con ngựa xuất sắc nhất. Chính sự khiếm khuyết của
bạn mới đúng là những gì sẽ giúp bạn bước vào con đường một cách vững chắc nhất.
Thói thường những người gặp nhiều khó khăn khi luyện tập lại chính là những người
sẽ tìm thấy ý nghĩa sâu xa nhất trong việc tu tập của mình.”
5. Lo sợ
thiền mang lại nguy cơ tự giam mình, tự tách rời với thế giới xung quanh.
Đó là sai lầm chủ yếu của người phương Tây do mù tịt về ý nghĩa của thiền, tức
thực hành thiền mà không có trí tuệ thiền. Triết học phương Tây cho rằng có sự
đối nghịch giữa hai tình trạng ‘năng động’ và ‘bất động’. Sự năng động luôn được
coi trọng, sự bất động bị khinh thường. Đó chỉ là khác biệt về mặt hình thức bề
ngoài. Bản thân hành giả tu thiền sẽ nhận ra, ‘bất động’ được mới là khó, ‘bất
động’ lâu lại càng khó. ‘Bất động’ cần rất nhiều nghị lực và sức khỏe. Do đó,
thiền giúp ta ứng xử một cách thích đáng nhất trước mọi tình huống, cởi mở hơn
với thế giới.
6. Thiền
chỉ cần tự học trong 10 phút là có thể tự thực hành được. Đúng, thực
hành thiền rất đơn giản, chỉ cần 10 phút đọc tài liệu hướng dẫn đúng đắn. Giới
trẻ, đặc biệt ở phương Tây, thường tự học. Nhưng quan điểm của Phật giáo lại
khác. Dù tự học thì sau một thời gian cũng nên tìm một người khác giúp đỡ - một
người đã đạt được nhiều kinh nghiệm trên con đường thiền định (một người tu thiền
lão luyện, hoặc một vị thiền sư chân chính thì càng tốt). Có như thế bạn mới
khám phá ra tất cả sự phong phú của thiền.
7. Ngồi
thiền có nguy hiểm gì không?
Nếu bạn đã đọc các phần trước tôi viết thì hẳn đã có
câu trả lời rồi.
Nguy hiểm hay không tùy vào phương pháp thiền mà bạn tu luyện
(tức trường phái mà bạn đi theo). Một số phương pháp có vận khí hoặc khai mở
các trung tâm năng lượng, gia tăng nội lực… (như thiền của Mật giáo, Bà la môn
giáo, các phái võ thuật phương Đông, tà giáo…) sẽ nguy hiểm nếu không có trí tuệ
đầy đủ hoặc không có đạo sư hướng dẫn. Còn các phương pháp thiền đơn giản chỉ
ngồi và đạt đến sự tĩnh lặng, thư giãn thì không có gì nguy hiểm.
-
HẾT -