Thứ Hai, 29 tháng 6, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 7



Chương 7: Thử thách đầu tiên

Pháp Sư tiến đến bên tôi và lịch sự hỏi tôi cảm thấy thế nào.
Tôi trả lời, “Tốt hơn rồi. Tốt hơn rất nhiều rồi, ôi, chủ nhân của tôi – nhưng ngài tên là gì?”
“Simbri,” ông đáp, “và, như ta đã nói với ngươi bên dòng nước, chức danh của ta là Người Bảo Vệ Chân Truyền của Cánh Cổng. Với nghề nghiệp đó, ta là Bác Sỹ hoàng gia của mảnh đất này.”
“Ngài là bác sỹ hay phù thủy?” tôi cẩn thận hỏi, như thể tôi không nghe rõ lời. Ông ta tò mò nhìn tôi.
“Ta nói là bác sĩ, sẽ tốt cho ngươi và bạn đồng hành của ngươi khi ta biết vài kỹ năng nghề nghiệp. Tuy nhiên ta nghĩ có lẽ ngươi sẽ không còn sống hôm nay, vị khách O của ta – nhưng ngươi tên là gì?”
“Holly,” tôi nói.
“Vị khách O của ta, Holly.”
“Nếu không phải vì lo xa khiến ngài và người phụ nữ Khania tới bờ sông tối tăm kia, chắc chắn chúng tôi đã không còn sống rồi, thưa Simbri đáng kính, lo xa khiến tôi dường như được thưởng thức phép màu ở một nơi cô đơn như thế này. Đó là lý do tại sao tôi nghĩ ngài có lẽ nên được gọi là thầy phù thủy, dù thực tế có lẽ ngài lúc đó đang câu cá ở vùng nước đó.”
“Tất nhiên ta đang câu cá, người lạ Holly ạ - và ta bắt được hai con người.”
“Câu cá ngẫu hứng sao, ngài Simbri?”
“Không, theo kế hoạch, vị khách Holly ạ. Việc làm ăn bằng nghề bác sĩ của ta gồm cả việc nghiên cứu các sự kiện tương lai, vì ta là thủ lãnh của Nhóm Pháp Sư hay Các Nhà Tiên Tri ở mảnh đất này, và gần đây được cảnh báo về chuyến viếng thăm của các ngươi, ta đợi các ngươi tới.”
“Thật li kỳ, cũng vô cùng lịch thiệp. Như vậy ở đây bác sĩ và phù thủy có nghĩa như nhau.”
“Ngươi nói đúng rồi đó,” ông ta trả lời với cái gật đầu nghiêm nghị; “nhưng hãy nói cho ta nếu có thể, làm sao các ngươi tìm ra đường tới một vùng đất các vị khách chưa hề lang thang tới?”
“Ồ!” tôi trả lời, “có lẽ chúng tôi là du khách, hay có lẽ chúng tôi cũng từng nghiên cứu y học.”
“Ta nghĩ các ngươi hẳn phải nghiên cứu nó rất sâu, vì nếu không, các ngươi không thể sống sót để vượt qua dãy núi kia mà tìm kiếm – bây giờ các ngươi tìm kiếm gì nhỉ? Bạn đồng hành của ngươi nói là một nữ hoàng - ở đó, trên bờ bên dòng nước xiết ấy.”
“Cậu ấy à? Cậu ấy nói thế thật sao? Phải, thật kì lạ vì cậu ấy có vẻ như đã tìm thấy người đó, chắc chắn chính là người phụ nữ có phong thái hoàng tộc tên Khania kia, người đã nhảy xuống dòng nước cứu chúng tôi, đó hẳn phải là một nữ hoàng.”
“Nàng là một nữ hoàng, và là một nữ hoàng vĩ đại, vì ở vùng này Khania có nghĩa là nữ hoàng, dù sao đi nữa, anh bạn Holly ạ, một người đang nằm vô tri lại có thể nói được điều này, ta không biết nữa. Ta cũng không biết làm sao ngươi nói được ngôn ngữ của chúng ta.”
“Thật đơn giản, vì ngôn ngữ ngài nói rất lâu đời, thật may ở đất nước tôi, tôi được nghiên cứu và dạy về nó rất nhiều. Đó là tiếng Hy Lạp, nhưng dù nó vẫn được nói trên khắp thế giới, tôi không biết làm sao nó lại tới được dãy núi này.”
“Ta sẽ nói cho ngươi,” ông ta trả lời. “Nhiều thế hệ trước, một kẻ chinh phạt vĩ đại sinh ra từ một quốc gia nói ngôn ngữ này, gây chiến suốt từ đất nước đó tới phía nam của chúng ta. Ông ấy bị buộc phải quay về, nhưng một vị tướng của ông thuộc chủng tộc khác vẫn tiến lên và vượt qua dãy núi, đánh bại tộc người của vùng đất này, và mang tới ngôn ngữ của chủ nhân của ông ta cùng vị thần ông ta thờ phụng. Ông ấy đã xây dựng triều đại của mình ở đây, và nơi này vẫn còn lưu lại, do bị bao quanh bởi sa mạc và núi tuyết không có đường đi, chúng ta không trao đổi với thế giới bên ngoài.”
“Đúng, tôi biết một chút về câu chuyện này, kẻ chinh phạt tên là Alexander, đúng không?” tôi hỏi.
“Đúng vậy, còn vị tướng tên là Rassen, quê ở Ai Cập, các bản ghi chép nói như vậy. Các con cháu của ông ấy giữ vương miện tới tận ngày nay, và Khania mang huyết thống của ông ấy.”
“Vị nữ thần ông ấy thờ phụng gọi là thần Isis phải không?”
“Không,” ông ấy trả lời, “nàng gọi là Hes.”
“Nhưng đó là tên khác của Isis thôi.” Tôi ngắt lời, “Hãy nói cho tôi, việc thờ phụng nữ thần vẫn tiếp tục ở nơi đây chứ? Tôi hỏi thế vì giờ việc đó đã biến mất ở Ai Cập, quê hương của việc thờ phụng này.”
“Có một ngôi đền trên Ngọn Núi đằng kia,” ông ta thờ ơ đáp, “trong đó là các nam nữ linh mục thực hiện các nghi lễ cổ xưa. Nhưng vị thần thực sự của dân tộc này ngày nay, cũng như từ rất lâu trước thời Rassen chinh phạt họ, là lửa ngự trên chính Ngọn Núi này, chính nó hết lần này tới lần khác bùng lên và giết chết họ.”
“Và một nữ thần ngự trong ngọn lửa ư?” tôi hỏi.
Ông ta lại dò xét gương mặt tôi bằng đôi mắt lạnh lẽo, rồi trả lời – “Người lạ Holly, ta không biết gì về nữ thần nào hết. Ngọn Núi đó rất thiêng liêng, muốn tìm hiểu bí mật về nó đều phải chết. Tại sao ngươi lại hỏi những câu như vậy?”
“Chỉ vì tôi rất tò mò với những tôn giáo xa xưa, và nhìn thấy biểu tượng của Sự Sống trên đỉnh đằng kia, nên tới đây để nghiên cứu về tôn giáo của ngài, quả thực truyền thống vẫn được bảo trì giữa những người có học vấn.”
“Thế thì hãy từ bỏ nghiên cứu đó đi, anh bạn Holly ạ, vì đường tới đó đi qua bàn chân của bầy chó săn tử thần, và ngọn giáo của những kẻ hoang dã. Quả thực cũng chẳng có gì có học vấn.”
“Gì cơ, thưa Bác Sĩ, bầy chó săn tử thần là gì vậy?”
“Tất nhiên là những con chó, theo phong tục cổ xưa của chúng ta, tất cả những kẻ chống lại luật pháp hay ý chí của Khan, đều bị quăng đi để chúng xé thành từng mảnh.”
“Ý chí của Khan! Đó là chồng của Khania cháu ngài phải không?”
“Đúng,” ông ta trả lời, “họ hàng của nàng, là kẻ thống trị một nửa vùng đất này. Giờ họ và vùng đất là một. Nhưng ngươi đã nói đủ rồi; ta tới đây để nói rằng thức ăn của ngươi đã sẵn sàng,” và ông ta quay người rời khỏi căn phòng.
“Một câu hỏi nữa, người bạn Simbri. Tôi đã tới phòng này như thế nào, còn bạn đồng hành của tôi đâu rồi?”
“Ngươi được mang tới đây khi đang ngủ, nhìn đi, thay đổi làm ngươi khỏe hơn đấy. Ngươi không nhớ gì sao?”
“Không, không nhớ chút nào,” tôi nghiêm túc trả lời. “Nhưng còn bạn tôi?”
“Anh ta cũng khỏe hơn. Khania Atene chăm sóc anh ta.”
“Atene ư?” Tôi nói. “Đó là một cái tên Ai Cập rất cổ xưa. Có nghĩa là Đĩa Mặt Trời, và một phụ nữ mang tên này hàng nghìn năm trước rất nổi tiếng vì nhan sắc của cô ấy.”
“Phải đấy, thế cháu gái Atene của ta không xinh đẹp sao?”
“Tôi có thể nói thế nào đây, ông bác O của Khania,” tôi mệt mỏi trả lời, “khi tôi hiếm khi nhìn thấy cô ấy?”
Sau đó ông đi ra, hiện tại những người hầu da vàng im lặng của ông đã mang thức ăn đến cho tôi.
Sau đó tới buổi sáng, cánh cửa lại mở ra, không có người đi theo, Khania Atene đi tới, đóng và chốt cánh cửa lại sau mình. Hành động này vẫn không trấn an tôi, nhổm dậy trên giường, tôi chào cô ấy tốt nhất có thể, dù trong lòng đầy sợ hãi. Cô ấy dường như đọc được nghi ngại của tôi, vì cô nói – “Nằm xuống đi, đừng sợ. Hiện giờ ngươi sẽ không bị ta làm hại đâu. Nào, hãy nói cho ta, người đàn ông tên Leo là gì với ngươi? Con trai ngươi ư? Không, không thể nào, vì – tha thứ cho ta – ánh sáng không sinh ra từ tăm tối.”
“Tôi luôn luôn nghĩ nó được sinh ra như thế, Khania. Nhưng nàng đã đúng; cậu ấy là con nuôi của tôi, và là người tôi yêu thương.”
“Nói đi, các ngươi tìm kiếm gì ở đây?” cô ấy hỏi.
“Khania, chúng tôi tìm kiếm bất cứ thứ gì Định Mệnh mang tới cho chúng tôi trên Ngọn Núi có ánh lửa trên đỉnh đằng kia.”
Gương mặt cô tái đi trước những lời đó, nhưng cô vẫn trả lời bằng giọng trấn định – “Thế thì các ngươi sẽ chẳng tìm thấy gì ở đó ngoài địa ngục, nếu quả thực các ngươi không tìm ra nó trước khi tới sườn núi được đám người hoang dã bảo vệ. Phía đó là Học Viện Hes, và nếu xâm phạm vào Nơi Thiêng Liêng của nó, bất kỳ ai cũng phải chết, chết trong ngọn lửa cháy vĩnh cửu.”
“Thế ai cai quản học viện này hả Khania – một nữ tu sĩ ư?”
“Đúng, một nữ tu sĩ, ta chưa bao giờ thấy mặt, vì bà ta già tới mức bà ta phải tự che mặt lại khỏi những con mắt tò mò.”
“A! Bà ta tự che mặt sao?” Tôi đáp, máu xuyên qua tĩnh mạch tôi thật li kì, tôi đang nhớ tới một người khác cũng già như vậy và bà ấy cũng tự che mặt khỏi những con mắt tò mò. “Phải thôi, che hay không che, chúng tôi đều muốn tới thăm bà ấy, tin rằng chúng tôi sẽ được chào đón.”
“Các ngươi sẽ không được chào đón,” cô nói, “vì đó là trái luật, và ta sẽ không muốn tay mình dính máu các ngươi.”
“Ai mạnh hơn,” Tôi hỏi cô ấy, “nàng, Khania, hay vị nữ tu sĩ của Ngọn Núi kia?”
“Ta mạnh hơn, Holly, vì ngươi cũng được đặt tên như vậy đó thôi, phải không? Hãy nhìn đi, nếu cần ta có thể tập hợp được sáu mươi nghìn người trong chiến tranh, trong khi bà ta chả có gì ngoài đám linh mục và những bộ lạc tàn bạo chưa qua đào tạo.”
“Thanh gươm là sức mạnh duy nhất trên thế gian,” tôi đáp. “Bây giờ, hãy nói cho tôi, vị nữ tu này từng tới thăm đất nước Kaloon chưa?”
“Chưa bao giờ, chưa bao giờ, do hiệp ước cổ xưa ban hành sau cuộc chiến tranh khốc liệt cuối cùng từ nhiều thế kỷ trước giữa Học Viện và dân tộc trên Đồng Bằng, nó được ban bố và tuyên thệ rằng bà ấy sẽ đặt chân qua con sông thôi, điều này có nghĩa là chiến tranh sẽ kết thúc giữa chúng tôi, và thống trị như người chiến thắng trước cả hai bên. Tương tự như vậy, sẽ cứu giúp lẫn nhau khi không được bảo vệ, họ mang người chết đi chôn cất, hoặc vì mục đích cao cả nào đó như thế, không vị Khan hay Khania nào của Kaloon được trèo lên Ngọn Núi.”
“Thế thì ai mới là chủ nhân thực sự - Khan của Kaloon hay người đứng đầu Học Viện Hes?” Tôi lại hỏi.
“Trong những vấn đề tâm linh, là nữ tu sĩ của Hes, đó là nhà tiên tri Oracle của chúng tôi và tiếng nói của Thượng Đế. Trong những vấn đề thế tục, là Khan của Kaloon.”
“Khan. A! Nàng đã kết hôn hay chưa?”
“Đúng,” cô đáp, gương mặt đỏ bừng. “Và ta sẽ nói cho ngươi những gì ngươi phải sớm biết, ta là vợ của một kẻ điên cuồng, và hắn ta rất căm ghét ta.”
“Tôi đã hiểu được từ lần trước rồi, thưa Khania.”
Cô ấy nhìn tôi với cặp mắt như muốn đâm thủng tôi.
“Gì cơ! Bác ta, Pháp Sư, kẻ được gọi là Người Bảo Vệ đó, đã nói cho ngươi rồi ư? Không, ngươi đã nhìn thấy, ta biết ngươi đã nhìn thấy, lẽ ra tốt nhất nên giết chết ngươi, ôi! Ngươi đang nghĩ gì về ta thế?”
Tôi không trả lời, vì thật sự tôi không biết phải nghĩ gì nữa, tôi cũng sợ lời thừa nhận vội vàng sẽ nhanh chóng mang tới hận thù.
“Ngươi phải tin rằng,” cô tiếp tục, “ta luôn căm ghét đàn ông, ta thề đó là sự thật – miệng ta trong sạch hơn tuyết trên ngọn núi kia, ta, Khania của Kaloon, người họ gọi là Trái Tim Băng Giá, nhưng đó không phải là việc đáng xấu hổ.” Và lấy tay che mặt, cô rên rỉ trong nỗi cay đắng đau đớn.
“Không,” tôi nói, “có lẽ có lý do hay lời giải thích, nếu nàng vui lòng nói chúng ra.”
“Người lầm đường lạc lối, lý do là vậy đấy; vì ngươi biết quá nhiều, ngươi sẽ hiểu chúng thôi. Giống như chồng ta, ta cũng trở nên điên cuồng. Khi lần đầu tiên ta nhìn thấy gương mặt người đồng hành với ngươi, khi kéo anh ta khỏi con sông, sự điên cuồng đã xâm chiếm ta, và ta – ta – “
“Yêu anh ta,” tôi gợi ý. “Phải rồi, những chuyện như vậy trước đây vẫn xảy ra với những ai không bị điên.”
“Ôi!” cô ấy tiếp tục, “còn hơn cả tình yêu; ta đã được sở hữu, và đêm đó ta không biết đã làm gì. Một thứ Quyền Năng điều khiển ta; Định Mệnh đã trói buộc ta, cuối cùng ta là của chàng, là duy nhất của chàng mà thôi. Phải, ta là của chàng, và ta thề chàng sẽ là của ta;” lời tuyên bố điên cuồng ấy thật nguy hiểm trong hoàn cảnh này, cô ấy quay đi và chạy trốn khỏi căn phòng.
Cô ấy đi rồi, và sau một lúc vật lộn vì những chuyện như vậy, tôi lại kiệt sức. Niềm khao khát đột ngột này đã tới làm chủ cô ấy như thế nào? Khania này là ai và là gì đây, tôi băn khoăn tự hỏi – quan trọng hơn, Leo muốn tin cô ấy là ai và là gì? Giá như tôi có thể ở bên cậu trước khi cậu nói những lời hay làm những hành động không thể rút lại được.
Ba ngày trôi đi, trong thời gian này tôi không nhìn thấy Khania nữa, tôi được Simbri, vị Pháp Sư thông báo cho biết, cô đã quay lại thành phố để chuẩn bị cho chúng tôi, các vị khách của cô ấy. Tôi cầu xin ông ta cho phép tôi gặp lại Leo, nhưng ông ta lịch sự trả lời, dù rất kiên quyết, rằng con nuôi của tôi sẽ tốt hơn khi không có tôi. Giờ đây tôi bắt đầu nghi ngờ, sợ rằng những điều có hại đã xảy ra với Leo, dù chưa biết làm sao khám phá ra sự thật. Trong lúc lo lắng, tôi cố truyền lời tới cậu ấy, viết trên một tờ trong quyển sách bỏ túi chống thấm nước, nhưng người hầu da vàng từ chối chạm vào nó, còn Simbri cộc lốc nói cậu ấy không có gì để làm với mấy bản ghi chép vì cậu không thể đọc. Cuối cùng, vào đêm thứ ba, tôi quyết định mạo hiểm rời khỏi phòng, tôi muốn thử đi tìm cậu ấy.
Lúc này tôi đã có thể đi bộ tốt, vì thực sự đã gần khỏe lại. Vì thế khoảng nửa đêm, khi trăng lên cao, vì tôi không còn ánh sáng nào khác, tôi bò khỏi giường, mặc đống quần áo vào, lấy một con dao – thứ vũ khí duy nhất tôi sở hữu – mở cửa phòng và bước đi.
Khi tôi được mang khỏi căn phòng bằng đá Leo và tôi đã ở cùng nhau, tôi đã ghi nhớ đường. Thoạt tiên tính từ nơi tôi đang ngủ, có một lối đi dài khoảng ba mươi bước, vì tôi đã đếm bước chân của những người khiêng tôi. Sau đó rẽ trái, đi mười bước nữa, cuối cùng tới cầu thang chạy ra nơi nào không rõ, rẽ phải sẽ dẫn tới căn phòng cũ của chúng tôi.
Tôi lén lút đi bộ trên lối đi dài, dù khá tối, nhưng vẫn tìm được lối rẽ trái, rồi đi theo tới khi đến ngã rẽ thứ hai sang phải, nơi có một hành lang có cầu thang nhô ra. Tôi rón rén bò qua rồi rút lui vội vã, vì trước cửa phòng Leo đã bị khóa từ bên ngoài, tôi có thể thấy ánh đèn cô ấy đang cầm trên tay, Khania đang đứng ở đó.
Suy nghĩ đầu tiên của tôi là bay ngay trở lại phòng mình, nhưng tôi đã từ bỏ, vì chắc chắn tôi sẽ bị phát hiện. Vì thế tôi quyết định, nếu cô ta phát hiện ra tôi, phải đối mặt và nói rằng tôi đang thử đi tìm Leo, để xem cậu thế nào. Vì vậy, tôi cúi đầu bên bức tường, chờ đợi mà tim đập bình bịch. Tôi nghe thấy cô ấy quét qua lối đi, và bắt đầu xuống cầu thang.
Giờ tôi nên làm gì? Cố gắng chạm tới Leo đều vô dụng, vì cô ta đã khóa cửa, chìa cô ta giữ. Trở lại giường ư? Không, tôi muốn đi theo cô ấy, nếu chúng tôi gặp nhau, có thể đưa ra các lý do tương tự. Như thế tôi sẽ thu được chút tin tức, hoặc có lẽ - một nhát dao.
Tôi đi vòng qua góc và lên cầu thang, không hề tạo ra tiếng động y như một con rắn. Lối đi nhiều và quanh co, như trong tháp nhà thờ, nhưng cuối cùng tôi đã tới đỉnh, nơi đó có một chỗ đứng nhỏ, mở ra một cánh cửa. Đó là một cánh cửa rất cổ xưa; ánh sáng truyền qua các vết nứt nơi những tấm ván đã bị mục nát, từ căn phòng đó vọng ra những âm thanh của Pháp Sư và Khania.
“Cháu đã biết được gì rồi, cháu gái của ta?” Tôi nghe thấy ông ta hỏi và cũng nghe thấy cô ấy trả lời – “Ít lắm. Rất ít.”
Rồi trong cơn khát thông tin, tôi trở nên táo bạo, vụng trộm tới cánh cửa, nhìn xuyên qua một trong những khe nứt trên gỗ. Đối diện với tôi, trong ánh đèn sáng trưng tuôn ra từ một cây đèn treo, bàn tay cô ấy đặt lên bàn nơi Simbri ngồi, Khania đang đứng. Thực sự cô ấy rất lộng lẫy, vì cô mặc áo khoác màu tía của hoàng tộc, trên trán là mũ miện nhỏ bằng vàng, bên dưới những lọn tóc xoăn chảy như suối xuống cổ và ngực. Nhìn cô ấy, tôi đoán ngay được cô ấy đã tự sắp xếp như thế vì lý do bí mật nào đó, làm tăng vẻ đẹp và ân sủng bằng mọi nghệ thuật mà một phụ nữ đều biết. Simbri đang nhìn cô ấy tha thiết, với nỗi sợ hãi và nghi ngại viết rõ trên từng đường nét lạnh lẽo và bình thản của ông ta.
“Thế chuyện gì đã xảy ra giữa các ngươi?” ông ta hỏi, chăm chú nhìn cô ấy.
“Ta đã hỏi chàng gần hết những lý do tới đây, và tổng kết lại câu trả lời là đi tìm một phụ nữ xinh đẹp nào đó – chàng không muốn nói thêm nữa. Ta hỏi liệu cô ta có đẹp hơn ta không, chàng lịch sự đáp – tôi nghĩ không gì hơn được, thật khó nói, nhưng nàng đã từng rất khác. Sau đó ta nói dù ta không có nghĩa vụ phải nói về chuyện này, nhưng không phụ nữ nào ở Kaloon mọi người biết lại đẹp như ta; hơn nữa, ta là người cai trị vùng đất này, và chính ta chứ không ai khác đã cứu anh ta trong nước. Phải, ta nói thêm, trái tim mách bảo ta rằng ta chính là người phụ nữ chàng tìm.”
“Được rồi, cháu gái,” Simbri không kiên nhẫn nói, “Ta không muốn nghe về những nghệ thuật cháu đã sử dụng – rất tốt, không nghi ngờ gì nữa. Sau đó thì sao?”
“Sau đó chàng nói có lẽ vậy, vì chàng nghĩ người phụ nữ này đã tái sinh, rồi nghiên cứu ta một lúc, hỏi ta đã từng ‘đi xuyên qua ngọn lửa’ chưa. Ta đáp ngọn lửa duy nhất ta từng đi qua là ngọn lửa của linh hồn, giờ ta đã ngự trong đó. Chàng nói, ‘Hãy cho ta xem tóc nàng’, và ta đặt một lọn tóc trong tay chàng. Chàng làm nó rơi xuống, rồi từ chiếc túi nhỏ chàng đeo trên cổ lấy ra một nắm tóc – ôi! Simbri, bác của ta, mái tóc đẹp nhất mắt ta từng thấy, vì nó mềm mại như bạc, dài từ vương miện của ta tới đất. Hơn thế, không cánh chim nào trong ánh mặt trời tỏa sáng lấp lánh như nắm tóc đó.”
“’Tóc nàng rất đẹp,’ chàng nói, ‘nhưng nhìn này, chúng không giống nhau.’”
“’Có lẽ vậy,’ ta đáp, ‘vì không có phụ nữ nào có lọn tóc như thế.’”
“’Nàng nói đúng’, chàng đáp, ‘vì nàng – người ta đang tìm kiếm – còn hơn cả một phụ nữ.’”
“Sau đó – sau đó – dù cháu cố thử mọi cách, chàng cũng không nói gì nữa, vậy đấy, ta cảm thấy căm ghét thứ Hư Vô nảy sinh trong lòng mình, và sợ sẽ thốt ra những lời không nên nói, ta đã bỏ đi. Giờ ta ra lệnh cho ngươi, hãy tìm đống sách vở để mở sự thông thái của người ra, và nói cho ta biết về người phụ nữ chàng đang tìm kiếm, cô ta là ai, cô ta ở đâu. Ôi! Hãy tìm nhanh lên, ta sẽ tìm ra cô ta và – giết chết cô ta nếu có thể.”
“Được, nếu cháu có thể,” Pháp Sư trả lời, “và nếu cô ta còn sống để giết. Nhưng chúng ta bắt đầu tìm kiếm ở đâu đây? Bây giờ, có bức thư từ Ngọn Núi được linh mục đứng đầu Oros gửi tới cung điện của cháu lúc trước phải không?” – ông ta chọn một tấm giấy da từ đống trên bàn và nhìn cô ấy.
“Hãy đọc đi,” cô nói, “Ta muốn nghe lại nó.”
Và ông ta đọc lên:
“Từ Hesea nơi Cung Điện Ngọn Lửa, gửi tới Atene, Khania của Kaloon.
Em gái ta – báo với ta có hai khách lạ người phương Tây sẽ du hành tới vùng đất của ngươi, tìm kiếm nhà tiên tri Oracle của ta, họ có thể sẽ đặt câu hỏi về người. Vào ngày đầu tiên của tuần trăng kế tiếp, ta ra lệnh ngươi và Simbri, bác cả của ngươi, vị Pháp Sư thông thái, Người Bảo Vệ Cánh Cổng, phải tới quan sát con sông trong vực thẳm dưới chân con đường cổ xưa, vì các khách lạ sẽ đi theo lối đó. Hãy giúp họ mọi thứ và mang họ an toàn tới Ngọn Núi, nhớ rằng ta sẽ giữ ngươi và bác ngươi vì lợi ích. Bản thân ta sẽ không gặp họ, vì làm vậy sẽ phá vỡ hiệp ước về quyền lực giữa chúng ta, hiệp ước nói Hesea của chốn Linh Thiêng sẽ không tới lãnh thổ Kaloon, để không gây ra chiến tranh. Nhưng việc các ngươi đến đã được chỉ định.”
“Có vẻ như,” Simbri nói, đặt bức thư da xuống, “không có cơ hội cho những kẻ lang thang này, vì Hes đang đợi họ.”
“Đúng, họ là những kẻ lang thang không may, vì trái tim ta cũng chờ đợi một trong số họ. Nhưng Hesea không thể là người phụ nữ kia, vì bác đã biết bà ta.”
“Có nhiều phụ nữ trên Ngọn Núi,” Pháp Sư nói bằng giọng khô khan, “nếu quả thực phụ nữ nào cũng làm thế với chuyện này.”
“Ít nhất ta sẽ làm thế, chàng sẽ không tới Ngọn Núi.”
“Hes rất nhiều quyền năng, cháu gái ạ, đằng sau những lời nhẹ nhàng này của bà ấy là lời đe dọa đáng sợ. Ta nói bà ta rất hùng mạnh vì tuổi tác và có nhiều người phục vụ trên mặt đất và trong không gian, kẻ báo cho bà ta biết những người đàn ông này sẽ đến, cũng sẽ cảnh báo bà ta về những gì xảy ra với họ. Ta biết điều đó, người căm ghét bà ta chính là hoàng tộc Rassen suốt nhiều thế hệ của cháu. Đừng ngăn cản bà ta thì sẽ không có gì tồi tệ xảy ra với tất cả chúng ta, vì bà ta là một linh hồn và rất kinh khủng. Bà ta nói đã định trước là họ sẽ tới – “
“Và ta nói đã định trước là chàng sẽ không tới. Hãy để tên kia đi nếu hắn muốn.”
“Atene, hãy thẳng thắn đi, cháu định làm gì với người đàn ông tên Leo kia – anh ta sẽ trở thành người yêu của cháu sao?” Pháp Sư hỏi.
Cô ta nhìn thẳng vào mắt ông ấy, trả lời kiên quyết – “Không, ta muốn chàng trở thành chồng ta.”
“Trước tiên anh ta cũng phải muốn thế đã, nhưng có vẻ sẽ không như vậy. Ngoài ra một phụ nữ làm sao có thể có hai chồng?”
Cô ấy đặt tay lên vai ông và nói – “Ta không có chồng. Bác biết rõ điều đó mà, bác Simbri. Ta giao nhiệm vụ cho bác vì mối quan hệ huyết thống gần gũi của chúng ta, hãy bày cách khác cho ta đi – “
“Có lẽ chúng ta còn gần gũi hơn trong quan hệ giết người! Không, Atene, ta sẽ không làm; tội lỗi của cháu đã đè nặng lên đầu ta rồi. Cháu rất xinh đẹp, hãy giữ người đàn ông đó trong cái lồng của cháu nếu cháu muốn, hoặc để anh ta đi, tốt hơn là đi thật xa.”
“Ta không thể để chàng đi. Nếu có thể ta đã làm rồi. Ta yêu chàng cũng như ta ghét kẻ chàng yêu, nhưng có sức mạnh nào đó làm trái tim chàng cứng lại trước ta. Ôi! Hỡi Pháp Sư vĩ đại, bác chỉ cần hé nhìn và thì thào, bác có thể đọc được tương lai và quá khứ, hãy nói cho ta những gì bác biết từ những vì sao và những lời tiên tri.”
“Ta đã tìm kiếm qua nhiều bí mật, hàng giờ mệt nhọc và biết điều này, Atene,” ông ta trả lời. “Cháu đã đúng, vận mệnh của người đàn ông đó bị buộc chặt vào cháu, nhưng giữa cháu và anh ta có một bức tường rất lớn mà ta không thể nhìn xuyên qua và những người thân của ta cũng không trèo qua được. Nhưng ta cũng được nói cho biết rằng cháu và anh ta sẽ chết – đúng, ta cũng thế, rất gần nhau.”
“Thế thì chết đi thôi,” cô kêu lên trong sự kiêu hãnh ủ ê, “như thế ít ra ta sẽ nhổ đi được nỗi đam mê này.”
“Không chắc,” ông ấy trả lời, “vì ta nghĩ Quyền Năng sẽ đi theo chúng ta thậm chí xuống cả vực sâu tăm tối của địa ngục. Ta cũng nghĩ mình vẫn cảm nhận được ánh mắt không ngủ của Hes đang dõi theo linh hồn bí mật của chúng ta.”
“Thế thì hãy làm chúng bị mù trong cát bụi ảo tưởng – như bác có thể. Ngày mai cũng vậy, đừng nói gì về giới tính của họ, hãy gửi sứ giả tới Ngọn Núi và nói với Hesea rằng hai khách lạ già nua đã tới – bác nhấn mạnh vào ‘già’ – nhưng họ rất ốm yếu, vì chân tay bị gẫy khi qua sông, khi nào họ lành trở lại, ta sẽ gửi họ tới theo yêu cầu của vị tiên tri Oracle của bà ấy – khoảng ba vòng trăng nữa. Không chừng bà ta sẽ tin bác, và sẵn lòng chờ đợi; hoặc nếu không, ít ra cũng không thể nói gì. Cháu phải đi ngủ nếu không đầu cháu sẽ vỡ ra mất. Hãy cho cháu viên thuốc để nghỉ ngơi không mộng mị, vì chưa bao giờ cháu cần nó như lúc này, cháu cũng đang cảm thấy có ánh mắt trên người cháu,” và cô ấy liếc về phía cửa.
Sau đó tôi rời đi, không quá sớm, vì khi tôi bò xuống lối đi tối đen, tôi nghe thấy tiếng cửa mở phía sau.
Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 6



Chương 6: Trong Cánh Cổng

Ôi! Phi người vào không trung nào! Cú rơi thế này dân gian cho là phải mất ý thức, nhưng tôi có thể khẳng định chắc chắn rằng điều này không đúng. Chưa bao giờ đầu óc và nhận thức của tôi lại sống động hơn lúc đi từ sông băng vỡ xuống đất, chưa bao giờ một hành trình ngắn ngủi lại mất thời gian nhiều hơn thế. Tôi thấy trên sàn trắng, một cái gì đó còn sống, nhảy lên xuyên qua không gian trống trải để gặp tôi, rồi sau đó – hết!
Đụng rồi! Tại sao, chuyện gì thế này? Tôi vẫn còn sống. Tôi ở trong nước, vì tôi có thể cảm thấy sự lạnh lẽo của nó, và đi xuống, đi xuống, tới khi tôi nghĩ mình sẽ không bao giờ nhô lên được nữa. Nhưng tôi đã nhô lên, dù phổi của tôi đã sắp nổ tung. Khi nổi lên trên mặt, tôi nhớ vụ va đụng, nó nói cho tôi biết mình vừa đi xuyên qua băng. Thế nên tôi lại chạm vào bề mặt băng lần nữa. Ôi! Cứ nghĩ rằng sau khi đã sống sót quá nhiều, tôi cần phải chết đuối như con mèo dưới tảng băng. Bàn tay tôi chạm vào nó. Nơi đó phía trên tôi, màu trắng tỏa sáng như gương. Thượng Đế phù hộ! Đầu tôi xuyên qua; trong cái hẻm trú thấp tè này, đúng là một màng phim không dày quá một xu tạo bởi sương giá lóng lánh đêm hôm trước. Tôi nhô lên khỏi chỗ sâu và bắt đầu nhìn vào chính mình, vẫn còn đang ngâm chân trong nước.
Rồi tôi nhìn thấy cảnh tượng vui nhất mắt mình từng thu được, bên phải, không quá mười thước, nước đang rỏ xuống từ râu tóc, là Leo. Leo còn sống, cậu phá vỡ lớp băng mỏng bằng tay như vừa vật lộn thoát khỏi con sông sâu hun hút này để lên được bờ.2 Cậu ấy cũng nhìn thấy tôi, đôi mắt xám của cậu như bắt đầu rời khỏi đầu.
2 Thông thường, như chúng tôi sau đó hiểu ra, ở chỗ này con sông rất nông; chỉ sâu một hai feet. Chính vụ lở tuyết đã cải tạo lại nó bằng hàng đống tuyết rơi xuống làm nó dâng thêm rất nhiều feet. Vì thế chính nhờ vụ lở tuyết từng suýt chôn vùi chúng tôi, chúng tôi đã thực sự cứu được mạng mình, vì nếu nó vẫn chỉ ở độ sâu như bình thường, chúng tôi đã bị nát thành từng mảnh khi đụng vào hàng đống đá tảng. – L.H.H.
“Vẫn sống, cả hai ta, và đã qua được vách đá rồi!” cậu thét lên một tiếng hoan hỉ như chuông ngân. “Cháu đã nói với bác rồi, chúng ta đang được chỉ dẫn.”
“Được rồi, nhưng đi đâu đây?” tôi trả lời khi đang chiến đấu theo cách của mình trước mảnh băng.
Rồi tôi nhận ra chúng tôi không đơn độc nữa, vì trên bờ sông, cách chúng tôi khoảng ba mươi thước, hai thân ảnh đang đứng, một người đàn ông chống cây gậy dài và một phụ nữ. Ông ta là một người rất già, vì mắt đã chai lại có sừng, tóc trắng như tuyết, râu treo lủng lẳng trước vai và ngực cong cong, những đường nét mỉa mai đầy nếp nhăn đều vàng như sáp. Họ như đang đeo mặt nạ người chết được cắt bằng đá cẩm thạch. Đứng nơi đó, mặc chiếc áo choàng lụng thụng của thầy tu, dựa người trên cây gậy, ông ta vẫn đứng im như tượng và quan sát chúng tôi. Tôi đã ghi nhớ toàn bộ, từng chi tiết, dù lúc đó tôi không biết mình đang làm vậy, khi chúng tôi phá đường xuyên qua lớp băng hướng về họ, sau đó toàn bộ bức tranh đã được tôi tái hiện. Tôi cũng nhìn thấy người phụ nữ, rất cao lớn, đang chỉ vào chúng tôi.
Càng gần bờ sông, đúng hơn là gần kè đá của con sông, bề mặt càng ít băng, vì ở đó dòng chảy rất nhanh. Thấy vậy, chúng tôi lại gần nhau và bơi cạnh nhau để giúp nhau nếu cần. Điều đó rất cần thiết, vì ở rìa dòng nước xiết, sức lực phục vụ tôi bao lâu nay dường như rời bỏ tôi, và tôi trở nên vô dụng; bị tê cóng trong nước lạnh buốt giá. Quả thật, nếu không có Leo túm lấy quần áo tôi, tôi nghĩ mình đã bị cuốn đi theo dòng nước tới chỗ chết. Hỗ trợ tôi được một lúc, cậu ấy bảo – “Cháu đang đi theo. Hãy giữ lấy đầu sợi dây.”
Thế là tôi nắm chặt lấy dải da của con bò đang trôi nhanh về phía cậu ấy, tay cậu được giải thoát, Leo thực hiện một nỗ lực tuyệt vời cuối cùng để giữ được cả hai chúng tôi khỏi bị hút xuống dưới, vì chúng tôi đang bị cản trở bởi đống quần áo dày ngâm nước như khối chì kéo chúng tôi xuống dưới. Hơn thế, cậu thực hiện thành công ở nơi đến cả vận động viên bơi lội yếu hơn cũng phải thất bại. Tôi vẫn tin chúng tôi sắp chết đuối, vì ở chỗ này nước chảy như máy xay đang chạy đua, nếu không có người đàn ông trên bờ, nhìn thấy hoàn cảnh của chúng tôi nên giục giã người phụ nữ, rồi chạy tới với tốc độ đáng kinh ngạc ở tuổi đó, từ một chỗ trên hòn đá cách dòng nước vài thước, khi chúng tôi bị cuốn qua đó, ông ta ngồi xuống, giơ cây gậy dài về phía chúng tôi.
Trong nỗ lực tuyệt vọng, Leo bám lấy nó khi chúng tôi đi qua, lăn qua lăn lại cùng nhau, và giữ được. Chúng tôi đánh đu vòng tròn trong xoáy nước, thấy bàn chân bị đập xuống, cọ xát và va vào đá. Nhưng vẫn bám chặt cây gậy cứu rỗi, đầu kia của nó được ông già nắm lấy như ốc bám vào đá, trong khi người phụ nữ bám lấy ông ấy, chúng tôi hồi phục, một phần nhờ tảng đá che chở, loạng choạng bơi về phía bờ. Nằm dài ra – vì chúng tôi vẫn trong tình cảnh rất nguy hiểm – người đàn ông đưa một cánh tay ra. Chúng tôi không thể bắt được; tệ hơn, cây gậy bỗng nhiên rời khỏi ông ta; chúng tôi bị cuốn trôi đi.
Sau đó, chính người phụ nữ đã làm một việc cao quí, nhảy vào trong nước – đúng, nước lên tới nách cô ta – giữ chặt lấy ông già bằng tay trái, còn tay phải cô ta giữ tóc Leo và kéo cậu ấy lại phía bờ. Giờ cậu đã nhìn thấy chân mình, đưa một tay đặt lên thân hình thanh mảnh kia, tự ổn định lại chính mình, còn tay kia cậu hỗ trợ tôi. Kế tiếp là cuộc vật lộn loạn xạ khá lâu, nhưng cuối cùng, cả ba chúng tôi, ông già, Leo và tôi, cuộn thành một đống trên bờ và nằm đó thở hổn hển.
Giờ tôi nhìn lên. Người phụ nữ đứng trước chúng tôi, nước chảy sũng trên quần áo, nhìn chằm chằm vào gương mặt của Leo như kẻ đang mơ màng, ngột ngạt khi máu chảy ra từ vết cắt sâu trên đầu cậu ấy. Thậm chí sau đó tôi thấy cô ấy thật trang nghiêm và xinh đẹp. Giờ cô dường như đã thức tỉnh, liếc nhanh chiếc áo choàng đang bám trên thân hình quyến rũ của mình, nói gì đó với người đi cùng, rồi quay đi chạy về hướng vách đá.
Chúng tôi nằm trước mặt, hoàn toàn kiệt sức, ông già đã đứng dậy, lặng ngắm chúng tôi nghiêm nghị bằng đôi mắt lờ mờ. Ông ta nói, nhưng chúng tôi không hiểu. Ông ấy lại thử một ngôn ngữ khác nhưng không thành công. Lần thứ ba, tai chúng tôi mở ra, vì ngôn ngữ ông ta dùng là tiếng Hy Lạp; phải, ở đây, tại Trung Á, ông ây đã nói chuyện với chúng tôi bằng tiếng Hy Lạp, không quá thuần, nhưng thực sự vẫn là tiếng Hy Lạp.
“Các ngươi là phù thủy hay sao,” ông ấy nói, “mà vẫn sống sót khi tới được mảnh đất này?”
“Không,” tôi trả lời với cùng ngôn ngữ, dù sai vài từ - vì tôi nghĩ rất ít về tiếng Hy Lạp suốt nhiều năm qua – “vì nếu thế, chúng tôi đã đi tới nơi khác rồi,” và tôi chỉ vào những vết thương cùng vách đá phía sau chúng tôi.
“Họ biết những lời nói cổ xưa, giống như chúng ta được nghe kể từ Ngọn Núi,” ông ta lẩm bẩm một mình. Sau đó ông ta hỏi – “Người lạ, các ngươi tìm gì?”
Bây giờ tôi trở nên khôn khéo hơn và không trả lời, vì sợ rằng nếu biết sự thật, ông ta có thể ném chúng tôi trở lại dòng sông. Nhưng Leo không thận trọng như vậy, hay đúng hơn mọi lý do đều bỏ đi xa cậu ấy; cậu đã mê sảng.
“Chúng tôi đang tìm kiếm,” cậu lắp bắp – tiếng Hy Lạp của cậu từng luôn luôn kém, giờ đơn giản không phải là Hy Lạp mà trộn với nhiều thổ ngữ Tây Tạng khác – “chúng tôi tìm vùng đất có Ngọn Núi Lửa ở trên đỉnh có Biểu Tượng của Sự Sống.”
Người đàn ông nhìn chúng tôi chằm chằm. “Các ngươi đã biết đến vậy cơ à,” ông ta nói, sau đó dừng lại và thêm vào, “thế các ngươi tìm ai?”
“Nàng,” Leo điên cuồng trả lời, “Nữ Hoàng”. Tôi nghĩ cậu ấy muốn nói tới vị nữ tu sĩ, hay nữ thần, nhưng chỉ có thể nghĩ ra bằng tiếng Hy Lạp từ ‘Nữ Hoàng’, hay từ gì đó tương tự. Hoặc có lẽ vì người phụ nữ đã qua đời kia giống như một nữ hoàng.
“Ôi!” người đàn ông nói, “các ngươi tìm một nữ hoàng – thế thì các ngươi là những người chúng ta được lệnh khám xét. Không, làm sao ta có thể chắc chắn được?”
“Lúc này còn đặt câu hỏi sao?” tôi thở hổn hển nói một cách giận dữ. “Hãy trả lời tôi một câu thôi: ông là ai?”
“Ta ư? Người lạ, chức danh của ta là Người Bảo Vệ Cánh Cổng, còn người phụ nữ đi cùng ta là Khania của Kaloon.”
Đúng lúc đó, Leo bắt đầu ngất xỉu.
“Người đàn ông này đang ốm,” Người Bảo Vệ nói, “giờ ngươi phải thở lại, ngươi phải tìm chỗ cư ngụ, cả hai người các ngươi, ngay bây giờ. Đi thôi, hãy giúp ta.”
Cứ thế, đỡ Leo một bên, chúng tôi kéo nhau ra khỏi vách đá đáng nguyền rủa và con sông như Sông Mê kia, đi lên một hẻm núi hẹp, quanh co. Hiện tại nó mở rộng ra ở chỗ này, trải dài theo rừng thưa, chúng tôi thấy Cánh Cổng. Tôi quan sát nó, trong ký ức, những chi tiết về cảnh này và đoạn đối thoại trôi qua rất nhạt nhẽo và lờ mờ, nó như bức tường đá hùng vĩ trong đó có một lối đi được đào xuyên qua con đường. Một bên lối đi là cầu thang, nơi chúng tôi bắt đầu bước lên một cách khó nhọc, vì Leo giờ gần như vô tri và hầu như chân không nhúc nhích. Quả thật, ngay tại đầu cầu thang, cậu ấy đã sụp xuống thành một đống, sức chúng tôi không đủ để nâng cậu dậy.
Trong khi tôi yếu ớt tự hỏi chuyện gì sắp tới đây, tôi nghe thấy những tiếng bước chân, và nhìn lên, thấy người phụ nữ vừa cứu cậu ấy đang đi xuống cầu thang, theo sau cô ấy có hai người đàn ông khoác áo choàng mang sắc thái gương mặt của người Tartar, rất bình thản; mắt nhỏ và da vàng. Ngay cả khi thấy chúng tôi, họ cũng không hề xuất hiện vẻ kinh ngạc. Cô ấy nói vài lời với họ, rồi họ nâng thân hình nặng nề của Leo lên, khá dễ dàng, và mang cậu ấy lên cầu thang.
Chúng tôi đi theo, tới căn phòng có lẽ được đào từ tảng đá phía trên cửa ngõ, nơi đó người phụ nữ gọi là Khania để chúng tôi lại. Từ đó, chúng tôi đi xuyên qua những căn phòng khác, một trong số chúng giống một dạng nhà bếp, nơi đó đốt lửa, rồi chúng tôi tới một buồng rộng, rõ ràng một nơi để ngủ, vì trong đó có các khung giường gỗ, nệm và chăn. Leo được đặt nằm xuống đó, với sự trợ giúp của một người hầu, Người Bảo Vệ già cởi quần áo cho cậu ấy, đồng thời ra hiệu cho tôi cởi quần áo của chính mình. Lúc này tôi khá vui vẻ làm như thế lần đầu tiên trong nhiều ngày qua, dù vô cùng đau đớn và khó nhọc, phát hiện ra tôi có hàng đống vết thương và bầm dập.
Vị chủ nhà thổi một cái còi, người phục vụ khác xuất hiện mang một thùng nước nóng, nhờ đó chúng tôi được tắm rửa sạch sẽ. Sau đó Người Bảo Vệ bôi lên những chỗ đau của chúng tôi một loại thuốc mỡ mềm mại, và đắp chăn cho chúng tôi. Sau đó nước dùng được mang tới, ông ấy trộn ít dược, rồi đưa cho tôi uống một phần khi đang nằm trên giường, ông ta nâng đầu Leo trên đầu gối và rót phần còn lại xuống cổ họng cậu. Ngay lập tức sự ấp áp tuyệt vời chạy qua tôi, bộ não đau nhức của tôi bắt đầu bơi lội. Sau đó tôi không còn nhớ được gì nữa.
Những ngày kế tiếp, chúng tôi rất ốm yếu. Đó có lẽ là một loại dược gây ốm đau, tôi không biết, nhưng hậu quả của nó kế tiếp là mất máu, cực kỳ suy kiệt cơ thể, sốc tê liệt cả thần kinh, những vết cắt sâu và những chỗ giập nát. Chúng cùng xảy đến, tạo ra một giai đoạn dài nửa tỉnh nửa mê, sau đó đến giai đoạn sốt và mê sảng. Tất cả những gì tôi có thể hồi tưởng về vài tuần làm khách của Người Bảo Vệ Cánh Cổng, có lẽ được tổng kết trong một từ - ‘mơ’, cho đến khi tôi phục hồi lại các giác quan.
Các giấc mơ bản thân chúng đều bị lãng quên, có lẽ thế lại tốt, vì chúng rất lộn xộn, và hầu hết đều khủng khiếp; một mớ hổ lốn những cơn ác mộng, chắc chắn phản ánh ký ức sống động về những đau khổ đáng sợ gần đây của chúng tôi. Đôi lúc tôi cũng thức tỉnh thoát khỏi chúng một chút, tôi cho rằng thức ăn đã được chuẩn bị cho mình, và cảm thấy ấn tượng về bất kỳ thứ gì đi qua nơi này. Thế nên tôi có thể hồi tưởng lại cảnh Người Bảo Vệ già nua có gương mặt vàng vọt đứng trước tôi như bóng ma dưới ánh trăng, vuốt bộ râu dài của ông ta, đôi mắt dán lên mặt tôi, như thể ông ta muốn tìm ra bí mật từ tâm hồn tôi.
“Họ là loài người,” ông ta tự lẩm bẩm, “không nghi ngờ gì nữa, họ là loài người,” rồi đi về phía cửa sổ, nhìn lên cao rất lâu và nghiêm túc, như người đang nghiên cứu về các vì sao.
Sau đó tôi nhớ có cảnh lộn xộn trong phòng, và chế ngự nó là âm thanh phong phú từ giọng nói của một phụ nữ cùng tiếng sột soạt của tơ lụa phụ nữ quét trên sàn đá. Tôi mở mắt và thấy chính là người đã giúp cứu sống chúng tôi, thực tế đã cứu chúng tôi, một phụ nữ cao ráo và quí phái với gương mắt đẹp đẽ mỏi mệt, đôi mắt trong sáng như thiêu đốt. Từ chiếc áo choàng nặng nề cô ấy khoác, tôi nghĩ chắc cô vừa quay về từ một chuyến đi.
Cô ấy đứng trước mặt tôi và nhìn tôi, rồi quay đi với một cử chỉ thờ ơ, nếu không muốn nói là ghê tởm, và nói chuyện với Người Bảo Vệ bằng giọng trầm thấp. Ông ta trả lời bằng cách cúi đầu, chỉ vào chiếc giường khác nơi Leo nằm ngủ, rồi cô ấy đi tới đó một cách chậm rãi và hống hách. Tôi thấy cô ấy cúi xuống, nâng góc chăn phủ trên đầu đầy thương tích của cậu ấy, rồi nghe thấy cô thốt ra những lời bao dung trước khi quay lại bên Người Bảo Vệ như thể muốn hỏi ông ấy thêm nữa.
Nhưng ông ta đã một mình bỏ đi, còn cô nghĩ tôi vô dụng, kéo chiếc ghế đẩu thô kệch tới cạnh giường, ngồi nghiên cứu Leo giờ đang nằm đó, bằng vẻ nghiêm túc thật đáng sợ, vì tâm trí cô dường như tập trung hết vào đôi mắt, mọi biểu cảm đều tìm thấy ở đó. Cô ta nhìn chăm chú rất lâu, rồi đứng dậy và bắt đầu bước nhanh qua lại trong căn phòng, ấn tay vào lòng rồi lại lên trán, một vẻ đam mê nhất định in dấu trên khuôn mặt cô khá lúng túng, như thể cô đang vật lộn để cố nhớ ra cái gì đó mà không thể.
“Ở đâu và khi nào nhỉ?” cô thì thầm. “Ôi! Ở đâu và khi nào chứ?”
Tôi không biết đoạn kết của cảnh đó, vì dù tôi khó nhọc đấu tranh trước nó, sự quên lãng vẫn làm chủ tôi. Sau sự việc đó, tôi bắt đầu nhận ra người phụ nữ vương giả tên là Khania kia luôn luôn ở trong phòng, cô ấy dường như đang chăm sóc cho Leo rất chu đáo và dịu dàng. Đôi khi cô thậm chí chăm sóc cả tôi khi Leo không cần chú ý và cô không có việc gì khác để làm, hoặc phong cách của cô chính là như vậy. Tôi như thể bị kích thích trước vẻ hiếu kỳ của cô ấy, còn cô mong tôi phục hồi tốt đẹp.
Tôi lại tỉnh dậy, tôi không thể nói được đã qua bao lâu rồi. Trời đang tối, căn phòng chỉ được ánh trăng chiếu sáng, giờ trăng đang tỏa sáng trên bầu trời quang đãng. Ánh sáng điềm tĩnh đi vào qua khung cửa sổ, rơi lên giường của Leo, nhờ đó tôi nhìn thấy người phụ nữ uy nghi trong bóng tối đang quan sát cậu ấy từ một bên. Vài cảm xúc về sự hiện diện của cô có lẽ tự thân truyền tới cậu, vì cậu bắt đầu lẩm bẩm trong giấc ngủ, lúc bằng tiếng Anh, lúc bằng tiếng Ả Rập. Cô ấy bắt đầu quan tâm hết mực; mỗi động tác của cô đều nói lên điều đó. Sau đó đột ngột đứng dậy, cô kiễng chân lướt trong phòng để xem tôi. Thấy cô ấy đến, tôi giả vờ ngủ, tất nhiên cô ấy đã bị đánh lừa.
Vì tôi cũng rất quan tâm. Người phụ nữ mà Người Bảo Vệ gọi là Khania của Kaloon này là ai? Đó có phải người chúng tôi tìm kiếm không? Tại sao lại không chứ? Nếu tôi gặp Ayesha, chắc chắn tôi nên được biết đó là bà ấy, chắc chăn ở đây không còn phòng nữa.
Cô ấy quay lại giường, quỳ gối cạnh Leo, theo đó là sự im lặng căng thẳng – vì cậu đã ngừng lẩm bẩm – tôi nghĩ mình có thể nghe thấy tiếng tim đập của cô ấy. Giờ cô ấy bắt đầu nói chuyện, rất chậm rãi trong thứ ngôn ngữ Hy Lạp lai tạp, trộn lẫn đây đó những từ ngữ Mông Cổ giống như các phương ngữ Trung Á khác. Tôi không thể nghe hay hiểu hết tất cả những gì cô ấy nói, nhưng vài câu tôi hiểu được, và chúng làm tôi khiếp sợ không ít.
“Người đàn ông trong mơ của ta,” cô thì thầm, “chàng đến từ đâu? Chàng là ai? Tại sao Hesea lại ra lệnh cho ta gặp chàng?” Rồi vài câu sau tôi không thể nghe rõ. “Chàng đang ngủ; trong giấc ngủ đôi mắt vẫn mở. Hãy trả lời ta, ta ra lệnh cho chàng đó; hãy nói quan hệ giữa chàng và ta là thế nào? Tại sao ta lại mơ thấy chàng? Tại sao ta biết chàng? Tại sao - ?” và giọng nói ngọt ngào phong phú đó nhỏ dần từ lời thì thầm chuyển thành im lặng, như thể cô đang xấu hổ khi thốt những lời đó ra trên đầu lưỡi.
Khi cô cúi xuống chỗ cậu ấy, lọn tóc lỏng rơi ra khỏi dải lụa nạm ngọc và phủ xuống mặt cậu. Lúc nó chạm vào, dường như Leo đã bị đánh thức, vì cậu ấy nâng bàn tay trắng hốc hác chạm vào mái tóc, rồi nói bằng tiếng Anh – “Mình đang ở đâu thế? Ồ! Mình nhớ ra rồi,” và đôi mắt họ gặp nhau khi cậu cố tự nâng mình dậy nhưng không thể. Rồi cậu nói lại bằng tiếng Hy Lạp lộn xộn và ngại ngùng, “Nàng là người phụ nữ đã cứu ta khỏi dòng nước. Nói đi, nàng cũng chính là nữ hoàng ta đã tìm kiếm rất lâu và chịu đựng vô vàn gian khổ để đi tìm đúng không?”
“Ta không biết,” cô ấy trả lời bằng giọng ngọt như mật, trầm thấp, run rẩy; “nhưng quả thật ta là một nữ hoàng – nếu Khania là một nữ hoàng.”
“Thế thì hãy nói đi, Nữ Hoàng, nàng có nhớ ta không?”
“Chúng ta đã gặp nhau trong những giấc mơ,” cô trả lời, “ta nghĩ chúng ta đã gặp nhau trong một quá khứ rất xa xôi nào đó. Phải; ta biết điều đó khi lần đầu tiên nhìn thấy chàng bên bờ sông. Một người lạ với gương mặt ta đã khắc ghi từ lâu, hãy nói cho ta, ta cầu xin chàng, tên chàng là gì?”
“Leo Vincey.”
Cô ấy lắc đầu thì thầm – “Ta không biết cái tên này, nhưng ta biết chàng.”
“Nàng biết ta! Làm sao nàng biết ta?” cậu nặng nề nói, dường như lại chìm vào giấc ngủ hay bất tỉnh.
Cô ấy chăm chú quan sát cậu ấy một lúc. Sau đó như thể một sức mạnh không thể cưỡng lại lôi kéo, tôi thấy cô cúi đầu xuống gương mặt đang ngủ của cậu ấy. Đúng; tôi thấy cô hôn môi cậu rất nhanh, sau đó ửng đỏ tới tận tóc, như thể ngập tràn xấu hổ trước chiến thắng của nỗi khao khát điên cuồng.
Bây giờ cô ấy đã phát hiện ra tôi.
Hoang mang, cuốn hút, ngạc nhiên, tôi tự ngồi dậy trên giường, không biết gì; tôi cho rằng có lẽ mình sẽ nhìn và nghe thấy điều tốt đẹp hơn. Thật sai lầm, chắc chắn rồi, nhưng nói chung không có sự tò mò nào làm chủ tôi thái quá, thứ đó có nhiều lợi ích từ tôi trong toàn bộ chuyện này. Hơn thế, nó thật điên cuồng nhưng bệnh hoạn, và sự băn khoăn đã giết chết lý trí của tôi.
Đúng, cô ấy thấy tôi đang nhìn hai người họ, cơn giận dữ bùng lên trong cô khiến tôi nghĩ giờ phút của mình đã tới.
“Người đàn ông kia, ngươi dám sao - ?” cô ấy nói trong tiếng thì thầm căng thẳng, chộp lấy đai lưng. Giờ trong tay cô lóe sáng một con dao, và tôi biết mình phải phó thác cho số mệnh. Sau đó, trong tình cảnh hiểm nguy đau lòng này, trí khôn đã trở lại với tôi, khi cô ấy tiến tới, tôi giơ bàn tay run rẩy ra và nói – “Ôi! Hãy rủ lòng thương, cho tôi uống. Cơn sốt đang thiêu đốt tôi, nó thiêu đốt tôi,” rồi tôi nhìn quanh như kẻ đang hoang mang vì không thấy gì, và lặp lại, “Hãy cho tôi uống, xin ông đấy, Người Bảo Vệ,” rồi tôi ngã ra sau vì kiệt sức.
Cô ấy dừng lại như con diều hâu vừa sà xuống, nhanh chóng bọc lại con dao găm. Sau đó lấy một bát sữa trên bàn gần mình, cô đổ nó vào miệng tôi, dò xét trên gương mặt tôi một lúc bằng đôi mắt rực lửa, vì quả thật, niềm đam mê, cơn giận dữ và nỗi sợ hãi đã đốt chúng rực cháy. Tôi uống sữa từng ngụm lớn, dù chưa bao giờ trong đời tôi thấy nó khó nuốt đến vậy.
“Ngươi đang run rẩy,” cô ấy nói; “có phải những giấc mơ đã ám ảnh ngươi không?”
“Đúng, anh bạn ạ,” tôi trả lời, “những giấc mơ về vách núi ghê sợ đó và cú nhảy cuối cùng.”
“Còn gì nữa?” cô ấy hỏi.
“Không, chưa đủ sao? Ồ! Cả hành trình làm bạn với một nữ hoàng.”
“Làm bạn với một nữ hoàng,” cô bối rối lặp lại. “Người này nói thế nghĩa là sao? Ngươi hãy thề ngươi không còn giấc mơ nào khác chứ?”
“Được, tôi thề với Biểu Tượng của Sự Sống và Ngọn Núi có Lửa Uốn Lượn, và thề với người, Nữ Hoàng O thời viễn cổ.”
Sau đó tôi thở dài và giả vờ ngất đi, vì tôi không thể nghĩ ra cái gì để làm nữa. Khi nhắm mắt, tôi thấy gương mặt cô ấy lúc trước đỏ như bình minh đã chuyển sang tái nhợt như đêm trước, vì những lời vừa rồi và tất cả những gì ẩn dấu phía sau vừa tuôn ra. Hơn thế nữa, cô ấy vẫn đang hoài nghi, vì tôi có thể nghe được tiếng cô đang lần sờ con dao găm. Sau đó cô ấy nói to vài lời vào tai tôi nếu tôi vẫn có thể nghe được.
“Ta rất vui,” cô ấy nói, “vì ngươi không còn giấc mơ nào khác, vì nếu ngươi mơ thấy vậy và nói ra chúng, đó sẽ là một điềm xấu, ta không muốn ai từ xa tới thăm chúng ta lại bị mai táng bằng cách bị ném tới chết như lũ chó; hơn nữa lại là kẻ già nua và xấu xí, nhưng vẫn có vẻ thông thái và yên tĩnh thế này.”
Giờ trong lúc tôi đang rùng mình trước những ẩn ý khó chịu kia – dù “chết như lũ chó” có lẽ là người bị chôn, nhưng tôi vẫn không thể tưởng tượng nổi – tôi vui sướng vô cùng khi nghe thấy tiếng bước chân của Người Bảo Vệ trên các bậc cầu thang, cũng nghe thấy ông ta đang bước vào trong phòng rồi nhìn thấy ông cúi chào trước người phụ nữ.
“Những người đàn ông ốm yếu này sẽ đi như thế nào đây, cháu gái?” 3 ông ta nói bằng giọng lạnh nhạt.
3 Sau đó tôi biết Khania, Atene không phải là cháu gái của Simbri mà là con gái của cháu họ ông, bên đằng ngoại. – L.H.H.
“Họ ngất rồi, cả hai người,” cô ấy trả lời.
“Thật thế sao? Ta nghĩ ngược lại. Ta nghĩ họ đã tỉnh.”
“Người không nghe thấy gì sao, Pháp Sư (một kiểu phù thủy)?” cô ấy tức giận hỏi.
“Ta ư? Ôi! Ta đã nghe thấy tiếng rít của con dao găm trong vỏ và tiếng sủa từ xa của bầy chó tử thần.”
“Và đó là những gì người đã nhìn thấy, phải không Pháp Sư?” cô ấy hỏi lại, “khi nhìn xuyên qua Cánh Cổng người đang bảo vệ?”
“Khung cảnh thật kỳ lạ, Khania, cháu gái của ta. Nhưng – những người đàn ông đã tỉnh lại sau những trận ngất xỉu.”
“Được rồi,” cô ấy trả lời, “thế thì trong lúc người này ngủ, hãy mang anh ta sang phòng khác, vì anh ta cần thay đổi, và vị chúa tể đằng kia cần nhiều không gian và bầu không khí không bị ô uế.”
Người Bảo Vệ, được cô ấy gọi là “Pháp Sư” hay Thầy Phù Thủy, cầm một cây đèn trên tay, dưới ánh sáng, rất dễ nhìn ra gương mặt ông ấy, tôi đã quan sát qua khóe mắt mình. Tôi nghĩ nó mang một biểu cảm rất kỳ lạ, hơn nữa nó như cảnh báo tôi một điều gì đó. Ngay từ đầu tôi đã băn khoăn về ông già này, người mang nét mặt hận thù; tôi e sợ ông ta.
“Tới phòng nào, Khania?” ông ta hỏi đầy hàm ý.
“Cháu nghĩ,” cô ấy chậm rãi trả lời, “tới một căn phòng lành mạnh, để anh ta phục hồi. Người đàn ông này rất thông thái,” cô nói thêm như thể giải thích, “hơn nữa, theo lời từ Ngọn Núi, làm hại anh ta có thể sẽ gặp nguy hiểm. Nhưng tại sao người lại hỏi thế?”
Ông ta nhún vai.
“Ta nói cho cháu, ta đã nghe bầy chó tử thần sủa, thế thôi. Đúng, ta nghĩ với cháu anh ta rất thông thái, con ong tìm mật nên hút hoa – trước khi hoa héo tàn! Cũng thế thôi, như cháu nói đấy, có những mệnh lệnh thật đau đớn nếu coi nhẹ, thậm chí ngay cả khi chúng ta không thể đoán ra ý nghĩa của nó.”
Sau đó ông ta đi ra cửa thổi còi, ngay lập tức tôi nghe thấy những tiếng chân của đám người hầu trên cầu thang. Ông ta ra lệnh cho họ, và họ nhẹ nhàng nâng cái đệm tôi đang nằm trên đó rồi đi theo ông ấy xuống những lối đi nhỏ, qua vài cầu thang tới một buồng khác hình dạng giống như căn phòng chúng tôi vừa rời đi, nhưng không lớn bằng, và họ đặt tôi lên một chiếc giường ở đó.
Người Bảo Vệ quan sát tôi một lúc và thấy tôi vẫn không tỉnh dậy. Kế tiếp ông ta giơ tay ra và cảm nhận nhịp tim tôi; kết quả kiểm tra dường như làm ông ta lúng túng, vì ông ta thốt lên một câu cảm thán nhỏ và lắc đầu. Sau đó ông ta rời phòng, tôi nghe thấy ông ta kéo cánh cửa phía sau. Rồi vẫn còn rất yếu, tôi thiếp đi một cách nghiêm chỉnh.
Khi tôi tỉnh dậy, ánh sáng ban ngày đã trải rộng. Tâm trí tôi thanh tỉnh và tôi cảm thấy khỏe hơn nhiều ngày qua, dấu hiệu cho tôi biết cơn sốt đã rời đi và tôi đang trong giai đoạn hồi phục. Giờ tôi đã nhớ ra tất cả các sự kiện đêm trước và có thể cân nhắc chúng một cách cẩn thận. Chuyện này chắc chắn có nhiều lý do, tôi biết tôi đã và vẫn đang trong tình cảnh vô cùng nguy hiểm.
Tôi đã nhìn và nghe được rất nhiều, người phụ nữ gọi là Khania kia cũng đoán ra tôi đã nhìn và nghe thấy. Quả thực, nếu không vì tôi ám chỉ tới Biểu Tượng của Sự Sống và Ngọn Núi có Ánh Lửa, sau đó tôi đã làm cơn phẫn nộ của cô ta nguôi ngoai bằng mưu mẹo, nếu không tôi cảm thấy chắc chắn cô ta sẽ ra lệnh cho Người Bảo Vệ hay vị Pháp Sư già nua kia làm cho tôi chết bằng cách này hay cách khác; và chắc chắn ông ta cũng không hề do dự tuân theo. Tôi đã được tha một phần vì nguyên nhân vô danh nào đó, cô ta e sợ việc giết tôi, và phần nữa vì cô ta có lẽ muốn tìm hiểu tôi biết nhiều bao nhiêu, dù “bầy chó tử thần đã sủa”, nó có thể mang bất cứ ý nghĩa nào. Phải, tới giờ tôi vẫn an toàn, nhưng sau này tôi phải nắm lấy cơ hội của mình. Hơn nữa cần phải thận trọng, và nếu cần, phải giả vờ không biết gì. Vì thế, xua đuổi vấn đề định mệnh của chính mình ra khỏi đầu óc, tôi cảm thấy nên xem xét cảnh tượng tôi đã chứng kiến và ngụ ý chủa nó là gì.
Cuộc phiêu lưu của chúng tôi đã tới hồi kết chưa? Người phụ nữ kia là Ayesha ư? Leo đã mơ thấy thế, nhưng cậu vẫn đang mê sảng, do đó ở đây chỉ dựa vào một chút thôi. Điểm chính là cô ấy tự cho rằng có tồn tại mối quan hệ nào đó giữa cô ấy và người đàn ông đang ốm nặng này. Tại sao cô ấy ôm cậu? Tôi chắc rằng cô ta có thể không phải người bừa bãi, thực sự không phải bất kỳ phụ nữ nào cũng muốn tư lợi theo cách điên rồ như vậy với một người lạ đang lơ lửng giữa sống và chết. Thứ khiến cô ấy làm vậy có thể là rung động không thể cưỡng lại được, tri thức hay ít ra là những hồi ức hồi sinh, đã điều khiển cô ấy, dù tri thức đó có thể không hoàn hảo và hồi ức đó không xác định được. Ai cứu Ayesha đều có thể biết gì đó về Leo trong quá khứ chứ? Không ai như vậy có thể còn sống trên đời đến tận giờ.
Nhưng tại sao không chứ, nếu những gì sư trụ trì Kou-en và hàng chục triệu tín đồ theo trường phái của ông tin đó là thật? Nếu những linh hồn của con người thực sự bị giới hạn chặt chẽ trong một con số, và trở thành kẻ chiếm giữ một chuỗi vô tận các thân xác bị thay đổi theo thời gian như chúng ta thay đổi quần áo, thế thì tại sao lại không có ai khác nữa biết về cậu ấy chứ? Chẳng hạn con gái của các Pharaoh, người “khiến ông vì tình yêu phá vỡ lời thề đã tuyên thệ” biết một Kallikrates, vị linh mục của “thần Isis - người được các vị thần yêu mến và quỉ dữ vâng lời;” thậm chí gồm cả Amenartas, người phụ nữ am hiểu phép thuật.
Ôi! Giờ một tia sáng dường như muốn phá nát tâm trí tôi, tia sáng hoàn hảo. Chuyện gì xảy ra nếu Amenartas và Khania, người phụ nữ có phong thái hoàng tộc trên từng đường nét này, là một? Có phải “phép thuật của dân tộc mình mà ta đang sở hữu” – như những gì cô ấy đã viết trên Mảnh Gốm Cổ - cho phép cô xuyên qua bóng tối của Quá Khứ để nhận ra vị linh mục bị cô bỏ bùa để yêu cô, giật ông khỏi bàn tay của vị nữ thần đó chứ? Chuyện gì đây nếu đó không phải là Ayesha, mà là hóa thân của Amenartas, người đang thống trị vùng đất bí ẩn này, và một lần nữa lại tìm cách làm người đàn ông cô yêu phá vỡ lời thề? Nếu vậy, quỉ dữ chắc chắn sẽ đến, tôi thậm chí đã thấy bóng của nó. Sự thật phải được phơi bày, nhưng bằng cách nào đây?
Trong khi tôi mải đắn đo thì cửa mở ra, người đàn ông có vẻ mặt già nua, mỉa mai, không dò xét nổi được Khania gọi là Thầy Phù Thủy, và gọi Khania là cháu gái kia, bước vào và đứng trước mặt tôi.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...