Thứ Tư, 24 tháng 6, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 5



Chương 5: Sông băng

Cuối cùng ngày hôm đó cũng kết thúc, sau vài miếng thịt bò, do cái lều đã bay mất, chúng tôi khoác da con bò lên người rồi nghỉ ngơi, vì biết ít ra không còn vụ lở tuyết nào nữa mà sợ hãi. Đêm đó vô cùng băng giá, đến mức nếu không có lớp da của con bò và đống chăn cùng quần áo, thứ chúng tôi may mắn mặc vào từ trước khi tuyết bắt đầu rơi xuống, thì tôi nghĩ chúng tôi hẳn sẽ rất khổ sở. Dù vậy, chúng tôi cũng phải chịu đựng thật chật vật.
“Bác Horace,” Lúc bình minh Leo nói, “Cháu sẽ rời khỏi nơi này. Nếu chúng ta phải chết, cháu thà đi khỏi đây; nhưng cháu không tin chúng ta sẽ chết.”
“Rất tốt,” tôi nói, “chúng ta lên đường thôi. Nếu giờ mà tuyết không đỡ được chúng ta, thì sẽ không còn lúc nào nữa.”
Vì thế chúng tôi buộc chặt đống chăn và da con bò thành hai bó, cắt thêm một ít thịt đã đông lại, rồi bắt đầu đi xuống. Bây giờ dù gò đá cao dưới hai trăm feet, thật may cho chúng tôi là chân móng của nó rất rộng – vì ngược lại, hẳn phải bị cuốn đi dưới sức mạnh kinh hoàng của vụ lở tuyết – nó rộng tới mức đã có cả đống tuyết chồng chất trải dài giữa chúng tôi và mặt đất.
Do cấu tạo nhô ra của nơi này, chúng tôi hoàn toàn không thể xuống đoạn phía trước nơi áp lực khiến tuyết cứng lại như đá, chúng tôi phải mạo hiểm đi bộ trên thứ vật liệu lỏng hơn bên rìa của nó. Sẽ không thu được gì nếu chờ đợi, chúng tôi cứ bước đi, Leo dẫn đầu, từng bước dò tuyết. Thật vui, chúng tôi phát hiện ra sương giá đêm tối đã làm bề mặt cứng lại như muốn hỗ trợ chúng tôi. Đi xuống được khoảng nửa đường, áp lực giảm dần, nó trở nên mềm hơn rất nhiều, chúng tôi buộc phải nằm ngửa mặt lên, để phân phối trọng lượng trên một diện tích rộng hơn, rồi nhẹ nhàng trượt xuống chân gò.
Mọi thứ đều tốt đẹp cho tới khi chúng tôi bước được hai mươi bước dưới chân gò, nơi đó phải vượt qua một gò đất mềm tạo từ bụi phấn vụ lở tuyết tung ra khi đổ xuống vội vã. Leo trượt qua an toàn, nhưng tôi, cách cậu một hai thước về bên phải, đột nhiên rơi vào một vũng đóng lớp vỏ cứng bên dưới. Cú đi loạng choạng luồn lách khờ khạo nhưng rất tự nhiên, như con cá bơn vừa hạ cánh trên cát, thực hiện xong trò láu cá, cùng với một tiếng thét nhức óc nhưng nhanh chóng bị kiềm chế, tôi biến mất.
Bất kỳ ai từng bị chìm sâu trong nước sẽ hiểu cảm giác không hề dễ chịu, còn tôi có thể đảm bảo với họ rằng, trải nghiệm tương tự trong tuyết mềm tuyệt đối tồi tệ hơn; một thân toàn bùn với nỗi kinh sợ. Tôi đi xuống, xuống mãi, tới khi dường như chạm vào một hòn đá đã cứu tôi thoát khỏi cảnh vĩnh viễn biến mất. Giờ tôi cảm thấy tuyết bao chặt quanh người, trở nên tối đen và nghẹt thở. Nhưng đống tuyết tích tụ thật mềm mại, trước khi vượt qua, tôi xoay xở cánh tay để gạt hết bụi phấn khỏi đầu, rồi đào một hố nhỏ để không khí thấm qua từ từ. Bám tay vào hòn đá, tôi cố nhô lên, nhưng không thể, trọng lượng đè lên tôi quá lớn.
Rồi tôi từ bỏ hy vọng và chuẩn bị chết. Quá trình này cho thấy không hoàn toàn khó chịu. Tôi không nhìn thấy những ảo cảnh từ kiếp trước như những người chết đuối bị cho là sẽ trải qua, nhưng đầu óc tôi bay về với Ayesha – điều này cho thấy bà ấy khống chế tôi mạnh đến mức nào. Tôi như thấy bà ấy và một người đàn ông bên cạnh, đứng cùng tôi trong vực đá tối tăm. Bà ấy khoác chiếc áo choàng đi đường dài, đôi mắt yêu kiều điên cuồng sợ hãi. Tôi đứng lên chào bà ấy và báo cáo, nhưng bà ấy gào khóc trong âm thanh nhức nhối – “Chuyện xấu xa gì ở đây thế? Ngươi còn sống; nhưng Leo chúa tể của lòng ta đâu? Nói đi, người kia, hãy nói ngươi đã dấu chúa tể của ta ở đâu – hoặc ngươi phải chết.”
Ảo cảnh cực kỳ chân thật và sống động, tôi nhớ vậy, liên quan tới sự kiện nhất định nào đó kế tiếp, rất đáng chú ý nhưng nó cũng nhanh chóng trôi qua.
Rồi các giác quan rời bỏ tôi.
Tôi lại nhìn thấy ánh sáng. Tôi nghe thấy tiếng Leo. “Bác Horace,” cậu kêu khóc, “bác Horace, nhanh giữ lấy tay cầm của khẩu súng trường.” Một cái gì đó đâm vào bàn tay đang duỗi ra của tôi. Tôi tuyệt vọng nắm lấy nó, rồi bị kéo căng. Vô dụng, tôi không hề nhúc nhích. Rồi nhớ ra, tôi đạp chân, không biết do may mắn hay Thượng Đế đã thương xót, bàn chân tôi đã đứng được trên đỉnh tảng đá tôi đang nằm. Tôi lại cảm thấy được kéo căng, rồi tự đẩy bằng hết sức mình. Tuyết mang tới sự kinh ngạc, tôi bắn ra khỏi cái hố đó như một con cáo thoát khỏi trái đất.
Tôi va phải cái gì đó. Đó là Leo đang kéo khẩu súng, tôi đập vào cậu ấy ngược lại. Rồi chúng tôi lăn xuống sườn dốc, cuối cùng dừng lại trên rìa vách đá. Tôi ngồi dậy, thở hổn hển trong không khí, ôi! Ngọt ngào biết bao. Mắt tôi rơi trên bàn tay, tôi thấy các mạch máu nổi lên, đen như mực và to như cuộn dây. Rõ ràng tôi đã suýt chết.
“Bác ở dưới đó bao lâu?” Tôi hổn hển hỏi Leo đang ngồi bên cạnh lau mồ hôi chảy như suối trên mặt cậu.
“Không biết. Gần hai mươi phút, cháu nghĩ vậy.”
“Hai mươi phút! Cứ như là hai mươi thế kỷ. Làm sao cháu lôi bác ra được? Cháu không thể đứng trên đám bụi trôi nổi đó.”
“Không, cháu nằm trên da con bò ở nơi tuyết cứng hơn và dùng tay đào sâu về phía bác xuyên qua lớp bột, vì cháu biết nơi bác bị chìm và nó không quá xa. Cuối cùng cháu nhìn thấy những đầu ngón tay bác; chúng xanh lét và sau vài giây cháu thấy chúng níu quanh một tảng đá, rồi cháu đẩy đuôi khẩu súng trường về phía chúng. Thật may bác vẫn còn sống để bắt giữ được nó, còn lại thì bác biết rồi. Nếu cả hai chúng ta không cực khỏe, chắc không bao giờ có thể làm được.”
“Cảm ơn cháu, anh bạn nghiên cứu sinh già,” tôi nói chân thành.
“Tại sao bác lại cảm ơn cháu?” Cậu hỏi với nụ cười thoáng qua. “Bác cho rằng cháu muốn tiếp tục cuộc hành trình này một mình à? Đi nào, nếu bác còn thở được, chúng ta phải tiếp tục. Bác đã vừa ngủ trong giường lạnh rồi, giờ muốn tập thể dục à. Nhìn này, khẩu súng trường của cháu đã gãy còn khẩu của bác đã bị mất trong đống tuyết. Đúng, chuyện này sẽ cứu chúng ta  khỏi khó khăn phải mang theo các hộp đạn,” và cậu cười ủ rũ.
Sau đó chúng tôi bắt đầu đi bộ, hướng tới nơi cách chỗ cuối con đường khoảng bốn dặm, vì có lẽ đi thẳng không có tác dụng. Vì thế chúng tôi tới chỗ đó an toàn. Một khối tuyết lớn như nhà thờ từng bị cuốn xuống ngay trước mặt chúng tôi, một tảng đá khổng lồ từng bị lỏng ra rồi rơi khỏi ngọn núi và bỗng xô tới chỗ chúng tôi như một con sư tử đang tấn công, hay những hòn đá bị Polyphemus ném ra từ con tàu của Odysseus, nhảy qua đầu chúng tôi, biến mất cùng tiếng gào thét giận giữ trong vực sâu bên dưới. Nhưng chúng tôi ít chú ý tới những thứ đó: thần kinh của chúng tôi đã bị u mê, không nguy hiểm nào có thể ảnh hưởng được.
Tới cuối con đường, ở đó vẫn còn dấu chân chúng tôi và dấu móng chân của con bò trên tuyết. Cảnh đó làm tôi xúc động, vì thật kỳ lạ khi chúng tôi vẫn còn sống để nhìn lại chúng. Chúng tôi nhìn chằm chằm vào vách đá. Phải, nó sâu hoắm và hoàn toàn không thể trèo qua.
“Đi tới con sông băng”, Leo nói.
Thế là chúng tôi tiếp tục tới đó, bò xuống theo một con đường nhỏ, để thăm dò. Ở đây, theo như phán đoán của chúng tôi, vách đá sâu khoảng bốn trăm feet. Nhưng dải băng có chạm tới chân nó hay không, chúng tôi không thể nói được, vì khoảng hai phần ba con đường đi xuống, nó gập cong vào trong, giống điểm cuối của cây cung đang được uốn cong, cấu tạo thành những tảng đá nhô ra bên bờ kia cũng thế, khiến chúng tôi không thể nhìn ra nó kết thúc chỗ nào. Chúng tôi trèo ngược trở lại và ngồi xuống, tuyệt vọng nắm tay nhau, cay đắng, tuyệt vọng đến tăm tối.
“Chúng ta phải làm gì?” tôi hỏi. “Phía trước chúng ta là cái chết. Đằng sau chúng ta là cái chết, vì làm sao chúng ta có thể quay lại dãy núi này khi không có thức ăn hay súng để săn thứ gì đó? Ở đây cũng chết, vì chúng ta phải ngồi đây và chết đói. Chúng ta đã cố gắng hết sức và thất bại rồi. Leo, giờ phút kết thúc đã trong tầm tay. Chỉ phép màu mới cứu được chúng ta.”
“Phép màu,” cậu đáp. “Phải, cái gì dẫn chúng ta lên đỉnh gò đá khiến chúng ta thoát khỏi vụ lở tuyết? Cái gì đặt hòn đá đó giữa đường khi bác bị chìm trong lòng tuyết, bày mưu và cho cháu sức mạnh để đào bác khỏi nấm mồ tuyết kia? Cái gì đã bảo vệ chúng ta khỏi nguy hiểm suốt mười bảy năm qua như thế, khi rất ít người có thể biết được và sống sót? Có Quyền Năng đang chỉ đạo. Định Mệnh sẽ hoàn thành điều đó cho chúng ta. Tại sao Quyền Năng đó sẽ dừng chỉ dẫn tiếp chứ? Tại sao Định Mệnh cuối cùng lại lùi bước chứ?”
Cậu dừng lại, sau đó càng quyết liệt hơn, “Cháu nói này, bác Horace, ngay cả nếu chúng ta có súng, thức ăn và nhiều con bò, cháu cũng không muốn quay lại, vì làm vậy chỉ chứng minh cháu là kẻ hèn nhát và không xứng với nàng. Cháu sẽ tiếp tục.”
“Làm cách nào?” tôi hỏi.
“Theo con đường này,” cậu chỉ vào dòng sông băng.
“Đó là con đường chết!”
“Được, nếu vậy, bác Horace, có lẽ ở mảnh đất này con người tìm thấy sự sống trong cõi chết, hoặc họ tin vậy. Giờ nếu chúng ta chết, chúng ta sẽ chết trên hành trình của chúng ta, và ở đất nước này nơi chúng ta chết, có lẽ chúng ta sẽ được tái sinh. Ít nhất cháu đã quyết định, còn bác phải lựa chọn.”
“Bác đã lựa chọn từ lâu rồi. Leo, chúng ta cùng nhau bắt đầu hành trình này và chúng ta sẽ cùng nhau kết thúc nó. Có lẽ Ayesha biết và sẽ giúp chúng ta,” tôi cười thật thê lương. “Nếu không – đi thôi, chúng ta đang lãng phí thời gian.”
Sau đó chúng tôi cùng nhau phân tích tình hình, cuối cùng chúng tôi cắt cái chăn da và tấm da dày của con bò thành từng mảnh và thắt nút lại với nhau thành hai sợi dây hữu ích, nhờ đó chúng tôi đi nhanh hơn gấp đôi, để một đầu lỏng lẻo, vì chúng tôi nghĩ nó sẽ giúp chúng tôi lúc đi xuống.
Kế tiếp, chúng tôi buộc những mảnh chăn da khác vào chân và đầu gối để bảo vệ chúng khi bị chà xát với băng và đá, đồng thời đi tất da thật dày với cùng lý do. Xong xuôi, chúng tôi lấy đồ đạc còn lại và đống áo nặng, đặt đá vào đó, rồi ném chúng sang bên kia bờ vực, tin rằng có thể tìm lại chúng, nếu chúng tôi tới được chân vách đá. Giờ việc chuẩn bị đã xong, đến lúc chúng tôi bắt đầu một trong những hành trình tuyệt vọng nhất con người có lý trí từng thực hiện.
Nhưng chúng tôi dừng lại một chút, nhìn nhau thương tiếc, vì chúng tôi không thể nói gì. Chúng tôi chỉ ôm nhau, tôi thừa nhận, tôi nghĩ mình đã khóc một chút. Có lẽ thật buồn và không có hy vọng, những khao khát nhiều năm qua, những chuyến đi liên tục mệt mỏi, và bây giờ - kết thúc. Tôi không thể chịu đựng được khi nghĩ về người đàn ông tuyệt vời kia, người tôi bảo trợ, người bạn thân thương nhất của tôi, bạn đồng hành của đời tôi, đứng trước tôi đẹp đẽ và đầy sức sống, nhưng trong vài phút ngắn ngủi nữa bị biến thành đống thịt run rẩy sứt sẹo. Bản thân tôi không có vấn đề. Tôi đã già, đã đến lúc tôi nên chết. Tôi đã sống ngây ngô, nếu phải ngây ngô để theo đuổi hình bóng yêu kiều ấy, nàng tiên cá Siren của khu hang động, người lôi cuốn chúng tôi tới tận số.
Không, tôi không nghĩ lại tự cho bản thân là thế, mà tôi nghĩ nhiều về Leo, khi tôi nhìn gương mặt kiên quyết và ánh mắt sáng ngời của cậu như tự nỗ lực truyền can đảm cho chính mình, tôi rất tự hào về cậu. Vì thế bằng giọng nghẹn ngào, tôi cầu phước cho cậu và chúc cậu mọi điều tốt đẹp bất chấp tất cả, cầu nguyện tôi có thể làm bạn đồng hành của cậu tới tận phút cuối cùng. Cậu cảm ơn tôi bằng vài lời ngắn gọn và cầu phước đáp lại tôi. Rồi cậu khẽ bảo – “Đi thôi.”
Vì thế lần lượt chúng tôi bắt đầu đi xuống. Thoạt tiên khá dễ dàng, dù chỉ một cú trượt chân cũng có thể ném chúng tôi vào cõi bất diệt. Nhưng chúng tôi đều rất khỏe mạnh và có nhiều kỹ năng, hơn nữa lại quen thuộc với những nơi thế này, nên không bị làm sao hết. Được một phần tư quãng đường, chúng tôi dừng lại, đứng trên một hòn đá lớn ngập trong băng, thận trọng nhìn quanh, chống lưng trước sông băng và nhìn nhau. Một nơi thật sự kinh khủng, rất sâu, chúng tôi cũng không nhìn được nhiều, vì bên dưới, khoảng một trăm hai mươi feet, một khúc cong nhô ra cắt ngang tầm nhìn của chúng tôi khỏi những gì bên dưới.
Cảm thấy thần kinh không thể chịu đựng được việc quan sát kéo dài cái vực sâu chóng mặt đó, chúng tôi lại một lần nữa dán mặt lên băng để trèo xuống. Giờ vấn đề đã khó khăn hơn, vì ít tảng đá hơn và chúng tôi cần phải một hai lần trượt chạm tới chúng, nếu không chúng tôi sẽ không bao giờ dừng lại. Nhưng những sợi dây ném vào trong khe góc các hòn đá hay các gò băng nổi lên đã giúp chúng tôi đi xuống và chúng được kéo theo sau khi chúng tôi tới chỗ đặt chân kế tiếp, cứu chúng tôi khỏi thảm họa.
Cuối cùng, chúng tôi tới chỗ uốn cong, nằm ở quá nửa đường đi xuống vách đá, theo như tôi đánh giá là vậy, cách khoảng hai trăm năm mươi feet so với miệng vách, và khoảng một trăm năm mươi feet nếu tính từ đáy vực tối đen kia. Ở đây không có tảng đá nào, chỉ có vải tảng băng thô kệch chúng tôi đang ngồi nghỉ trên đó.
“Chúng ta phải quan sát,” Leo nói.
Nhưng vấn đề là, làm sao quan sát được. Quả thật, chỉ có một cách, treo mình lên khúc cong và khám phá những gì nằm bên dưới. Chúng tôi đọc được suy nghĩ của nhau mà không cần nói lời nào, và tôi bắt đầu di chuyển.
“Không,” Leo nói, “cháu trẻ và khỏe hơn bác. Đi nào, hãy giúp cháu,” cậu bắt đầu thắt chặt một đầu sợi dây vào cục băng vững chắc nhô lên. “Nào,” cậu ấy bảo, “Hãy giữ lấy mắt cá chân của cháu.”
Thật điên rồ, nhưng không có gì khác để làm, vì thế cố định gót chân mình vào một cái ngách, tôi nắm lấy chúng còn cậu ấy từ từ trượt về phía trước tới khi cơ thể của cậu biến mất trong không trung. Những gì cậu ấy thấy không quan trọng, vì sau đó tôi đã nhìn thấy tất cả, nhưng việc xảy ra lúc đó là đột ngột toàn bộ trọng lượng to lớn của cậu ấy đặt lên cánh tay tôi với một cú giật, mắt cá chân của cậu bị giằng khỏi cái kìm kẹp của tôi.
Ai biết được! Có lẽ do kinh sợ, tôi đã thả lỏng, để tuân theo hối thúc tự nhiên nhắc con người bảo vệ mạng sống của chính mình. Nếu vậy, tôi có thể được tha thứ, nhưng nếu đứng vững, tôi sẽ bị giật vào trong vực. Sau đó sợi dây hiện ra và vẫn còn căng.
“Leo!” Tôi thét lên, “Leo!” rồi nghe thấy một tiếng nói bị bóp nghẹt, tôi nghĩ đó là, “Đến đây.” Nhưng thực ra câu đó phải là – “Đừng đến đây.” Quả thực, nó đã ảnh hưởng tới tôi – tôi không hề dừng lại suy nghĩ, mà hướng mặt ra ngoài, rồi ngồi ngay dậy, bắt đầu trượt xuống lớp băng.
Hai giây sau tôi đã tới khúc cong, ba giây sau tôi vượt qua nó. Phía dưới tôi chỉ có thể mô tả là một cục nước đá khổng lồ bị vỡ thành những đoạn ngắn, rời ra khỏi vách núi khoảng bốn thước trong không gian. Cục nước đá không dài quá mười lăm feet và dốc ra phía ngoài, vì thế tôi đi xuống không sâu. Hơn nữa, ở phần cuối của nó, nước đang nhỏ giọt, hay một vụ tai nạn nào đó như thế, làm tảng băng mòn đi, để lại một cái gờ nhỏ rộng có lẽ bằng một bàn tay người. Bề mặt khúc cong lởm chởm, khiến quần áo tôi mắc vào, tôi cũng tuyệt vọng nắm lấy chúng bằng ngón tay. Sau đó tôi trượt xuống nhẹ nhàng, gót chân hạ xuống một mỏm đá nhỏ, vẫn duy trì gần như thẳng đứng với hai tay giang rộng – giống như người bị đóng đinh trên cây thập giá bằng băng.
Sau đó tôi đã thấy mọi thứ, cảnh tượng làm máu tôi đông lại trong tĩnh mạch. Treo trên sợi dây, khoảng bốn hay năm feet ở đoạn vỡ bên dưới, là Leo, ngoài tầm với, ngoài vách đá; cậu ấy treo lơ lửng chầm chậm quay vòng, quay vòng – vì cảnh ngớ ngẩn tương tự hiện ra trước mắt tôi ngay sau đó theo cách rời rạc, thật đáng sợ - như thể khúc thịt quay trên ngọn lửa. Bên dưới cái vực đen ngòm đang há ra, và dưới đáy của nó, rất xa rất xa bên dưới, hiện ra hàng tảng tuyết trắng mờ nhạt. Đó là những gì tôi nhìn thấy.
Nghĩ đi! Nghĩ đi! Tôi bị đóng đinh trên băng, gót chân nằm trên một mỏm đá nhỏ; ngón tay bám vào những ụ lồi ra, những chỗ mà đến một con chim cũng khó có thể tìm được điểm đặt chân; xung quanh và bên dưới là không gian khiến người ta choáng váng. Tôi không thể trèo xuống, thậm chí co duỗi cũng không thể, vì chỉ cần trượt một cái, tôi nhất định sẽ đi đời.
Còn bên dưới tôi, như con nhện treo trên sợi tơ, Leo đang quay tròn chầm chậm!
Tôi có thể nhìn thấy sợi dây da màu xanh lá đang căng ra dưới trọng lượng của cậu và số nút thắt nhiều gấp đôi trên đó bị tuột khỏi và thắt chặt, tôi nhớ đã băn khoăn cái nào đứt trước, da hay những nút thắt, hay liệu nó có giữ được tới khi cậu ấy rơi từng chi từng chi khỏi cái thòng lọng kia.
Ôi! Tôi đang ở nơi nguy hiểm biết bao, tôi đã từng nhảy từ Hòn Đá Bập Bênh sang một điểm trên Tảng Đá Cựa Gà run rẩy, trật mất mục tiêu, nhưng chưa bao giờ, chưa bao giờ như thế trong hoàn cảnh kiểu này. Đau đớn giữ chặt lấy tôi; mồ hôi lạnh túa ra từ mọi lỗ chân lông. Tôi có thể cảm nhận được nó đang chảy xuống mặt như nước mắt; tóc tôi dựng đứng trên đầu. Bên dưới, tuyệt đối im lặng, Leo quay tròn quay tròn, mỗi vòng quay đôi mắt cậu nhìn lên gặp mắt tôi thật ghê sợ.
Im lặng là tình trạng tồi tệ nhất, im lặng và vô dụng. Nếu cậu kêu khóc, nếu cậu vật lộn, có thể đã tốt hơn. Nhưng tôi biết cậu đang sống sót đằng kia, mọi dây thần kinh và nhận thức đều phải căng lên hết cỡ. Ôi! Lạy Chúa! Ôi! Lạy Chúa!
Các chi của tôi bắt đầu đau nhức, tôi không dám nhúc nhích bất kỳ sợi cơ nào. Chúng đau kinh khủng, hoặc tôi đang nghĩ vậy, dưới sự tra tấn đó, cả tinh thần lẫn thể xác, đầu óc tôi sụp đổ.
Tôi nhớ ra nhiều chuyện: khi còn nhỏ, tôi trèo lên cây và tới chỗ không thể leo lên hay leo xuống được, rồi cam chịu ở đó. Nhớ ra một lần ở Ai Cập, một người bạn liều lĩnh dại dột của tôi đã trèo lên Kim Tự Tháp Thứ Hai một mình, và bị đóng đinh trên đỉnh chói sáng của nó, cậu ấy đã đứng yên nửa giờ trên độ cao bốn trăm feet. Tôi có thể thấy giờ cậu ta đang giang rộng cái chân mang bít tất dài xuống dưới trong nỗ lực vô ích để chạm tới khe nứt kế tiếp, rồi lại phải quay lại, có thể thấy gương mặt bị tra tấn của cậu ấy, một vết trắng trên nền đá granite đỏ.
Rồi gương mặt ấy biến mất và bóng tối vây quanh tôi, những ảo cảnh của bóng tối: sự sống, vụ lở tuyết không thể cưỡng lại được, nấm mồ tuyết tôi đã bị chìm trong đó – ôi! Nhiều năm trước; Ayesha đã đòi sinh mệnh của Leo trong tay tôi. Bóng tối và im lặng, đến mức tôi chỉ có thể nghe thấy tiếng nứt gẫy trong cơ bắp của chính mình.
Đột nhiên trong bóng tối một tia sáng xuất hiện, trong im lặng một âm thanh vang lên. Tia sáng của con dao Leo vừa rút ra. Cậu ấy đang chặt mạnh vào sợi dây rất quyết liệt, quyết liệt, làm cho mọi chuyện kết thúc. Còn âm thanh chính là tiếng ồn cậu ấy tạo ra, tiếng ồn như ma quỉ, nửa hét lên thách thức, nửa gào rú ghê sợ, tới nhát thứ ba nó rơi mất.
Tôi nhìn nó rơi. Lớp da dày bị cắt qua một nửa, phần bị đứt ra cong lên cong xuống như môi trên và môi dưới của con chó dữ, còn phần chưa bị cắt kéo ra từ từ, từ từ, tới khi vô cùng mỏng. Rồi nó đứt, vì thế sợi dây bay xuống và đập vào mặt tôi như một trận đòn roi.
Một lúc sau, tôi nghe thấy tiếng lốp bốp và ngã uỵch. Leo đã đập xuống mặt đất bên dưới. Leo đã chết, tôi đã hình dung ra cậu ấy trong một đống xương thịt nham nhở. Tôi không thể chịu đựng được điều đó. Dây thần kinh và phẩm chất con người trong tôi quay lại. Tôi không thể chờ đợi tới khi kiệt sức, tôi trượt khỏi vị trí của mình như con chim bị thương rơi khỏi cành cây. Không, tôi muốn đi theo cậu ấy ngay lập tức, bằng hành động của chính mình.
Tôi để hai tay rơi xuống chống đỡ cơ thể, và vui mừng tin tưởng trong đau đớn rằng hành động đó sẽ làm tôi tan nát. Sau đó cân bằng hai gót chân, tôi đứng được dậy, nhìn lần cuối bầu trời, lẩm bẩm lời cầu nguyện cuối cùng. Một lúc sau tôi vẫn duy trì tư thế thăng bằng như vậy.
Hét lên “Bác tới đây,” tôi giơ tay lên đầu và nhảy xuống như một người đi tắm lặn xuống, lặn vào trong vực thẳm tối đen bên dưới.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Thứ Ba, 23 tháng 6, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 4



Chương 4: Tuyết lở

Sau đêm đó, vào sáng ngày thứ hai lúc mặt trời mọc đã thấy chúng tôi trên đường băng qua sa mạc. Đằng kia, gần một dặm phía sau, chúng tôi có thể nhìn thấy tượng Phật đổ nát ngồi trước tu viện cổ, trong không gian sáng rõ đó thậm chí có thể phân biệt được thân hình còng còng của người bạn Kou-en, vị tu viện trưởng già nua, đang dựa vào đó cho tới khi chúng tôi hoàn toàn không thể nhìn thấy gì. Tất cả các nhà sư đều khóc khi chúng tôi chia tay họ, Kou-en còn khóc thảm thiết hơn những người kia, vì ông đã yêu mến chúng tôi.
“Ta rất buồn,” ông nói, “rất buồn, thực ra ta không nên thế, vì cảm xúc thế này có thể tạo ra tội lỗi. Nhưng ta thấy thoải mái, vì ta biết rất rõ rằng dù ta sắp phải rời bỏ kiếp sống này, chúng ta vẫn sẽ gặp lại nhau trong nhiều kiếp số trong tương lai, sau khi các ngươi đã từ bỏ những hành động điên rồ này, và cùng nhau bước vào chính đạo hưởng bình an hòa hảo. Giờ ta sẽ cầu nguyện và ban phước lành cho các ngươi, hãy đi đi, đừng quên các ngươi nên sống sót trở về” – ông lắc đầu nghi ngại – “các ngươi sẽ luôn được chào đón ở đây.”
Và chúng tôi ôm ông ấy rồi buồn bã ra đi.
Nhớ rằng khi ánh sáng bí ẩn chiếu vào chúng tôi trên đỉnh núi, tôi có mang theo la bàn nên có khả năng phỏng đoán được phương vị tương đối. Do thiếu các công cụ định vị tốt hơn, giờ chúng tôi đành đi theo phương hướng của nó, tiến về gần phía đông bắc, vì hướng đó có ánh lửa phát ra. Cả ngày thời tiết tuyệt đẹp, chúng tôi đi bộ qua sa mạc rải rác hoa cỏ, không thấy gì ngoài vài con thú săn mồi và một hai bầy lừa hoang vừa xuống núi tìm cỏ mới mọc. Đến tối chúng tôi bắn được một con linh dương và dựng trại – vì chúng tôi cũng mang theo con bò cùng cái lều – giữa bụi cây thánh liễu, những cành khô của nó được chúng tôi trang bị làm nhiên liệu. Chúng tôi không thiếu nước, nhờ cạo trong cát ngậm tuyết tan chảy, chúng tôi đã có đủ nước dùng được. Vì thế đêm đó chúng tôi ăn tối xa xỉ với trà và thịt linh dương, quả thực chúng tôi rất vui vì điều đó, do lương khô dự trữ của chúng tôi có khá ít.
Sáng hôm sau chúng tôi xác định chắc chắn vị trí của mình, ước đoán đã đi được một phần tư sa mạc, phỏng đoán rất chính xác vì vào tối ngày thứ tư của hành trình, chúng tôi đã tới chân dãy núi đối diện, không hề gặp tai nạn hay bị kiệt sức. Như Leo nói, mọi thứ “đang diễn ra đều đặn như máy”, nhưng tôi phải nhắc nhở cậu rằng khởi đầu tốt thường kết thúc tệ. Tôi đã không sai, vì gian khổ của chúng tôi giờ mới tới. Thoạt tiên, dãy núi cho thấy nó quá cao; chúng tôi mất hai ngày mới trèo lên được sườn núi thấp hơn của nó. Sức nóng của mặt trời cũng làm tuyết mềm đi, khiến mất nhiều sức hơn khi đi bộ trên tuyết, dù chúng tôi đã quen với tình huống thế này suốt những năm tháng dài du ngoạn, nhưng vẻ lộng lẫy của nó vẫn làm mắt chúng tôi bị tác động.
Sáng ngày thứ bảy chúng tôi đã ở đầu hẻm núi dẫn tới tâm dãy núi. Dường như đó là lối đi duy nhất có thể đi, chúng tôi đi theo nó, và rất vui sướng khi khám phá ra ở đó từng có một con đường chạy qua. Chúng tôi cũng không thể nhìn thấy con đường đó, thực ra mọi thứ đều bị chôn vùi trong tuyết. Nhưng chúng tôi chắc chắn nó nằm bên dưới chân mình, vì dù đi bộ dọc theo cạnh vách đá, nhưng lối đi này luôn bằng phẳng dù hơi dốc; hơn nữa đá trên một mặt đều bị đắp thành dốc đứng dưới bàn tay con người. Chắc chắn vậy, vì tuyết không bám ở đó, chúng tôi còn thấy những dấu hiệu có mục đích trên bề mặt bị bóc trần của nó.
Chúng tôi cũng đi qua vài chỗ có hành lang được dựng nhô ra khỏi sườn núi, đi được nhờ những thanh dầm, một hình thức phổ biến ở Tây Tạng. Những thanh dầm này tất nhiên đã bị mục nát từ lâu, tạo thành một hố ngăn cách giữa chúng tôi và phần tiếp theo của lối đi. Khi gặp những chỗ ngăn lại như thế, chúng tôi buộc phải quay lại đi đường vòng quanh hay đi qua ngọn núi nào đó; dù bị chậm lại rất nhiều, chúng tôi vẫn luôn cố gắng bám theo con đường, bất chấp khó khăn và nguy hiểm.
Thứ thử thách chúng tôi hơn cả - vì chỗ này kỹ năng và kinh nghiệm leo núi không thể giúp gì cho chúng tôi – là giá lạnh khi đêm xuống, buộc chúng tôi phải cắm trại trong sương giá khắc nghiệt ở nhiệt độ rất lớn, chịu đựng hàng giờ dài lê thê trong bóng tối, gió lạnh như băng thâm nhập, rì rào không ngừng nghỉ dưới hẻm núi.
Cuối cùng vào ngày thứ mười, chúng tôi cũng đi hết hẻm núi, lúc đó màn đêm đã buông xuống, cắm trại chỗ này là lạnh giá nhất. Đó là những giờ phút khổ sở, vì giờ chúng tôi không còn nhiên liệu để đun nước, phải chống khát bằng cách ăn tuyết đông lạnh, trong khi mắt đau nhức khủng khiếp vì không thể ngủ, dù chúng tôi có chăn và chút ấm áp từ con bò trong lều nhỏ, giá buốt vẫn làm răng chúng tôi đập vào nhau như đọc phách.
Bình minh tới, theo sau nó là mặt trời. Chúng tôi bò ra khỏi lều, đứng một lúc, kéo lê chân tay đã cứng đờ khoảng một trăm thước tới chỗ hẻm núi có ngã rẽ, để có thể vận động dưới ánh mặt trời, vì lúc đó ánh nắng không thể chạm tới chỗ chúng tôi dựng trại.
Leo đi vòng quanh trước tiên, tôi nghe thấy cậu kêu lên một tiếng kinh ngạc. Vài giây sau, tôi tới chỗ cậu ấy, và ôi! Trước mắt chúng tôi là Miền Đất Hứa.
Xa xa bên dưới chúng tôi, ít nhất phải hàng chục nghìn feet – nhớ rằng chúng tôi đang quan sát từ trên đỉnh núi – nó trải dài mãi, dài mãi tới tận chân trời xa xôi. Về đặc điểm, nó khá bằng phẳng, một đồng bằng phù sa có lẽ từ thời nguyên thủy, nằm dưới đáy một trong các hồ lớn ở Trung Á, hầu hết chúng giờ đã trong quá trình khô cạn. Đối tượng duy nhất làm giảm độ bằng phẳng ảm đạm này, một ngọn núi khổng lồ phủ đầy tuyết đơn độc, ở phía xa xa – nó thật sự cách rất xa chúng tôi – chúng tôi có thể thấy rõ ràng đường nét của nó. Thực ra chúng tôi còn có thể thấy nhiều hơn thế, vì từ trên đỉnh tròn của nó bốc lên một cột khói lớn, cho thấy đó là một ngọn núi lửa đang hoạt động, trên miệng núi lửa, có một cột trụ bằng đá khổng lồ, đỉnh của nó có hình vòng dây thòng lọng.
Đúng, nó đang ở kia trước mặt chúng tôi, biểu tượng trong ảo cảnh chúng tôi đã tìm kiếm nhiều năm qua, cảnh đó làm tim chúng tôi đập nhanh hơn và thở dồn dập. Chúng tôi nhận ra ngay rằng, dù không nhìn thấy nó suốt đoạn đường qua dãy núi, vì các đỉnh cao và sườn đá của hẻm núi đã che mất nó, nhưng độ cao của nó thật đáng kể, vượt quá cả đỉnh cao nhất của dãy núi này. Điều đó làm chúng tôi hiểu ra làm sao tia sáng lại có thể đi xuyên qua vòng dây thòng lọng tới đỉnh tuyết cao nhất chúng tôi từng trèo lên bên phía kia sa mạc.
Chúng tôi giờ cũng chắc chắn về nguyên nhân tia sáng, vì khói phía sau vòng dây thòng lọng đã giải thích cho bí ẩn này. Không nghi ngờ gì, ngọn núi lửa thức tỉnh, khói để thế chỗ cho ngọn lửa, phát ra ánh sáng cường độ ghê sợ, ánh sáng đó từng bắn tới chỗ chúng tôi, tập trung và điều khiển bởi vòng dây.
Nhìn những thứ còn lại, chúng tôi cho rằng cách đây khoảng ba mươi dặm có thể là một thị trấn mái nhà toàn màu trắng nằm trên một gò đất, giữa cây cối bên bờ một con sông rộng chảy qua vùng đồng bằng. Rõ ràng đất nước này có dân số đông đảo làm nghề trồng trọt chăn nuôi, vì nhờ cặp kính hiện trường, một trong số vật sở hữu còn lại ít ỏi và hữu dụng của chúng tôi, chúng tôi có thể nhìn thấy màu xanh tươi tốt của cây cối xen lẫn các kênh thủy lợi và những hàng cây đánh dấu đường biên của các cánh đồng.
Đúng, trước mặt chúng tôi là một Miền Đất Hứa mênh mông, Ngọn Núi thần bí mọc lên sừng sững ở đó, tất cả những gì chúng tôi phải làm là xuống núi và bước vào nơi chúng tôi muốn.
Vì thế trong chút phỏng đoán điên rồ về những gì phía trước, dù kinh hãi và đau đớn chúng tôi cũng cho rằng phải chịu đựng vượt qua trước khi đứng dưới bóng Biểu Tượng của Sự Sống.
Chúng tôi quên hết mệt mỏi, trở lại lều, vội vàng nuốt chút thức ăn khô, rửa sạch những tảng tuyết gây ê răng và làm chúng tôi đông lạnh bên trong, nhưng vì đói khát, chúng tôi buộc phải ăn, rồi kéo con bò khốn khổ đứng dậy, chất đồ lên nó, và lên đường.
Từ lúc đó, chúng tôi càng vội vã và cứ như thế mỗi người chúng tôi đều bị suy nghĩ của riêng mình chiếm giữ, nếu tôi nhớ không sai, chúng tôi hiếm khi trao đổi với nhau lời nào. Xuống sườn núi, chúng tôi đi bộ nhanh chóng không do dự, vì con đường giờ đây được đánh dấu bằng các cột trụ bằng đá đặt đối diện nhau đều đặn. Chúng tôi hài lòng quan sát những cột trụ này, chúng nói cho chúng tôi biết mình vẫn ở trên con đường chính dẫn tới Miền Đất Hứa.
Nhưng, không thể không chú ý, một thứ dường như đã vô dụng, ngoại trừ vài bầy cừu hoang và đàn gấu hay cáo núi, chúng tôi không phát hiện có một dấu hiệu nào của loài vật hay con người. Tuy nhiên chúng tôi cho rằng điều này chắc là do con đường chỉ được dùng trong mùa hè. Hoặc có lẽ cư dân của đất nước này giờ toàn ngồi nhà, không hề thích đi đây đó.
Sườn núi dài hơn chúng tôi nghĩ, quả thực khi bóng tối phủ lên, chúng tôi vẫn chưa tới chân núi. Vì thế chúng tôi buộc phải sống một đêm nữa trong tuyết, dựng lều trú ẩn bên một hòn đá treo. Vì đã đi xuống hàng nghìn feet, thật may mắn nhiệt độ đã nhẹ hơn; thật ra tôi không nghĩ đêm nay sương giá lại quá mười tám hay hai mươi độ. Đây đó, sức nóng của mặt trời đã làm tuyết tan chảy vài chỗ hẻo lánh, vì thế chúng tôi có thể tìm được nước uống, còn con bò có thể lấp đầy cái dạ dày già nua khốn khổ của nó bằng đám rêu núi đã héo tàn, dù sao còn tốt hơn không có gì.
Bình minh lại lên, ném tấm áo đỏ rực lên dãy núi cô độc vô tận, chúng tôi kéo lê đôi chân tê cóng, ăn chút đồ ăn còn lại, rồi lại lên đường. Giờ chúng tôi không thể nhìn thấy đất nước bên dưới nữa, vì nó và cả ngọn núi lửa cao chót vót đều bị che khuất bởi một sườn núi xen vào giữa, sườn này có lẽ bị một con mương hẹp cắt qua, hướng tới chỗ chúng tôi đứng. Thực ra, các cột trụ cũng chỉ cho chúng tôi thấy nơi này có một con đường bị chôn vùi chạy qua. Đến trưa, nó đã rất gần chúng tôi, chúng tôi vội vã sốt sắng bước tới. Nhưng thật may, không cần vội, vì một giờ sau chúng tôi mới biết sự thật.
Giữa chúng tôi và đầu đoạn mương hiện ra kia, đúng hơn đoạn mương bị chìm xuống, một vách núi dựng đứng sâu khoảng ba hay bốn trăm feet, chúng tôi không nghe thấy tiếng nước dưới chân.
Bên phải vách núi có lối đi nhỏ, vì một trong các cột trụ bằng đá đứng bên bờ chênh vênh của nó, một con đường có thể đi xuống nơi như vậy thế nào đây? Chúng tôi kinh ngạc nhìn chằm chằm; rồi một giải pháp khả thi xuất hiện.
“Bác không thấy sao,” Leo nói với nụ cười trống rỗng, “vực này xuất hiện từ khi con đường này được sử dụng: có lẽ do hoạt động của núi lửa.”
“Có lẽ vậy, hoặc có thể có một cây cầu gỗ hay cầu thang đã mục nát. Không vấn đề gì. Chúng ta phải tìm lối đi khác, thế thôi,” tôi trả lời một cách vui vẻ nhất có thể.
“Đúng, làm ngay thôi,” cậu nói, “nếu chúng ta không muốn dừng ở đây mãi mãi.”
Vì vậy chúng tôi rẽ sang phải và đi bộ dọc theo rìa vách đá, được khoảng một dặm, chúng tôi đi tới một sông băng nhỏ, bề mặt rải rác những khối đá lớn đã đông lại. Sông băng này chảy xõa xuống bề mặt vách đá như một thác nước hóa đá, nhưng tới chân vách hay không, chúng tôi không thể thấy được. Dù sao nghĩ về nguồn gốc của nó dường như vượt ra ngoài phạm vi chủ đề. Từ chỗ này, chúng tôi có thể nhìn thấy vực đá tăng dần độ sâu, mắt người cũng không thể thấy sâu bao nhiêu.
Thế nên chúng tôi trở lại tìm kiếm bên trái con đường. Ở đây dãy núi lùi dần, phía trên chúng tôi là một sườn núi tuyết hùng vĩ và dốc đứng nhô lên, còn bên dưới là chính cái vực tàn nhẫn không thể trèo qua được đó. Khi ánh nắng đã bắt đầu nhạt dần, chúng tôi nhận ra khoảng nửa dặm phía trước gò đá có đỉnh trọc bên bờ vách núi, và chạy tới đó, chúng tôi nghĩ từ trên đỉnh đó có thể phát hiện ra đường xuống.
Cuối cùng khi đã vất vả leo tới đỉnh, cao khoảng một trăm năm mươi feet; những gì chúng tôi phát hiện ra là, nơi này, cũng như dưới sông băng, là vịnh sâu không xác định được, sâu hơn cả chỗ cuối con đường, quả thật sâu tới mức chúng tôi không thể thấy đáy, dù từ dưới đó vẫn vang lên tiếng nước gầm rú. Hơn thế, nó chỉ rộng chừng nửa dặm.
Trong khi chúng tôi nhìn quanh, mặt trời chìm dần biến mất sau một ngọn núi, bầu trời trở nên nặng nề, chớp lóe lên như ngọn nến. Giờ đi lên gò đá quả thật quá dốc, đặc biệt chúng tôi buộc phải trèo lên một loại bậc thang bằng đá, chúng tôi hầu như không quan tâm tới việc đi xuống trước đêm tối. Nhớ ra phải lựa chọn giữa đỉnh gò đá này và dải tuyết dưới chân, cái nào có thể tránh được nhiệt độ hay có những thuận lợi khác đây, nhưng giờ chúng tôi hoàn toàn kiệt sức nên quyết định cả đêm sẽ ở trên gò, nhờ đó, chúng tôi mới biết đã cứu mạng chính mình.
Dỡ đồ khỏi con bò, chúng tôi dựng lều dưới mạn khuất gió gần đỉnh gò đá và ăn vài nắm cá khô cùng bánh ngô. Đó là thức ăn cuối cùng chúng tôi mang theo từ Tu viện, và chúng tôi tuyệt vọng nghĩ rằng nếu không bắn được thứ gì đó, lương thực tiếp tế giờ chỉ còn hiện diện ở con bò, người bạn già nua của chúng tôi. Sau đó chúng tôi quấn mình trong tấm chăn dày và áo lông thú, quên đi những khốn khổ và chìm vào giấc ngủ.
Không lâu trước khi trời sáng, chúng tôi bị đánh thức bởi một âm thanh đột ngột kinh hãi như tiếng nổ của khẩu pháo lớn, tiếp theo là hàng nghìn âm thanh khác, có thể so sánh với hàng loạt đạn đang nhả.
“Lạy Chúa! Cái gì vậy?” Tôi nói.
Chúng tôi bò khỏi lều, nhưng không thể thấy gì, trong khi con bò bắt đầu khụy xuống vì sợ hãi. Nhưng nếu không thể nhìn được, chúng tôi lại có thể nghe và cảm nhận được. Tiếng nổ và tiếng nứt vỡ đã dừng lại, sau đó tới tiếng ồn ào nghiền ken két thoảng qua, âm thanh khiến người ta phát ốm vô cùng, tôi nghĩ vậy. Nó đi kèm với làn gió kỳ lạ, ổn định, và không tự nhiên, dường như ép vào chúng tôi như ép nước. Sau đó bình minh ló ra, và chúng tôi đã quan sát được.
Phía trên chúng tôi, sườn núi đang chuyển động xuống dưới trong vụ lở tuyết cực lớn.
Ôi! Đúng là cảnh đó. Từ đỉnh vách đá phía trên, khoảng hai dặm, một thứ sống động, cuộn tròn, lăn, trượt; chồng chất những đợt sóng dài nhảy nhót, đục khoét vách đá thành thung lũng trũng xuống, như đại dương bị bão tố vần vũ, trong khi trên bề mặt treo lơ lửng đám mây bột đầy bụi nước đông lạnh.
Chúng tôi nhìn và bám vào nhau vì kinh sợ, con sóng đầu tiên đập vào gò đất của chúng tôi, khiến khối đá hùng vĩ rung động như con thuyền quay cuồng trong cơn lốc biển, hay một cây dương liễu trong trận gió đột ngột. Nó đập vào và chầm chậm vỡ ra, rồi dưới một chuyển động oai hùng, chảy như nước về phía rìa vách đá phía kia, và rơi xuống vực sâu khôn lường bên dưới trong âm thanh uỳnh uỵch. Đó chỉ là một con sóng nhỏ, kẻ tiên phong, vì sau đó, trong chuyển động chậm rãi, quanh co, toàn bộ đống tuyết lở cuộn chảy.
Nó xô thành thành đợt sóng lớn cuồn cuộn, như lũ lụt. Nó lấp đầy trước cái gò đá chúng tôi đứng, đúng, chỉ năm mươi feet là tới đỉnh gò, tới lúc đó chúng tôi thậm chí đã nghĩ khối đá chúng tôi đang đứng phải bị xé tan thành từng mảnh và bị ném xuống vực sâu bên dưới như một viên sỏi. Tất cả như một đống hỗn độn! Tiếng gào thét do không khí bị nén phát nổ, tiếng va đập uỳnh uỵch điên cuồng không ngớt của dòng thác hàng triệu tấn tuyết như thể chúng đang phi vào không gian và kết thúc hành trình trong vực thẳm.
Đó cũng chưa phải là điều tồi tệ nhất, vì khi hàng lớp tuyết dày bên trên bị bóc mỏng đi, những tảng đá lớn đã bị chôn vùi bên dưới chúng có lẽ từ hàng thế kỷ qua bị tháo lỏng khỏi nơi chúng đứng và bắt đầu giáng xuống gò đá như sấm sét. Thoạt tiên chúng di chuyển chầm chậm, bắn lên lớp tuyết cứng quanh chúng như mũi tàu lao vào bọt biển. Sau khi có đà, chúng nhảy vào không gian như lớp vỏ bật ra khỏi nước, cuối cùng, hát ca và đổ ầm ầm xuống, nhiều hòn băng qua trước mặt và trên đầu chúng tôi rồi biến mất xa xa bên dưới. Thực tế có một số ít hòn đá tấn công ngọn núi nhỏ của chúng tôi bằng lực bắn từ những khẩu súng lớn trên chiến hạm, rồi vỡ ra ở đó hoặc nếu rơi xuống bên sườn của gò đá, thì cũng bị xé tan thành hàng tấn đá và rơi xuống vực thẳm như sao băng với cả đống vệ tinh bao quanh. Quả thực, không có vụ đánh bom oanh tạc nào được con người bày ra và điều khiển có thể đáng sợ bằng một nửa cảnh này, hoặc nếu có gì có tính phá hủy, đều không có sức tàn phá bằng một nửa chỗ này.
Cảnh tượng kinh sợ như giải thoát và không thể cưỡng lại được, có lẽ đột ngột phát triển từ trong tĩnh lặng tuyệt đối. Ở đó trong lòng dãy núi yên tĩnh, bầu trời thanh bình nền nã nhìn xuống, sức mạnh ẩn chứa trong lồng ngực của Tự Nhiên bỗng được giải phóng, kéo theo những cơn lốc xoáy và tất cả âm thanh uy nghi gây kinh sợ, thong thả đổ lên đầu hai con người nhỏ bé chúng tôi.
Vào lúc cao điểm lở tuyết đầu tiên, chúng tôi đã nhảy lui lại phía sau đỉnh núi chắn gió, nằm dài trên mặt đất, bám chặt vào nó, sợ hãi gió sẽ cuốn chúng tôi xuống vực. Một lúc trước đó, cái lều của chúng tôi đã bị cuốn đi như chiếc lá úa trong gió thu, và chúng tôi đều có thể đi theo bất cứ lúc nào.
Đống đá phi ầm ầm phía trên và qua cả người chúng tôi; một hòn rơi đầy trên cái đỉnh nhỏ, vỡ tan thành nhiều mảnh, như đang trốn chạy và hát khúc ca hoang dại. Chúng tôi không được xúc động, nhưng khi quay lại phía sau nhìn con bò, thật kinh khủng, nó đã nằm chết mất đầu. Trong nỗi sợ hãi, chúng tôi vẫn nằm đó, chờ tới lúc kết thúc, lờ mờ tự hỏi liệu chúng tôi có bị chôn vùi trong đống tuyết đang tràn xuống hay bị quét khỏi gò đá, hoặc bị những tảng đá đang bay xuống nghiền nát, hoặc bị cuốn lên và mất tích trong cơn cuồng phong.
Nó kéo dài bao lâu? Chúng tôi không bao giờ biết được. Có lẽ mười phút hoặc hai giờ, vì thời gian đã mất đi vẻ cân xứng trong tình huống thế này. Chỉ khi chúng tôi nhận ra gió đã giảm, thanh âm ồn ã của tuyết lở và đá lăn ầm ầm dừng lại. Rất thận trọng, chúng tôi đứng lên quan sát.
Trước mặt chúng tôi là sườn núi rất dốc, sâu trên hai dặm, rộng khoảng một ngàn thước, từng phủ tuyết lên tới hàng feet, giờ chỉ còn trơ đá. Chồng chất đối diện với gò đá chúng tôi đứng, gần tới đỉnh gò, là một dải tuyết nhô lên, đè xuống đống băng cứng và rải rác những hòn đá nằm đó. Đỉnh gò bị xé tan và vỡ ra, vì thế lộ ra bề mặt sáng bóng và những vết rỗ lấp lánh mica, hay một loại khoáng chất nào đó. Cái vực sâu bên dưới đã được lấp đầy một nửa với đống tuyết lở và các mảnh vỡ. Nhưng phần còn lại, dường như không có gì thay đổi, vì mặt trời đã ngọt ngào tỏa sáng trên đầu và tràng tuyết nghiêm trang phản chiếu những tia nắng từ sườn hàng trăm ngọn đồi. Chúng tôi đã trải qua cảnh đó và vẫn sống sót; đúng, không hề bị thương tích gì.
Nhưng tình thế của chúng tôi mới gay go làm sao! Chúng tôi không dám đi xuống gò đá, chúng tôi không muốn bị chìm trong đống tuyết lỏng lẻo và bị chôn vùi ở đó. Hơn nữa, theo dư chấn của vụ lở tuyết, những hòn đá vẫn thi thoảng lao ầm ầm xuống sườn núi đá, cùng đi với chúng là những mảng tuyết bị bỏ lại phía sau vụ lở lớn, làm thành những vụ lở nhỏ hơn, quả thật thế, mỗi vật đó đều đủ lớn để giết chết cả trăm người. Rõ ràng, chờ tới khi tình huống biến chuyển hoặc thần chết buông tha chúng tôi, nếu không chúng tôi phải chờ đợi trên đỉnh gò đá này.
Và cứ thế chúng tôi ngồi đó, không thức ăn cùng sợ hãi, tự hỏi ông bạn già Kou-en sẽ nói gì nếu thấy chúng tôi bây giờ. Bị cái đói cồn cào làm chủ mọi giác quan, chúng tôi bắt đầu đưa mắt khao khát nhìn cơ thể không đầu của con bò Tây Tạng.
“Lột da nó thôi,” Leo nói, “sẽ có việc gì đó để làm, chúng ta sẽ cần đến da của nó đêm nay.”
Bằng tình cảm, thậm chí cả sự tôn kính, chúng tôi thực hiện điều đó với người đồng hành đã chết giữa cuộc hành trình, vui mừng vì không phải chúng tôi là người gây ra cái chết của nó. Quả thực, sống lâu giữa những dân tộc luôn tin rằng linh hồn con người có thể chuyển hóa, hoặc sinh ra từ cơ thể loài vật, khiến chúng tôi có chút mê tín về vấn đề này. Chúng tôi nghĩ thật khó mà vui được nếu trong kiếp tới, gặp lại người bạn trung thành này dưới hình dạng con người và nghe thấy anh ta cay đắng trách cứ chúng tôi vì đã giết chết anh ta.
Dù đã chết, những lời trách cứ không áp dụng với việc ăn thịt nó, vì chúng tôi chắc nó sẽ hiểu. Vì thế chúng tôi cắt một ít thịt của nó, cán trong tuyết tới khi trông như thể đã được xay thành bột hấp dẫn, cơn đói thúc đẩy chúng tôi nuốt từng miếng lớn. Đó là bữa ăn kinh tởm, chúng tôi cảm thấy như những kẻ ăn thịt người: nhưng chúng tôi có thể làm gì đây?

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Chương 3



Chương 3: Ánh sáng báo hiệu

Một tuần sau đó, cơ hội lên núi của chúng tôi đã tới, vì bấy giờ đang giữa mùa đông, bão gió đã ngừng, rất khó gặp sương giá khiến người ta không thể đi trên bề mặt tuyết. Tìm hiểu từ các nhà sư mới biết được vào mùa này, cừu poli và các loại cừu sừng to hay thú săn khác đều xuống núi trú ẩn trong thung lũng, nơi chúng có thể bới tuyết tìm thức ăn, nên chúng tôi bảo chúng tôi sẽ ra ngoài đi săn. Lý do chúng tôi đưa ra là mệt mỏi vì tù túng và cần tập thể dục, theo tôn giáo của chúng tôi, không phạm tội khi sát sinh.
Các vị chủ nhà đáp rằng cuộc phiêu lưu sẽ rất nguy hiểm, vì thời tiết có thể thay đổi bất cứ lúc nào. Tuy nhiên họ kể cho chúng tôi rằng, trên sườn ngọn núi chúng tôi muốn trèo lên có một hang động tự nhiên rất lớn, nếu cần thiết chúng tôi có thể vào đó trú, với cái hang này, một trong số họ, một người trẻ tuổi hơn và năng động hơn những người khác, đã sẵn lòng dẫn đường cho chúng tôi. Vì thế, sau khi làm được chiếc lều rougri bằng da và chất đầy đồ lên con bò Tây Tạng của chúng tôi, giờ đã ở trong tình trạng tốt nhất với đủ thức ăn và quần áo, vào một sáng tĩnh mịch chúng tôi lên đường ngay khi vừa hửng sáng. Dưới sự hướng dẫn của nhà sư, người bất chấp tuổi tác vẫn đi bộ rất tốt, giữa trưa chúng tôi đã tới sườn phía bắc của đỉnh núi. Ở đó, như nhà sư nói, chúng tôi tìm thấy một cái động rất lớn có lối vào ẩn sau một gờ đá ngầm chênh vênh. Rõ ràng cái động này là một nơi tuyệt vời để trú ẩn cho các loài thú săn mồi bất kỳ mùa nào trong năm, vì nó tích hàng đống phân lớn, chính điều đó xóa tan nỗi lo sợ thiếu nhiên liệu.
Thời gian còn lại trong ngày, chúng tôi dùng để dựng lều trong hang động, chúng tôi đốt một đống lửa lớn phía trước, và khảo sát các sườn của ngọn núi này, vì chúng tôi đã bảo với nhà sư rằng cần tìm kiếm dấu vết cừu hoang. Quả thực, trên đường quay lại hang, chúng tôi đã đi qua một bầy cừu cái đang ăn rêu trong chỗ trú ẩn nơi có con suối nhỏ chảy ra khi hè tới. Chúng tôi thật may mắn tóm được hai con trong số đó, do không có vận động viên nào từng tới đây, bọn chúng đều khá phục tùng, những con vật khốn khổ. Vì thịt có thể giữ được mãi trong nhiệt độ này, giờ chúng tôi đã có đủ thức ăn cho hai tuần, kéo hai con vật xuống sườn núi tuyết tới hang động, chúng tôi lột da chúng trong ánh sáng sắp tàn.
Tối đó chúng tôi ăn tối bằng thịt cừu tươi, một sự xa xỉ lớn, điều nhà sư cũng như chúng tôi vô cùng thích thú, vì dù quan điểm sống của ông ấy là gì, ông ấy vẫn thích thịt cừu. Sau đó chúng tôi trở vào trong lều và ôm nhau ngủ cho ấm, vì nhiệt độ phải vài độ âm. Nhà sư già nghỉ ngơi khá tốt, nhưng Leo và tôi không ngủ được quá nhiều, vì mải băn khoăn chúng tôi có thể thấy gì từ đỉnh núi đã xua tan cơn buồn ngủ.
Bình minh sáng hôm sau, thời tiết vẫn tuyệt đẹp, người bạn đồng hành của chúng tôi trở lại tu viện, chúng tôi bảo muốn đi cùng ông ấy bất cứ đâu trong một hai ngày nữa.
Bây giờ cuối cùng chúng tôi còn lại một mình, không lãng phí dù một khắc, chúng tôi bắt đầu trèo lên đỉnh. Nó cao hàng nghìn feet và vài chỗ khá dốc, nhưng tuyết đã đóng băng rất sâu khiến việc trèo lên thật dễ dàng, vì thế giữa trưa chúng tôi đã tới đỉnh. Bên dưới chúng tôi sa mạc trải dài, phía bên ngoài nó một vành đai rộng lớn đầy núi non hình thù kỳ ảo phủ đầy tuyết, hàng trăm hàng trăm ngọn; trước mặt, bên phải, bên trái, xa tít tắp nếu mắt thường có thể thấy được.
“Chúng đúng như cháu đã nhìn thấy trong giấc mơ nhiều năm về trước đó,” Leo lẩm bẩm, “giống hệt, giống vô cùng.”
“Ánh lửa ở đâu đây?” tôi hỏi.
“Cháu nghĩ ở đằng kia,” và cậu ấy chỉ vào phía bắc của mạn đông.
“Được, giờ nó không có ở đó,” tôi đáp, “và nơi này rất lạnh.”
Vì vậy, nán lại thật nguy hiểm, e rằng trời tối mất khi chúng tôi quay lại, chúng tôi lại trèo xuống, về đến hang động lúc hoàng hôn. Bốn ngày liền sau đó chúng tôi làm y như thế. Mỗi sáng chúng tôi trườn lên trên đống tuyết chán ngắt, mỗi chiều lại trượt xuống, tới khi tôi thật sự mệt mỏi với bài thể dục này.
Vào đêm thứ tư, thay vì đi ngủ trong lều, Leo một mình ngồi trước cửa hang. Tôi hỏi tại sao làm vậy, nhưng cậu nóng nảy đáp rằng, vì cậu muốn làm thế, vì thế tôi kệ cậu ấy một mình. Thật ra tôi có thể hiểu, cậu đang trong tâm trạng khó chịu kỳ lạ, vì cuộc tìm kiếm thất bại làm cậu bị áp lực. Hơn nữa, cả hai chúng tôi đều biết rằng, chuyện này không thể kéo dài, vì thời tiết có thể tàn phá bất cứ lúc nào, khiến việc lên đỉnh núi thành bất khả thi.
Nửa đêm, Leo lay người đánh thức tôi và bảo – “Lại đây, bác Horace, cháu chỉ cho bác cái này.”
Tôi miễn cưỡng bò ra khỏi tấm chăn và chui ra ngoài lều. Mặc quần áo lúc này không cần thiết, vì chúng tôi ngủ để nguyên quần áo. Cậu dẫn tôi tới cửa hang và chỉ về phía bắc. Tôi nhìn theo. Đêm rất tối; nhưng phía xa xa xuất hiện một mảnh sáng mờ nhạt trên bầu trời, có lẽ là do một đống lửa xa xôi phản chiếu lại.
“Bác nghĩ sao?” cậu lo lắng hỏi.
“Không có gì đặc biệt,” Tôi đáp, “nó có thể là bất kỳ thứ gì. Mặt trăng – không, không có gì, mặt trời lúc bình minh – không, quá gần phương bắc, mặt trời không thể tới trong ba giờ nữa. Cái gì đó đang cháy, một ngôi nhà, hay một giàn thiêu, nhưng làm sao lại có những thứ như thế ở đây cơ chứ? Bác chịu.”
“Cháu nghĩ đó là do khúc xạ, nếu chúng ta lên đỉnh, chúng ta có thể nhìn thấy ánh sáng sinh ra nó,” Leo từ tốn nói.
“Đúng, nhưng chúng ta không thể lên đó vào ban đêm.”
“Bác Horace, chúng ta phải lên đó vào một đêm nào đó.”
“Đó sẽ là phút cuối của chúng ta trong kiếp này,” tôi cười nói, “nếu ta đi được trên tuyết.”
“Chúng ta phải mạo hiểm, hoặc cháu sẽ mạo hiểm. Nhìn kìa, ánh sáng đã nhạt dần,” ít ra cậu ấy đã đúng, không nghi ngờ gì nữa. Đêm lại tối đen như hắc ín.
“Chúng ta sẽ nói chuyện đó ngày mai,” tôi nói, rồi trở lại lều, vì tôi đang buồn ngủ và đầy hoài nghi, nhưng Leo vẫn ngồi ở cửa hang.
Lúc bình minh, tôi thức dậy và thấy bữa sáng đã nấu xong.
“Cháu phải khởi hành sớm,” Leo giải thích.
“Cháu điên à?” Tôi hỏi, “Chúng ta sẽ cắm trại ở trên đó như thế nào đây?”
“Cháu không biết, nhưng cháu sẽ đi. Cháu phải đi, bác Horace.”
“Có nghĩa là cả hai chúng ta phải đi. Thế còn con bò?”
“Nơi chúng ta có thể trèo, nó cũng có thể đi theo.” Cậu trả lời.
Vì thế, chúng tôi buộc lều và hành lý, cả thịt đã nấu chín, lên lưng con bò và khởi hành. Chuyến đi bộ rất dài vì chúng tôi phải đi đường vòng nhiều lần để tránh sườn tuyết đã đóng băng mà trong mấy lần trèo lên trước đó, chúng tôi đã phải dùng rìu cắt thành hố để đặt chân, những hố đó con vật đang thồ đầy hàng không thể leo được. Khi lên tới đỉnh, chúng tôi đào một cái hố, dựng lều ở đó bằng cách đóng cọc lên tuyết. Lúc này trời bắt đầu tối, con bò cùng tất cả đi vào trong lều, chúng tôi ăn xong và chờ đợi.
Ôi! Thật lạnh lẽo. Sương giá thật ghê sợ, ở độ cao này gió thổi hơi thở băng giá xuyên qua lớp chăn, như thể thiêu đốt da thịt bên dưới như sắt nung. Thật may chúng tôi đã mang theo con bò, vì nếu không có sự ấm áp từ cơ thể xù xì của nó, tôi tin chúng tôi đã chết, dù ở trong lều. Sau vài giờ quan sát, thực tế chúng tôi phải làm thế, vì ngủ có nghĩa là chết, vẫn không nhìn thấy gì ngoài những vì sao cô đơn, không nghe thấy gì trong bầu im lặng khủng khiếp, thậm chí ngay cả gió cũng không gây tiếng ồn khi trượt trên tuyết. Tôi đã quen với tình thế như vậy, các giác quan của tôi đều tê cóng và mắt muốn nhắm lại, bỗng nhiên Leo nói – “Nhìn kìa, một ngôi sao màu đỏ bên dưới!”
Tôi nhìn theo, ở xa kia trên bầu trời là vùng sáng kỳ lạ tương tự chúng tôi đã nhìn thấy đêm trước. Còn hơn thế, vì bên dưới nó, gần như nằm trên đường thẳng với chúng tôi và ngay trên những đỉnh của các ngọn núi xen vào, xuất hiện một dải lửa mờ nhạt và đối lập với nó, một cái gì đó tối đen lộ ra. Trong lúc chúng tôi quan sát, ánh lửa trải rộng ra, lan lên trên, độ sáng và sức mạnh tăng lên. Giờ đây trước nền rực sáng đó, vật thể tối đen có thể nhìn thấy rõ hơn, ôi! Đó là đỉnh một cột trụ cao vút có chiếc thòng lọng phủ lên. Đúng, chúng tôi có thể nhìn thấy từng đường nét của nó. Đó là crux ansata, Biểu Tượng Của Sự Sống.
Biểu tượng đó biến mất, ánh lửa chìm dần. Rồi ngọn lửa lại bùng lên rực rỡ hơn trước một lần nữa, chiếc thòng lọng lại xuất hiện và lại biến mất. Lần thứ ba dải lửa bùng sáng lên với cường độ như thế, không tia chớp nào có thể sáng hơn thế. Mọi thứ trên bầu trời đều được thắp sáng, và qua lỗ kim tối đen của biểu tượng đó, giống như ngọn hải đăng hay đèn dò đường của tàu thuyền, một đường sáng mạnh mẽ bắn lên xuyên qua cả biển đỉnh núi non trùng điệp và sa mạc mênh mông, thẳng như mũi tên tới đỉnh núi sừng sững chúng tôi đang ngồi. Đúng, nó sáng bừng trên tuyết, nhuốm màu đỏ, và chiếu sáng gương mặt trắng bợt đang dại ra quan sát của chúng tôi, dù bên phải và bên trái chúng tôi đều phủ bóng tối dày đặc. Chiếc la bàn nằm trên tuyết trước mặt tôi, và tôi thậm chí có thể nhìn thấy kim của nó; bên ngoài hình dáng một con cáo trắng đang bò lại gần đánh hơi thức ăn. Sau đó nó biến mất nhanh như khi đến. Biểu tượng và tấm che bằng lửa sau nó cũng biến mất, chỉ còn ánh sáng vẫn nán lại chút ít trên bầu trời xa xa.
Chúng tôi im lặng một lúc, rồi Leo nói – “Bác có nhớ không, bác Horace, khi chúng ta nằm trên Tảng Đá Xích Đu mà chiếc áo choàng của nàng đã cuốn lên người cháu ấy – “ khi cậu nói những lời này, hơi thở như bắt chẹt lấy cổ họng – “ánh sáng đã được gửi tới chúng ta để chào tạm biệt, và chỉ cho chúng ta đường thoát ra khỏi Nơi Tử Thần đó như thế nào? Giờ cháu nghĩ nó lại được gửi tới chúng ta để chào đón và chỉ ra con đường tới Nơi của Sự Sống mà Ayesha đang trú ngụ, chúng ta đã lạc mất nàng một thời gian rồi.”
“Có lẽ vậy,” tôi đáp lời ngắn gọn, vì vấn đề đã vượt ra ngoài phát ngôn hay tranh luận, thậm chí vượt ra ngoài hiếu kỳ. Nhưng tôi biết giờ chúng tôi đã là diễn viên trong vở kịch định mệnh phi thường; phần của chúng tôi đã viết xong và chúng tôi phải ra diễn, cũng như con đường của chúng tôi đã được chuẩn bị sẵn và chúng tôi phải bước trên đó tới kết cục không biết rõ. Sợ hãi và hoài nghi được bỏ lại phía sau, hy vọng tất nhiên cũng chìm dần; những ảo cảnh làm điềm báo trong đêm đó đã thực sự hiện ra hết và hạt mầm đáng thương mà bà ấy hứa hẹn dù đã qua đời vẫn nảy nở vô hình suốt những tháng năm trống rỗng và tàn nhẫn kia, giờ đã tới lúc thu hoạch.
Không, chúng tôi không sợ hãi nữa, thậm chí cả khi bình minh mang đầy gió thét gào, khiến chúng tôi chật vật xuống núi, dường như có thể cướp đi mạng sống mỗi bước đi; thậm chí cả khi hàng giờ chúng tôi phải tranh đấu trong bão tuyết xoay vần, khiến chúng tôi như điếc và mù. Vì chúng tôi biết tính mạng này đã bị bỏ bùa. Chúng tôi không thể nhìn thấy hay nghe thấy, nhưng chúng tôi vẫn được dẫn đi. Bám theo con bò, chúng tôi vật vã đi xuống và về nhà, cho tới khi ra khỏi đống hỗn loạn và bóng tối theo bản năng đưa chúng tôi không hề bị tổn thương gì về tới trước cửa tu viện, nơi vị trụ trì già nua vui sướng ôm chầm lấy chúng tôi, còn các nhà sư khác vội cầu nguyện cảm tạ trời đất. Vì họ chắc rằng chúng tôi đã chết. Họ bảo, với cơn bão như vậy, trước đây chưa từng có ai sống sót.
Vẫn là giữa mùa đông, ôi, tháng ngày chờ đợi mệt mỏi kinh khủng biết bao. Trong tay chúng tôi có chìa khóa, còn cánh cửa đang nằm ngoài kia giữa núi non, nhưng chúng tôi vẫn chưa đặt chìa vào ổ khóa của nó. Vì giữa chúng tôi và những thứ kia là sa mạc mênh mông trải dài, nơi tuyết cuộn thành cột, chúng tôi không dám đi qua trừ khi tuyết tan. Vì thế chúng tôi ngồi trong tu viện, dạy trái tim phải kiên nhẫn.
Cuối cùng mùa xuân đã tới ngay cả chốn hoang dã đã đông lại này của Trung Á. Một đêm không khí đã ấm lên, và đêm đó chỉ còn chút sương giá. Sau đó mây bay đầy trời, buổi sáng tuyết không còn rơi nữa, mà có mưa, chúng tôi thấy các nhà sư già chuẩn bị dụng cụ làm nông, họ bảo mùa gieo hạt sắp tới rồi. Trời mưa suốt ba ngày, tuyết tan dần trước mắt chúng tôi. Vào ngày thứ tư, những cơn mưa như trút dội xuống vùng núi, sa mạc một lần nữa mang màu nâu trần trụi, dù không quá lâu, vì tuần kế tiếp sau đó, nó sẽ trải đầy hoa. Khi ấy, chúng tôi biết đã đến lúc lên đường.
“Nhưng các ngươi đi đâu? Các ngươi đi đâu thế?” vị tu viện trưởng thất vọng hỏi chúng tôi. “Các ngươi không vui khi ở đây sao? Các ngươi không muốn đắc Đạo sao, vì thuyết giảng đạo hạnh của các ngươi có lẽ sẽ nổi tiếng đấy? Mọi thứ chúng ta có không phải là của chính các ngươi sao? Ôi! Tại sao các ngươi lại muốn rời bỏ chúng ta chứ?”
“Chúng tôi là những kẻ lang thang,” chúng tôi trả lời, “khi chúng tôi nhìn thấy dãy núi phía trước, chúng tôi phải vượt qua.”
Kou-en khôn khéo nhìn chúng tôi rồi hỏi – “Các ngươi tìm thứ gì bên kia dãy núi thế? Người anh em, thật có công đức khi che dấu người già sự thật, vì những che dấu như thế chỉ cách sự giả dối bằng chiều dài một hạt lúa mạch duy nhất mà thôi. Hãy nói cho ta, ít ra những lời cầu chúc của ta sẽ đi theo các ngươi.”
“Thưa đức trụ trì linh thiêng,” tôi nói, “thời gian trước trong thư viện, ngài đã thừa nhận với chúng tôi.”
“Ôi! Đừng nói với ta về chuyện đó,” ông giơ tay lên. “Tại sao ngươi muốn làm khổ ta?”
“Đó không phải suy nghĩ của chúng tôi, ngài là người bạn tốt bụng nhất và con người đạo đức,” tôi trả lời. “Nhưng thật tình cờ, câu chuyện của ngài rất giống câu chuyện của chính chúng tôi, và chúng tôi nghĩ đã trải nghiệm với chính vị nữ tu sĩ đó.”
“Nói tiếp đi,” ông bảo, vẻ rất quan tâm.
Rồi tôi kể tóm tắc cho ông câu chuyện của chúng tôi; tôi kể khoảng hơn một giờ trong khi ông ngồi đối diện lắc lư đầu như con rùa và không nói gì. Cuối cùng cũng kể xong.
“Bây giờ,” tôi nói thêm, “hãy để ngọn đèn thông thái của ngài rọi sáng tăm tối của chúng tôi. Ngài không thấy chuyện này thật kỳ diệu sao, hoặc không chừng ngài nghĩ chúng tôi nói dối?”
“Hỡi người anh em của tu viện Thế Giới vĩ đại,” Kou-en đáp bằng điệu cười khúc khích quen thuộc, “tại sao ta phải nghĩ các ngươi nói dối, từ lúc mắt ta dán lên ngươi, ta đã biết các ngươi là người trung thực? Hơn nữa, tại sao ta phải coi chuyện này là rất kỳ diệu? Các ngươi mới vấp phải rìa của một sự thật mà chúng ta đã biết từ rất nhiều, rất nhiều năm trước.”
“Vì bà ấy chỉ cho các ngươi tu viện này trong ảo cảnh, rồi dẫn các ngươi tới chỗ bên kia dãy núi mà bà ta biến mất, ngươi hy vọng người phụ nữ ngươi thấy đã chết này sẽ được tái sinh ở đó. Tại sao không chứ? Không có gì không thể với những ai được dẫn dắt trong chân lý, dù việc kéo dài kiếp sống trước đó của bà ta thật kỳ lạ và trái ngược với lẽ thường. Không nghi ngờ gì nếu ngươi tìm thấy bà ta ở đó như ngươi dự định, và cũng không nghi ngờ gì nếu khama hay danh tính của bà ta, chính là người trong kiếp trước của bà ấy đã từng đưa ta vào tội lỗi.”
“Chỉ đừng hiểu lầm, bà ta không bất tử; không có gì bất tử. Bà ta là một sinh vật được giữ lại nhờ lòng kiêu hãnh và sự vĩ đại của chính bà ấy, nếu các ngươi nguyện ý, trên con đường tới Cõi Niết Bàn. Lòng kiêu hãnh đó sẽ bị hạ thấp như nó đã bị đối xử như thế; hàng lông my oai nghi đó sẽ bị nhuốm đầy bụi bặm của đổi thay và chết chóc, linh hồn tội lỗi đó phải được thanh lọc bằng nỗi đau buồn và sự chia ly. Người anh em Leo, nếu ngươi dành được bà ấy, rồi sẽ mất thôi, và rồi lại phải trèo lại bậc thang đó. Người anh em Holly, với ngươi cũng như với ta, mất nghĩa là được, thế nên chúng ta không quá đau khổ. Ôi! Hãy chờ đợi ở đây và cầu nguyện với ta. Tại sao lại tự lao mình vào đá? Tại sao lại bỏ công sức rót nước vào một cái cốc vỡ khi lẽ ra nó phải chìm vào trong dòng cát thời gian vô ích, thật lãng phí trong khi ngươi đang chết khát, đúng không?”
“Nước làm cát màu mỡ,” tôi đáp. “Nơi nào có nước, sẽ có sự sống, nỗi buồn là hạt giống của niềm vui.”
“Tình yêu là qui luật của sự sống,” Leo ngắt lời; “không có tình yêu, sẽ không có sự sống. Tôi tìm kiếm tình yêu giúp tôi tồn tại. Tôi tin mọi chuyện này đều được ban cho một kết cục mà chúng ta không biết. Định mệnh đã cuốn tôi vào – tôi sẽ thực hiện định mệnh của tôi –“
“Nhưng làm thế sẽ trì hoãn tự do của ngươi. Ta sẽ không tranh luận với ngươi nữa, người anh em, ngươi phải theo đuổi con đường của chính mình. Giờ hãy nhìn xem, người phụ nữ đó mang tới điều gì cho ngươi trong quá khứ, vị nữ tu mang đức tin sai trái kia? Ngày xưa trong kiếp sống khác, theo ta hiểu câu chuyện của ngươi, ngươi đã tuyên thề với một nữ thần tự nhiên tên là Isis, đúng không, chỉ là tuyên thề với duy nhất bà ấy? Rồi một người phụ nữ cám dỗ ngươi, ngươi bỏ trốn cùng cô ấy. Ngươi thấy gì từ đó? Nữ thần bị phản bội và đang muốn báo thù đã giết chết ngươi, hay dù nếu không phải nữ thần đó, thì chính là kẻ khiến ngươi say sưa trong sự thông thái của cô ta và cũng là kẻ thừa hành lệnh trả thù của nữ thần. Kẻ thừa hành thông thái này – linh hồn phụ nữ hay ác quỉ kia - đã từ chối cái chết vì yêu ngươi, nên chờ đợi vì biết rằng trong kiếp sống kế tiếp, cô ta có thể lại tìm thấy ngươi, thật ra cô ta có thể thành công nhanh chóng hơn trên Cõi Cực Lạc nếu cô ta chết chứ không phải sống cô độc trong đau khổ nhiều như vậy. Rồi cô ta tìm thấy ngươi, và cô ta chết, hay dường như đã chết, còn bây giờ cô ta được tái sinh, chắc chắn ngươi muốn gặp lại dù phải trải qua đau khổ. Ôi! Những người bạn của ta, đừng vượt qua dãy núi; hãy chờ đợi ở đây cùng ta và hãy khóc than cho tội lỗi của các ngươi.”
“Không,” Leo trả lời, “chúng tôi đã thề sẽ hò hẹn, và chúng tôi không phá vỡ lời thề.”
“Hỡi người anh em, thế thì hãy cứ hò hẹn, khi ngươi gặt hái thành quả hãy nghĩ tới lời ta, vì ta chắc chắn ly rượu ngươi uống cạn từ vườn nho khao khát kia sẽ đỏ như máu, và khi uống nó, ngươi sẽ không tìm thấy sự quên lãng hay thanh thản. Đam mê mù quáng là nọc độc và sức mạnh, ngươi đang tìm kiếm để mang thêm một ác quỉ đội lốt thiên thần vào sinh mệnh của mình, trong khi vẫn nghĩ rằng bản thể đó sẽ sinh ra mọi tri thức và niềm vui lớn lao.”
“Ngươi khao khát muốn sống đơn độc trong thánh thiện tới khi kiếp sống chia lìa của các ngươi hòa trộn và biến mất trong Thế Giới Tốt Đẹp Không Kể Xiết, thứ hạnh phúc vĩnh hằng trong Hư Vô. À! Giờ ngươi không tin ta; ngươi lắc đầu và cười nhạo; nhưng sẽ có một ngày, có thể sau nhiều kiếp số, ngươi sẽ cúi đầu trong cát bụi và than khóc với ta, ‘Người anh em Kou-en, những lời của ngài thật thông thái, chúng tôi đã hành động thật ngu xuẩn;’” rồi ông già thở dài quay đi, bỏ chúng tôi lại.
“Thật là một niềm tin thú vị,” Leo nhìn theo ông ấy và nói, “Sống nhiều kiếp trong khổ hạnh đơn điệu để ý thức bị nuốt mất trong trốn tránh và thứ trừu tượng vô hình gọi là ‘Chốn Yên Bình Cực Lạc’. Cháu thà tham gia vào một thế giới tồi tệ và mang theo hy vọng về những điều tốt đẹp. Cháu cũng không nghĩ ông ta biết gì về Ayesha và số phận của nàng.”
“Bác cũng muốn vậy,” Tôi đáp, “dù có lẽ cuối cùng ông ấy đúng. Ai nói được đây? Hơn nữa, cái gì là hợp lý? Leo, chúng ta không có lựa chọn; chúng ta theo đuổi định mệnh của mình. Định mệnh đó dẫn dắt chúng ta tới cái gì, chúng ta sẽ biết vào lúc thích hợp thôi.”
Rồi chúng tôi đi nghỉ, vì đã muộn, dù tôi thấy hơi buồn ngủ đêm nay. Cảnh báo của vị tu viện trưởng, người đàn ông tốt bụng, uyên bác, đầy trải nghiệm chín chắn và thông thái biết lo xa đó đè nặng lên tôi. Ông ấy tiên đoán chúng tôi sẽ đau buồn và đổ máu bên kia dãy núi, kết thúc trong cái chết và tái sinh đầy đau đớn. Phải rồi, có lẽ vậy, nhưng không hướng tới đau đớn sẽ làm chúng tôi dừng chân. Ngay cả nếu như thế, để nhìn lại gương mặt bà ấy, tôi cũng sẵn sàng đương đầu với tất cả. Nếu đó là tâm trạng của tôi, chắc chắn cũng là tâm trạng của Leo!
Theo giả thuyết kỳ lạ của Kou-en, Ayesha chính là vị nữ thần Ai Cập cổ, người mà Kallikrates trở thành thầy tu đi theo bà ấy, hoặc ít ra cũng đại diện cho bà ta. Còn nàng Amenartas dòng dõi hoàng tộc mà ông ấy bỏ trốn cùng, đã quyến rũ ông rời khỏi vị nữ thần mà ông ta đã tuyên thệ. Vị nữ thần này đã hóa thân thành Ayesha – hoặc sử dụng người phụ nữ có tên Ayesha và những đam mê của nàng ta làm công cụ của bà ấy – để trả thù cả hai người kia ở Kôr, và ở đó vào đời sau, cây lao nàng ta ném ra lại quay ngược trở lại chính đầu nàng ta.
Phải, bản thân tôi thường nghĩ rất nhiều. Tôi chỉ chắc rằng Bà ấy có thể không phải là thần thánh thực sự, dù bà có thể mang những phẩm chất của một vị thần, một nữ tu sĩ, một sứ giả, có trách nhiệm được giao phó, trả thù hay tưởng thưởng, nhưng bản thân bà ấy là một con người có linh hồn, có hy vọng và đam mê cần được thỏa mãn, và vận mệnh đã đáp ứng điều đó. Thật ra, bây giờ, khi tất cả đã trôi qua, tôi thấy cần phải công nhận, giả thuyết đó tác động tới tôi một chút, vì sự sống và quyền năng của thứ phẩm chất còn hơn cả con người ấy không đủ để một mình tạo nên một linh hồn thần thánh. Nhưng mặt khác, chắc chắn một lúc nào đó, Ayesha đã cho rằng mình bắt đầu là “con gái của Thượng Đế”, và những người khác, đặc biệt Pháp Sư Simbri thời cổ, dường như đã tìm cách trao tặng cho bà ấy nguồn gốc siêu nhiên. Nhưng tôi hy vọng tất cả những thứ đó sẽ được kể vào đúng dịp.
Bên kia dãy núi là cái gì? Ở đó chúng tôi sẽ tìm thấy nàng, người giữ thanh vương trượng và nắm giữ sức mạnh của nữ thần Isis bị xúc phạm trên trần thế, và cả người phụ nữ đã mắc sai lầm kia chứ? Nếu vậy, cuộc cạnh tranh ghê sợ và vô nhân đạo sẽ lên tới đỉnh điểm xoay quanh con người của vị linh mục lầm lỗi kia ư? Chỉ vài tháng sau, thậm chí vài ngày sau đó, chúng tôi sẽ có thể bắt đầu biết được thôi.
Hồi hộp với suy nghĩ này, cuối cùng tôi ngủ mất.

Tác phẩm gốc: Ayesha - Return of SHE (H.R. Haggard)
           Dịch bởi: Cheryl Pham

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...