Thứ Ba, 2 tháng 6, 2015

Nữ Hoàng Ayesha trở lại - Giới thiệu

Ayesha: the return of SHE (H.R.Haggard), phần tiếp theo của SHE: the history of advanture.
Tựa đề tiếng Việt: Nữ Hoàng Ayesha trở lại
Người Dịch: Cheryl Pham



Giới Thiệu

Quả thật thực tế điều không mong đợi đã xảy ra! Có lẽ nếu có ai đó trên trái đất mà Biên Tập Viên của tác phẩm này, đúng ra là của câu chuyện trước đó, không nghĩ lại nghe về người đó, chính là Ludwig Horace Holly. Điều này cũng có lý do chính đáng; biên tập viên đã tin rằng ông ấy đã rời khỏi trái đất.
Khi lần cuối ngài Holly viết từ rất nhiều năm trước đây, ngài để lại bản thảo về Bà ấy, và bảo rằng ngài và người ngài đang bảo trợ, Leo Vincey, người yêu của thánh nữ Ayesha, sắp sửa du hành tới Trung Á, tôi cho rằng họ hi vọng bà ấy có thể thực hiện lời hứa và xuất hiện lại bên mình lần nữa ở đó.
Tôi thường vu vơ tự hỏi, chuyện gì đã xảy ra với họ ở đó; họ đã chết rồi hay đang ăn không ngồi rồi lãng phí cuộc đời mình như nhà sư trong ngôi chùa của các lạt ma Tây Tạng, hoặc đang nghiên cứu ma thuật và thực hành phép tu khổ hạnh dưới sự hướng dẫn của các Bậc Thầy phương Đông, với niềm tin có thể xây chiếc cầu nối từ những gì họ cần trải qua để đến bên người bất tử yêu dấu của họ.
Bây giờ, cuối cùng khi tôi không còn nghĩ về họ suốt nhiều tháng qua, không hề báo trước, câu trả lời cho những băn khoăn đó đã tới!
Nghĩ mà xem, tôi – người Biên Tập Viên đã nói ở trên, chỉ vì vẻ ngoài của gói bưu kiện bọc giấy nâu tồi tàn, không đăng ký, gửi tới từ bàn tay vô danh nào đó, cho rằng nó quá quen thuộc và không có lợi ích gì, đã đẩy nó sang một bên, suốt hai ngày liền nó bị quên lãng. Quả thực, giờ nó sẽ vẫn đang nằm đó nếu không có một người khác di chuyển nó do tò mò, rồi mở ra, và phát hiện ra một đống bản thảo bị đốt cháy trên gáy trong tình trạng rất tệ, có hai chữ trên đó đề cập đến tôi.
Dù thật tuyệt vời, một khoảng thời gian đã trôi qua từ lúc tôi nhìn thấy nó, giờ vẫn là nét chữ run rẩy do tuổi tác hay bệnh tật của tác giả, tôi từng biết nét chữ này – không ai từng viết chữ “H” xoắn vòng đặc biệt như thế trừ ngài Holly. Tôi xé mở phong bì niêm phong, và chắc chắn thứ đầu tiên mắt tôi nhìn tới là chữ ký L.H. Holly. Đã lâu lắm rồi kể từ khi tôi từng háo hức đến vậy khi đọc chữ đó. Và bức thư viết như sau:
“Quí ngài thân yêu của tôi – tôi chắc chắn ngài vẫn còn sống, thật kỳ lạ phải nói rằng tôi cũng vẫn còn sống – trong một ít thời gian nữa thôi.
Ngay khi tôi chạm vào thế giới văn minh một lần nữa, tôi đã thấy cuốn sách ‘Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr’ của ngài, hay đúng hơn là cuốn sách của tôi, và đã đọc nó – lần đầu tiên đó là bản dịch tiếng Hindu Bắc Ấn Độ. Chủ nhà của tôi – ông ta là bộ trưởng của một cơ quan tôn giáo, một người đàn ông giàu có nhưng trí tuệ tầm thường – đã tỏ ra ngạc nhiên khi ‘chuyện tình lãng mạn hoang dã’ đó lại thu hút tôi nhiều đến vậy. Tôi trả lời rằng những ai có nhiều trải nghiệm với những biến cố khó khăn trong đời thường quan tâm tới sự lãng mạn. Ngài có biết những biến cố khó khăn mà tôi đề cập tới là gì không, tôi tự hỏi người xuất sắc như ngài có thể sẽ nói gì đây?
Tôi thấy ngài đã kinh doanh tốt đẹp và làm việc trung thực. Mọi chỉ dẫn đều đươc tuân thủ, không gì được thêm vào hay bỏ đi. Do đó, ngài là người hai mươi năm trước tôi đã tin tưởng phó thác câu chuyện mở đầu, nay cũng là người tôi muốn phó thác phần kết của nó. Ngài là người đầu tiên biết về Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh, người đã ngồi cô độc từ thế kỷ này qua thế kỷ kia, mang vẻ đẹp bất biến trong khu mồ Kôr, chờ đợi người yêu đã mất tái sinh, và Định Mệnh đã mang người đó trở lại cho bà ấy.
Đúng vậy, do đó ngài cũng sẽ là người đầu tiên biết Ayesha, Hesea và Linh Hồn Núi, nữ tu sĩ của Oracle từ thời Alexander Đại Đế trị vì những cột trụ rực lửa trong Đền Thờ, người giữ vương trượng cuối cùng của Ngài hay thần Isis trên trái đất. Ngài cũng là người đầu tiên của loài người tôi sẽ tiết lộ kết cục thần bí của bi kịch lạ lùng bắt đầu tại Kôr, hay không chừng cả ở Ai Cập và những nơi khác thời xa xưa.
Tôi đang rất suy yếu; tôi đang vật lộn để được trở lại ngôi nhà cũ của tôi để chết ở đó, kết cục của tôi đã trong tầm tay. Tôi đã yêu cầu bác sĩ ở đây, sau khi tất cả kết thúc, hãy gửi cho ngài bản ghi chép, trừ khi tôi đổi ý và đốt sạch nó. Ngài cũng sẽ nhận được một tập bản vẽ thô có thể hữu ích với ngài, và một cái trống, dụng cụ luôn được dùng tới trong các lễ tôn thờ các nữ thần Tự Nhiên của người Ai Cập cổ, thần Isis và thần Hathor, những người ngài sẽ thấy thật đẹp đẽ và cổ xưa. Tôi trao chúng cho ngài vì hai lý do; vì sự biết ơn cùng tôn trọng của tôi, và vì đó là bằng chứng duy nhất còn lại bên tôi về sự thật tôi viết trong bản thảo đi kèm, ngài sẽ thấy nó thường xuyên được đề cập tới. Có lẽ ngài cũng sẽ đánh giá chúng như một món đồ kỷ niệm về sinh vật kỳ lạ nhất và đẹp đẽ nhất từng thấy trên đời kia. Đó là vương trượng của bà ấy, cây gậy quyền lực mà tôi thấy bà ấy chào đón Thần Bóng Tối trong Đền Thờ, và là món quà bà ấy dành cho tôi.
Nó cũng có đức hạnh; một phần sức mạnh của Ayesha ám ảnh biểu tượng này khiến cả các linh hồn cũng phải cúi đầu, nhưng nếu ngài muốn khám phá chúng, hãy thận trọng với cách sử dung chúng.
Tôi cũng không còn sức mạnh và ý chí để viết thêm. Bản ghi chép sẽ tự nó nói lên tất cả. Hãy dùng nó vào việc ngài muốn, hãy tin nó hoặc không tùy ngài. Tôi không quan tâm ai biết nó có phải là thật hay không.
Ayesha là ai, là gì, không, Ayesha là cái gì thế? Một tinh chất nhập thế, một linh hồn của Tự Nhiên được vật chất hóa không thể tiên đoán được, một người xinh đẹp, một kẻ độc ác và bất tử; mang tâm hồn cô độc, chỉ có thể được cứu vớt nhờ Nhân Loại và sự hy sinh đáng thương của họ ư? Ngài nói xem! Tôi đã suy đoán người tới giải đáp những bí ẩn này.
Tôi chúc ngài hạnh phúc và may mắn. Tạm biệt ngài và tất cả.
L. Horace Holly”
Tôi đặt bức thư xuống, tràn đầy thứ cảm xúc mà tôi thật vô dụng nếu cố phân tích hay mô tả nó, rồi mở phong thư thứ hai, tôi cũng sẽ in nội dung của nó ra đây, chỉ bỏ qua một số phần không liên quan, như tên của người viết, với lưu ý rằng ông ấy yêu cầu tôi làm vậy.
Bức thư này đề tên một nơi xa xôi trên bờ biển Cumberland như sau:
“Kính thưa ngài – là bác sĩ chăm sóc ngài Holly trong cơn bạo bệnh cuối cùng, tôi có nghĩa vụ tuân thủ lời hứa của tôi với ngài ấy, làm trung gian trong một vụ kinh doanh kì lạ, dù sự thật tôi biết rất ít về nó, nhưng nó rất lôi cuốn tôi. Với hiểu biết nghiêm túc của mình, tôi cũng vẫn chỉ yêu cầu duy nhất rằng không được đề cập tên tôi trong chuyện này, hay địa phương tôi đang thực tập làm việc.
Khoảng mười ngày trước tôi được gọi tới gặp ngài Holly trong một căn nhà cổ vùng Vách Đá vốn để không nhiều năm, ngoại trừ những người chăm sóc, căn nhà là tài sản của ngài ấy và họ đã ở trong gia đình ngài qua nhiều thế hệ. Người quản gia đi gọi tôi đã nói với tôi, chủ nhân của bà vừa trở về từ nước ngoài, một nơi nào đó ở Châu Á, bà ta bảo ngài ấy bị đau tim – sắp chết, bà ấy tin là như vậy; cả hai giả thuyết đều được chứng minh là chính xác.
Tôi thấy bệnh nhân đang ngồi trên giường (để tim dễ chịu hơn), là một ông già trông kỳ dị. Ngài ấy có đôi mắt đen, nhỏ nhưng đầy lửa và rất thông minh, bộ râu trắng như tuyết tuyệt đẹp che phủ lồng ngực rộng phi thường, mái tóc cũng trắng, liếm lên trán và mặt nhiều tới mức có thể thấy râu trên hai má. Đôi tay đặc biệt dài và khỏe, dù một tay dường như bị động vật xé nát. Ngài ấy nói với tôi rằng một con chó đã gây ra chuyện này, nhưng nếu vậy, hẳn phải là một con chó có sức mạnh khác thường. Ngài ấy rất xấu xí, hãy tha thứ nếu tôi bịa đặt. Tôi không thể miêu tả những gì tôi muốn nói tốt hơn nên đành viết thế này, gương mặt ngài ấy không giống bất kỳ xác chết bình thường nào tôi từng thấy trong kinh nghiệm hữu hạn của mình. Nếu tôi là một nghệ sĩ khao khát khắc họa một linh hồn thông thái sáng suốt và nhân từ, nhưng kì dị, tôi sẽ lấy ngay gương mặt đó làm mẫu.
Ngài Holly hơi phật lòng khi tôi được gọi tới, có lẽ việc này ngài ấy không biết. Ngay sau đó chúng tôi trở nên khá thân thiện, nhưng ngài ấy bày tỏ lòng biết ơn với sự giúp đỡ mà tôi có thể mang tới, dù tôi không hy vọng làm được gì nhiều hơn. Mỗi lần gặp, ngài ấy lại nói về những điều tốt đẹp ở những đất nước ngài ấy từng đi qua, rõ ràng trong rất nhiều năm, một cuộc phiêu lưu kỳ lạ mà ngài ấy chưa bao giờ nói rõ ràng với tôi. Hai lần trong lúc mê sảng, ngài ấy nói bằng những ngôn ngữ tôi cho rằng giống như tiếng Hy Lạp và Ả Rập; đôi khi cả tiếng Anh nữa, ngài ấy dường như tự nói với một con người là đối tượng ngài ấy kính trọng, tôi cho rằng có lẽ gần như là tôn thờ. Tuy nhiên những gì ngài ấy nói tôi không thích nhắc lại, vì tôi chỉ nghe được trong khả năng chuyên môn.
Một ngày, ngài ấy chỉ vào một cái hộp thô làm bằng loại gỗ ngoại (chính là thứ giờ tôi chuyển tới cho ngài bằng xe lửa theo bổn phận), đưa cho tôi tên và địa chỉ của ngài, rồi nói rằng, nếu không có gì sai sót, hãy chuyển cho ngài sau khi ngài ấy chết. Ngài ấy cũng yêu cầu tôi cầm một tập bản thảo, giống với cái hộp, cũng gửi cho ngài.
Ngài ấy thấy tôi đang nhìn những tờ giấy cuối cùng bị đốt gần xong, thì nói (Tôi ghi lại chính xác từng từ):
‘Phải, phải, giờ điều đó chả thể giúp gì được, nó phải ra đi thôi như nó vốn dĩ phải thế. Ngài thấy đấy cuối cùng tôi đã quyết tâm phá hủy nó, nó đã nằm trong đống lửa khi mệnh lệnh tới – mệnh lệnh rõ ràng, không thể phạm sai lầm – và tôi chộp lấy nó lần nữa.’
‘Mệnh lệnh’ ngài Holly muốn nói là gì, tôi không biết, vì ngài ấy không muốn nói về chuyện này nữa.
Tôi kể lại cảnh cuối. Một đêm khoảng mười một giờ, biết rằng giờ phút kết thúc của bệnh nhân sắp tới, tôi đi lên xem ngài ấy, cho rằng tiêm thêm một chút strychnine có thể giữ tim đập lâu hơn chút nữa. Trước khi tới căn nhà, tôi gặp người chăm sóc chạy tới tìm tôi trong kinh hoàng tột độ, tôi hỏi chủ nhân của bà đã qua đời hay chưa. Bà ấy trả lời Không; nhưng ngài ấy đã ra đi – rời khỏi giường và có lẽ đi chân đất, ngài ấy rời khỏi ngôi nhà, lần cuối cùng được trông thấy bởi cháu trai bà ấy trong đám thông Scotland nơi chúng tôi đang nói chuyện. Cậu bé phát hoảng vì sự dí dỏm của ngài ấy vì cho rằng mình đang thấy một con ma, đã kể lại với bà ấy như vậy.
Đêm đó ánh trăng rất sáng, đặc biệt tuyết vừa rơi xuống, phản xạ ánh sáng của trăng. Tôi đi bộ và bắt đầu tìm kiếm trong rừng thông, tận tới khi ra khỏi đám thông, tôi mới thấy vết chân trần trên tuyết. Tất nhiên tôi đi theo, gọi cả người quản gia tới và đánh thức chồng bà ấy, vì không còn ai sống gần đó. Dấu vết rất dễ lần theo trên tuyết sạch. Nó chạy tới sườn ngọn đồi sau nhà.
Giờ trên đỉnh đồi này là một di tích cổ xưa bằng tảng đá nguyên khối thẳng đứng người nguyên thủy đặt ở đó, dân địa phương gọi là Chiếc Nhẫn của Quỉ - một dạng Stonehenge thu nhỏ trong thực tế. Tôi từng thấy nó vài lần, tôi từng hiện diện ở đó không lâu trước đây trong buổi họp của một nhóm các nhà khảo cổ học tranh luận về nguồn gốc và mục đích của nó. Tôi nhớ có một quí ông uyên bác nhưng hơi lập dị đã đọc một bài viết ngắn nói về ngực bị che lại thô sơ, đầu bị cắt thành căn buồng bằng đá cromlech cao và đỉnh bằng phẳng, hay một ngôi mộ đá đứng một mình giữa tâm chiếc nhẫn.
Ông ta nói nó biểu trưng cho nữ thần Ai Cập Isis, nơi này từng là nơi thiêng liêng vài nghi lễ thờ phụng nữ thần diễn ra, hoặc một nữ thần Tự Nhiên nào đó có những tính chất tương tự, giả thuyết đó các quí ngài uyên bác khác đều coi là phi lý. Họ cho rằng thần Isis không bao giờ đặt chân tới nước Anh, dù theo quan điểm của tôi, tôi không biết tại sao người Phoenicia hay thậm chí người La Mã – những người ít nhiều đã chấp nhận cúng bái nữ thần này – lại không thể mang nó tới đây chứ. Nhưng tôi không biết gì về những chuyện thế này và không tranh luận với họ.
Tôi cũng nhớ rằng ngài Holly đã quen với nơi này, vì ngài ấy từng đề cập về nó với tôi hôm trước, khi hỏi liệu các tảng đá vẫn không thay đổi gì giống thời ngài ấy còn trẻ chứ. Ngài ấy cũng nói thêm, câu nói đó đập vào làm tôi thức tỉnh, đó là nơi ngài ấy muốn chết. Khi đó tôi đã trả lời rằng, tôi e ngài ấy không bao giờ có thể đi bộ lại một đoạn xa như thế nữa, tôi thấy ngài ấy hơi mỉm cười.
Phải, đoạn đối thoại đó cho tôi một manh mối, không bị bối rối với những dấu chân nữa, tôi nhanh chóng tới Chiếc Nhẫn, cách khoảng nửa dặm. Rồi tôi cũng tới được nơi đó, và ở đó – phải, ở đó – đứng bên ngôi mộ, đầu trần, chỉ mặc đồ ngủ, ngài Holly đứng trong tuyết, thân hình kỳ dị nhất mà tôi từng thấy.
Quả thực tôi sẽ không bao giờ quên được khung cảnh hoang dại ấy. Chiếc vòng của những tảng đá đơn thô kệch chỉ thẳng lên trời đầy sao, một vẻ cô độc và long trọng mãnh liệt: kiến trúc đá tảng hai khối trilithon cao lớn vượt hẳn trên chúng ở tâm chiếc vòng, bóng của nó bị ánh trăng sáng ném ra phía sau, nằm trải dài và đen ngòm trên tràng tuyết rực rỡ, cái bóng rõ ràng tới mức tôi có thể phân biệt được từng chuyển động của ngài ấy, thậm chí cả cái nhìn say mê trên gương mặt như sắp chết của ngài ấy, thân hình khoác bộ đồ trắng của ngài Holly. Ngài ấy dường như thốt ra lời gọi – bằng tiếng Ả Rập, tôi nghĩ vậy – một lúc lâu sau tôi tới được chỗ ngài ấy, lúc đó mới có thể bắt được đủ âm tiết của tiếng gọi vang vọng kia, rồi thấy ngài ấy giang tay vẫy vẫy. Tay phải ngài ấy giữ thanh vương trượng xoay vòng, biểu đạt mong muốn tôi gửi cho ngài những bản vẽ. Tôi có thể thấy ánh sáng đồ trang sức lóe lên căng ra trên những sợi dây, trong im lặng vô cùng, có thể nghe thấy tiếng leng keng của những chiếc chuông vàng.
Tôi dường như cũng nhận ra một sự hiện diện khác, ngài sẽ hiểu tại sao tôi mong muốn và đòi hỏi danh tính bản thân phải bị che dấu. Đương nhiên tôi không muốn bị trộn lẫn vào một câu chuyện mê tín, mà bề ngoài của nó có vẻ không thể xảy ra và rất phi lý. Dưới hoàn cảnh đó, tôi nghĩ tốt nhất nên kể cho ngài những gì tôi đã thấy, hay nghĩ rằng tôi đã thấy, có thứ gì đó tụ lại trong bóng tối ngôi mộ trung tâm, hay hiện ra từ căn buồng thô sơ kia – tôi không chắc chắn – một thứ gì đó tươi sáng và lộng lẫy từ từ hình thành thân ảnh một phụ nữ trên trán bùng lên ngọn lửa như vì sao.
Do tầm nhìn hay phản xạ, hay bất kì cách gì, nó làm tôi giật mình đến độ tôi đi tới chỗ nghỉ chân tránh gió của một trong những tảng đá nguyên khối, tự thấy bản thân không thể cất tiếng gọi được cho người đàn ông quẫn trí tôi đang đuổi theo.
Trong khi tôi đứng đó, rõ ràng ngài Holly cũng đã nhìn thấy thứ gì đó. Cuối cùng ngài ấy quay người hướng về vầng hào quang sáng chói trong bóng tối, thốt ra tiếng kêu; một tiếng kêu vui vẻ điên dại, và bước về phía trước; rồi dường như nó rơi trên mặt ngài ấy.
Khi tôi tới chỗ ánh sáng vừa biến mất, tất cả những gì tôi thấy là ngài Holly, cánh tay vẫn giang rộng, cây vương trượng vẫn bị nắm chặt trong tay, nằm chết trong bóng tối của khối kiến trúc đá trilithon.”
Phần còn lại trong bức thư của vị bác sĩ không cần được trích dẫn vì chỉ liên quan tới vài giải thích chắc chắn không thể tin được về nguồn gốc thân ảnh tạo ra từ ánh sáng đó, các chi tiết về cơ thể của Holly, và ông ta làm thế nào đáp ứng thỏa mãn nhân viên pháp lý để không cần thêm cuộc điều tra nào nữa.
Chiếc hộp ông ấy nói tới đã đến nơi an toàn. Những bản vẽ bản thân chúng, tôi không cần nói gì, chiếc trống hay cây vương trượng thì tôi có vài lời. Nó được tạo dáng tinh thể với hình dạng nổi tiếng của Crux-ansata (cây thập giá chìa khóa), hay biểu tượng sự sống của người Ai Cập; cây gậy, chữ thập và vòng dây kết hợp làm một. Xuyên từ bên này qua bên kia vòng dây là những sợi dây vàng, trên dây xâu các hạt ba màu, kim cương lấp lánh, sapphire xanh nước biển và ruby đỏ như máu, sợi thứ tư trên đỉnh treo bốn cái chuông vàng nhỏ.
Khi lần đầu tiên nắm lấy nó, bàn tay tôi lắc nhẹ phấn kích, những chiếc chuông phát ra âm thanh như tiếng nhạc êm đềm ngọt ngào nghe như hợp âm vang xa trong đêm yên lặng trên biển cả. Tôi cũng nghĩ có lẽ do ưa thích, như cảm giác run rẩy truyền từ một thứ thiêng liêng đẹp đẽ vào cơ thể tôi.
Về phép màu được ghi trong bản thảo, tôi không bình luận. Mỗi độc giả có thể tự phán xét về nó và ý nghĩa bên trong của nó. Điều duy nhất rõ ràng với tôi – giả sử ngài Holly nói thật về những gì ngài ấy và Leo Vincey thấy và trải nghiệm, ít ra tôi tin vậy – dù mọi cách hiểu về phép màu nhiệm này đã được Ayesha và những người khác đưa ra, nhưng không có cách nào hoàn toàn thỏa mãn đầy đủ.
Quả thực giống như ngài Holly, tôi nghiêng về giả thuyết Bà ấy – nếu tôi vẫn có thể gọi nàng bằng tên đó dù những trang tiếp theo hiếm khi đưa cho nàng tên gọi đó – đưa ra, chẳng hạn như huyền thoại về nữ thần Isis mơ hồ, câu chuyện bằng tranh kỳ diệu về vụ cháy rừng, giống như tấm mạng che mặt dấu đi sự thật về mục đích của nàng cuối cùng cũng hé lộ trong bài hát nàng chưa bao giờ cất lên.
Biên Tập Viên

Thứ Tư, 20 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - bản dịch tiếng Việt của SHE (H.R. Haggard)



Dịch từ tác phẩm gốc:
SHE: A HISTORY OF ADVENTURE
Người dịch: Cheryl Pham
Việt Nam, tháng 5 - 2015

H. Rider Haggard

Henry Rider Haggard (1856-1925) – Tiểu thuyết gia người Anh nổi tiếng với các tác phẩm phiêu lưu lãng mạn liên quan đến Nam Phi. She (1897) – là tác phẩm thành công nhất của Haggard, kể về cuộc hành trình đầy ấn tượng của Horace Holly và người ông bảo trợ Leo Vincey khi họ đi tìm kiếm nữ hoàng da trắng và Ngọn Lửa của Sự Sống. Những thứ đó liên quan đến họ qua những bản văn tự Hy Lạp cổ kể về lịch sử gia đình Vincey, đồng thời cũng mang theo lời kêu gọi con cháu của Kallikrates trả thù kẻ đã giết ông ta.

Free download tại đây:

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 28



CHƯƠNG 28

Vượt qua Dãy Núi
Việc tôi hồi tưởng lại kế tiếp là cảm giác đông cứng kinh khủng nhất, một loại ý tưởng mơ hồ trôi qua bộ não đang nửa thức nửa tỉnh khi cho mình là một tấm thảm vừa bị đánh đập. Tôi mở mắt, thứ đầu tiên rơi xuống là gương mặt đáng kính của người bạn già Billali, đang ngồi bên cạnh chiếc giường mới được tạo ra tôi đang nằm trên đó, trầm ngâm vuốt bộ râu dài. Hình ảnh của ông ta ngay lập tức khiến đầu óc tôi hồi tưởng lại tất cả những gì chúng tôi vừa trải qua, đặc biệt dáng vẻ Leo khốn khổ nằm đối diện tôi, gương mặt đông lại như thạch, những lọn tóc đẹp đẽ từ vàng biến thành trắng xóa, [*] tôi lại nhắm mắt lại và rên rỉ.
[*] Thật tò mò, mái tóc của Leo gần đây đã lấy lại được màu sắc ban đầu ở mức độ nào đó – phải nói là, giờ nó có màu xám vàng, và tôi không phải không hy vọng tới lúc nó sẽ hoàn toàn quay về màu gốc. – L.H.H.
“Ngươi đã ngủ rất lâu, Khỉ Đầu Chó của ta,” ông già Billali nói.
“Bao lâu rồi, thưa cha?” Tôi hỏi.
“Một vòng mặt trời và một vòng mặt trăng, ngươi đã ngủ một ngày một đêm, con Sư Tử cũng vậy. Nhìn kìa, hắn vẫn còn ngủ.”
“Ngủ là phước lành,” Tôi trả lời, “vì nó sẽ nuốt hết mọi hồi ức.”
“Hãy nói cho ta,” ông ấy nói, “chuyện gì đã xảy ra với các ngươi, chuyện kỳ lạ về cái chết của Bà ấy - người không thể chết, là thế nào. Ngươi hãy nghĩ mà xem, con trai của ta: nếu chuyện này là thật, thì nguy hiểm của ngươi và nguy hiểm của con Sư Tử là rất lớn – không, gần như các ngươi sẽ phải đội chậu nung nóng, dạ dày các ngươi sẽ bị những kẻ đói khát kia ăn như thú vật. Ngươi không biết người Amahagger, các con của ta, những cư dân của hang động, rất căm ghét các ngươi ư? Chúng ghét các ngươi vì các ngươi là người lạ, chúng ghét các ngươi hơn nữa vì đám anh em chúng bị Bà ấy tra tấn vì quyền lợi của các ngươi. Chắc chắn nếu một khi chúng biết được không có gì phải sợ Hiya, người kinh khủng mà chúng ta phải tuân lệnh, chúng sẽ giết các ngươi bằng cái chậu. Nhưng hãy kể ta nghe câu chuyện của ngươi, Khỉ Đầu Chó khốn khổ của ta.”
Được khích lệ, tôi bắt đầu kể cho ông ấy – không phải tất cả, quả thực, vì tôi không nghĩ nó đáng để làm vậy, như đủ cho mục đích của tôi, đó là khiến ông ta hiểu Bà ấy thực sự không còn nữa, đã rơi vào ngọn lửa, và bị thiêu cháy - vì sự thật có thể khiến ông ấy khó hiểu. Tôi cũng kể vài cảnh rùng rợn chúng tôi đã vượt qua khi trốn thoát, để tăng ấn tượng tốt với ông ấy. Nhưng rõ ràng tôi thấy ông ấy không tin khi nghe nói về cái chết của Ayesha. Thực ra ông ta tin rằng chúng tôi nghĩ bà ấy đã chết, nhưng ông ấy cho là sẽ phù hợp hơn khi nói, bà ấy sẽ biến mất một thời gian. Ông ta bảo, trong thời của cha ông ta, có một lần bà ấy cũng làm vậy khi biến mất suốt mười hai năm, còn có một truyền thuyết ở đất nước này kể rằng, nhiều thế kỷ trước không ai từng nhìn thấy bà ấy suốt một thế hệ, sau đó bà ấy đột ngột xuất hiện lại, tiêu diệt người phụ nữ đang đảm nhiệm vị trí Nữ Hoàng. Tôi không nói gì về điều này, mà chỉ gật đầu buồn bã. Than ôi! Tôi biết quá rõ rằng Ayesha sẽ không thể xuất hiện nữa, hay Billali có thể không bao giờ gặp lại bà ấy.
“Còn bây giờ,” Billali kết luận, “ngươi muốn làm gì, Khỉ Đầu Chó của ta?”
“Không,” Tôi nói, “Tôi không biết, thưa cha. Chúng tôi có thể trốn thoát khỏi đất nước này sao?”
Ông ấy gật đầu.
“Rất khó. Vì ngươi không thể vượt qua Kôr, như ngươi đã thấy đấy, ngay khi những kẻ tàn bạo kia thấy các ngươi một mình, thế là xong,” ông ta cười và làm hành động như thể ông ta đang bị đặt chậu nung nóng trên đầu. “Nhưng có một con đường trên vách núi ta từng nói với ngươi, nơi họ lùa gia súc ra ngoài đồng cỏ. Ra khỏi đồng cỏ là hành trình ba ngày xuyên qua đầm lầy, sau đó ta không biết, nhưng ta nghe nói hành trình bẩy ngày từ đó sẽ tới một con sông hùng vĩ chảy ra vùng nước đen. Nếu các ngươi có thể tới đó, không chừng có thể trốn thoát, nhưng ngươi có thể tới đó bằng cách nào đây?”
“Billali,” Tôi nói, “ngài biết đấy, tôi từng cứu mạng ngài một lần. Giờ hãy trả lại món nợ này, thưa cha, xin hãy cứu tôi và bạn tôi, con Sư Tử. Đó sẽ là một việc khiến ngài hài lòng nghĩ tới khi giờ khắc của ngài đến, một việc có qui mô chống lại cái ác trong những năm tháng của ngài, nếu ngài đã từng làm điều ác. Nếu ngài đúng, nếu Bà ấy chỉ tự dấu mình đi thôi, chắc chắn khi bà ấy quay lại sẽ thưởng cho ngài.”
“Con trai của ta, Khỉ Đầu Chó,” ông già trả lời, “đừng nghĩ ta có trái tim vô ơn. Ta vẫn nhớ ngươi đã cứu ta khi lũ chó kia đứng đó nhìn ta chết đuối. Đo đi đo lại ta sẽ cho ngươi, nếu các ngươi có thể cứu được, chắc chắn ta sẽ cứu các ngươi. Nghe đây: bình minh ngày mai hãy chuẩn bị, vì các cái ổ sẽ ở đây để mang các ngươi qua rặng núi, qua đầm lầy. Ta sẽ làm điều này, sẽ nói rằng theo lời của Bà ấy, các ngươi không tuân lệnh Bà ấy, nên các ngươi sẽ làm thức ăn cho linh cẩu. Sau đó khi đã vượt qua đầm lầy, các ngươi phải tự chiến đấu, không chừng, nếu vận số tốt, các ngươi sẽ sống sót đi tới vùng nước đen ta đã nói cho ngươi. Còn bây giờ, nhìn xem, con Sư Tử đã tỉnh dậy rồi, các ngươi phải ăn thức ăn ta đã làm sẵn cho các ngươi.”
Tình trạng của Leo khi tỉnh dậy cho thấy không quá tệ như dự đoán từ vẻ bề ngoài của cậu, cả hai chúng tôi cố ăn hết bữa ăn thịnh soạn, thực ra chúng tôi nên buồn bã. Sau khi xuống suối tắm rửa, chúng tôi trở lại và ngủ tiếp tới tận sáng, lúc đó chúng tôi ăn một lần nữa đủ cho năm người. Billali hôm đó hoàn toàn biến mất, không nghi ngờ, ông ấy đang thu xếp ổ và người khiêng, vì chúng tôi bị đánh thức giữa đêm khi có một số đáng kể đàn ông tới cái trại nhỏ này.
Lúc bình minh ông già xuất hiện, nói với chúng tôi ông ấy đã dùng danh nghĩa đáng sợ của Bà ấy, khó khăn một chút, nhưng thành công mang những người cần thiết và hai người dẫn đường đưa chúng tôi qua đầm lầy, ông ấy nhấn mạnh chúng tôi phải khởi hành ngay, đồng thời thông báo dự định đi cùng chúng tôi để bảo vệ chúng tôi trước sự phản bội. Tôi vô cùng cảm động trước hành động tốt bụng của ông già man rợ ranh mãnh với hai người hoàn toàn xa lạ không có khả năng tự vệ. Hành trình ba ngày – đối với ông ấy mất sáu ngày vì còn phải quay lại – xuyên qua khu đầm lầy chết chóc không hề hứa hẹn chút ánh sáng nào với người ở tuổi của ông ấy, nhưng ông ấy đồng ý làm điều đó một cách vui vẻ để tăng an toàn cho chúng tôi. Điều đó cho thấy trong đám người Amahagger đáng sợ kia – những kẻ chắc chắn rất tăm tối cùng những nghi thức quỉ quái kinh khủng vượt xa đám người hoang dã gớm ghiếc nhất tôi từng nghe nói – vẫn có những người có lòng tốt. Tất nhiên, lợi ích cá nhân có lẽ cũng là thứ đi kèm. Ông ta có thể cho rằng Bà ấy đột nhiên tái xuất hiện và yêu cầu tin tức về chúng tôi từ tay ông ấy, nhưng cho dù có đủ loại khấu trừ, cũng quá thuận lợi hơn nhiều lần chúng tôi dự tính trong hoàn cảnh này, tôi chỉ có thể nói, chừng nào còn sống, tôi sẽ vẫn trân trọng ghi nhớ bằng tình cảm trìu mến nhất dành cho người cha danh nghĩa của tôi, ông già Billali.
Sau khi ăn xong chút thức ăn, chúng tôi khởi hành trên những chiếc ổ, cảm thấy thể xác đã đi một đoạn xa đến vậy, kỳ lạ như bản thể già nua của chính mình sau một lần nghỉ ngơi và một giấc ngủ dài. Tôi phải bỏ tình trạng đầu óc hiện tại lại cho trí tưởng tượng.
Rồi tới hành trình leo lên vách đá khủng khiếp. Thi thoảng việc đi lên tự nhiên hơn, nó thường là đường cắt hình zig-zag, chắc chắn được làm ra đầu tiên bởi các cư dân xa xưa của Kôr. Người Amahagger nói họ chăn đàn gia súc qua đây một lần mỗi năm ngoài đồng cỏ; những gì tôi biết thì đám gia súc đó phải hoạt động bằng chân không thường xuyên lắm. Tất nhiên lúc này những cái ổ đều vô dụng, chúng tôi phải đi bộ.
Nhưng đến trưa, chúng tôi đã tới đỉnh bằng phẳng hùng vĩ của bức tường đá sừng sững, đủ lớn để nhìn toàn cảnh với đồng bằng Kôr từ đó, giữa trung tâm chúng tôi có thể thấy rõ đám phế tích đầy cột trụ của Đền Thờ Sự Thật một bên, còn đầm lầy u sầu vô biên bên kia. Bức tường đá này chắc chắn từng tạo thành miệng núi lửa, dày khoảng một dặm rưỡi, vẫn phủ đầy xỉ clinker. Không gì mọc nổi nơi này, thứ duy nhất làm dịu mắt chúng tôi là các hồ nước mưa thường xuyên (vì sau đó mưa rơi xuống) được đào sâu vào một chút. Chúng tôi đi trên đỉnh bằng phẳng của thành lũy hùng vĩ này, rồi tới đoạn đi xuống, không quá khó khăn như đi lên, nhưng vẫn dễ gẫy cổ, tới khi hoàng hôn. Tuy vậy đêm đó chúng tôi cắm trại an toàn trên sườn núi hùng vĩ cuộn ra chỗ các đầm lầy bên dưới.
Sáng hôm sau, khoảng mười một giờ, hành trình đáng sợ của chúng tôi lại bắt đầu, đi qua biển đầm lầy ghê sợ mà tôi đã mô tả.
Suốt ba ngày, hôi thối và bùn đất, hương vị sợ hãi thường trực, khiến đám người khiêng chúng tôi phải đấu tranh cùng, tới khi chúng tôi tới một mảnh đất khá hoang hóa, hầu hết không có cây cối, nhưng địa hạt này đầy các loài nằm ngoài ranh giới loài hiếm nhất, không hướng dẫn thì hoàn toàn không thể giao lưu được. Sáng hôm sau chúng tôi chào tạm biệt ông già Billali ở đó, không phải không có chút tiếc nuối, ông vuốt bộ râu trắng và long trọng ban phước cho chúng tôi.
“Tạm biệt, con trai của ta, Khỉ Đầu Chó,” ông ấy nói, “tạm biệt ngươi nữa, ôi con Sư Tử. Ta không thể làm gì hơn nữa để giúp các ngươi. Nhưng nếu các ngươi trở về tới đất nước mình, ta khuyên, đừng mạo hiểm tới những vùng đất các ngươi không biết nữa, các ngươi sẽ không trở về được nữa đâu, ngoài bỏ đống xương trắng của các ngươi lại đánh dấu giới hạn hành trình của các ngươi. Tạm biệt một lần nữa; ta sẽ thường xuyên nghĩ về ngươi, ngươi đừng quên ta, Khỉ Đầu Chó của ta, dù gương mặt ngươi xấu xí nhưng trái tim ngươi chân thật.” Rồi ông ấy quay đi và trở về, đi cùng với ông ấy là những người khiêng ổ cao lớn ủ rũ, đó là lần cuối cùng chúng tôi nhìn thấy người Amahagger. Chúng tôi nhìn họ đi mất như gió cuốn với những cái ổ trống trơn như một đám rước khiêng người chết khỏi cuộc chiến, tới khi sương mù của đầm lầy bao quanh và che mất họ, bỏ lại hoang vu tuyệt đối nơi hoang dã mênh mông này, chúng tôi quay lại nhìn quanh, rồi nhìn nhau.
Ba tuần trước, bốn người đàn ông bước vào khu đầm lầy Kôr, giờ hai người đã chết, còn hai người trải qua những phiêu lưu và kinh nghiệm kỳ lạ kinh khủng tới mức cái chết của họ cũng không đáng sợ hơn thế. Ba tuần – chỉ ba tuần! Thời gian thực sự đo bằng sự kiện, chứ không phải từng quãng đồng hồ. Như đã ba mươi năm rồi kể từ khi chúng tôi nhìn thấy lần cuối chiếc thuyền cá voi.
“Chúng ta phải tìm cách tới Zambesi, Leo,” Tôi nói, “nhưng Chúa mới biết chúng ta có thể tới đó được không.”
Leo gật đầu. Sau đó cậu trở nên rất yên lặng, chúng tôi bắt đầu với không gì ngoài quần áo đang mặc, một chiếc la bàn, súng lục và súng trường, khoảng hai trăm viên đạn, và thế là kết thúc câu chuyện về chuyến viếng thăm của chúng tôi tới khu tàn tích cổ đại của đế chế Kôr hùng mạnh.
Với những cuộc phiêu lưu xảy ra sau này của chúng tôi, chúng rất kỳ lạ và phong phú, sau khi bàn luận, tôi đã quyết định không ghi lại chúng ở đây. Trong những trang này, tôi chỉ cố đưa ra thông tin ngắn gọn và rõ ràng về một sự xuất hiện mà tôi tin rằng chưa từng có, và tôi làm thế không phải để xuất bản ngay lập tức, mà chỉ đưa lên giấy khi chúng còn tươi mới trong kí ức của chúng tôi tới từng chi tiết và kết quả, tôi tin có thể chứng minh thế giới thật thú vị nếu chúng tôi quyết định công khai chúng. Hiện tại, theo tư vấn, chuyện này chúng tôi không định làm khi vẫn còn chung sống.
Phần còn lại, không hề có lợi ích với cộng đồng, giống như trải nghiệm của nhiều khách du lịch tới Trung Phi thôi. Chỉ muốn nói, sau những khó khăn và thiếu thốn đáng kinh ngạc, chúng tôi đã tới Zambesi, cách nơi Billali để chúng tôi lại khoảng 170 dặm về phía nam. Chúng tôi bị giam ở đó khoảng sáu tháng bởi một bộ lạc hoang dã, họ tin rằng chúng tôi là các sinh vật siêu nhiên, chính vì gương mặt trẻ trung và mái tóc trắng như tuyết của Leo. Chúng tôi cuối cùng cũng trốn thoát khỏi tộc người đó, tới Zambesi, lang thang xuống phía nam đúng vào thời điểm nạn đói, chúng tôi đủ may mắn khi rơi vào tay một kẻ săn voi người Bồ Đào Nha cùng một đội quân voi đi theo sau trên địa bàn xa hơn nơi anh ta từng đi trước đây. Người này đối xử với chúng tôi vô cùng mến khách, cuối cùng với sự trợ giúp của anh ta, chúng tôi – sau vô số những đau đớn và phiêu lưu, đã tới Vịnh Delagoa, hơn mười tám tháng kể từ lúc chúng tôi xuất hiện ở đầm lầy Kôr, ngày tiếp theo, chúng tôi thành công bắt một chuyến tàu hơi nước vòng quanh Mũi Hảo Vọng về nước Anh. Hành trình về nhà của chúng tôi rất thuận lợi, chúng tôi đặt chân lên cảng Southampton chính xác hai năm sau kể từ ngày khởi hành chuyến săn lùng hoang dã và dường như rất vô lý đó, bây giờ tôi viết những dòng cuối này khi Leo đang ngả trên vai tôi trong căn phòng cũ tại trường đại học, giống như hai mươi hai năm trước, ông bạn Vincey khốn khổ của tôi loạng choạng tới vào buổi tối đáng nhớ mà anh ấy đã qua đời, mang cái hộp sắt theo cùng anh ấy.
Thế là câu chuyện đã kết thúc, nó liên quan tới khoa học và thế giới bên ngoài nhiều hơn. Kết cục liên quan đến Leo và tôi nhiều hơn tôi đoán. Nhưng chúng tôi cảm thấy chuyện này chưa dừng lại. Một câu chuyện bắt đầu từ hơn hai nghìn năm trước có thể sẽ kéo dài trong tương lai xa xôi mờ mịt.
Leo thực sự là hóa thân của Kallikrates cổ xưa mà bản văn tự nói tới ư? Hay Ayesha đã bị đánh lừa do sự giống nhau kì lạ về mặt di truyền? Độc giả nên có quan điểm của riêng mình về vấn đề như thế này. Tôi có quan điểm của tôi, rằng bà ấy không nhầm lẫn như vậy.
Tôi thường ngồi một mình trong đêm, đôi mắt suy tư nhìn chằm chằm vào bóng đen của thời khắc chưa được sinh ra, tự hỏi vở kịch lớn này cuối cùng sẽ được phát triển dưới hình dạng và cách thức nào, phân cảnh cho hành động tiếp theo sẽ nằm ở đâu. Và khi đoạn cuối cùng diễn ra, tôi chắc chắn nó phải diễn ra, tuân theo định mệnh chưa bao giờ chệch hướng và mục đích không thể thay đổi, khi đó Amenartas xinh đẹp người Ai Cập - Công Chúa mang dòng máu hoàng gia của các Pharaoh, vì yêu bà ấy Linh mục Kallikrates đã phá vỡ lời thề với thần Isis, và bị sự trả thù không lay chuyển được của Nữ Thần phẫn nộ theo đuổi, chạy trốn xuống bờ biển Libya để gặp ngày tận số của ông ấy ở Kôr – bà ấy sẽ đóng vai gì?
-          Kết thúc –

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham  

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 27



CHƯƠNG 27

Chúng tôi Liều mạng
Chúng tôi đi qua các hang động không hề khó khăn, nhưng khi tới sườn dốc của hình chóp ngược, hai khó khăn buộc chúng tôi phải đối mặt. Đầu tiên là tốn sức để đi lên, sau đó cực kỳ khó khăn là tìm đường. Quả thực, nếu không nhớ ra tôi đã may mắn ghi nhớ hình dáng của vô vàn tảng đá, chắc chúng tôi không bao giờ tìm nổi đường đi, mà lang thang trong bụng núi lửa đáng sợ - tôi cho rằng chắc phải là một dạng như thế - cho đến khi chúng tôi chết vì kiệt sức và tuyệt vọng. Chúng tôi đã đi sai nhiều lần, một lần suýt rơi xuống khe nứt lớn. Thật khủng khiếp khi phải bò trong bóng tối dày đặc và im lặng ghê sợ từ hết tảng đá này tới tảng đá khác, rồi kiểm tra nó trong ánh sáng yếu ớt của ngọn đèn xem liệu tôi có nhận ra hình dạng của nó hay không. Chúng tôi hầu như không nói gì, trái tim quá nặng nề để cất lời, chúng tôi đi loạng choạng, thi thoảng bị ngã và trầy xước, thật khốn khổ. Thực tế là tinh thần chúng tôi đã hoàn toàn bị nghiền nát, không còn để ý nhiều đến những gì xảy ra. Chúng tôi cảm thấy chỉ phải cố gắng giữ lấy mạng sống khi còn có thể, thực ra chính bản năng tự nhiên nhắc nhở chúng tôi làm vậy. Tôi nghĩ khoảng ba hay bốn tiếng đồng hồ như thế - tôi không thể nói chính xác bao lâu, vì đã bỏ lại đồng hồ - chúng tôi đã mắc sai lầm đó. Suốt hai giờ cuối chúng tôi hoàn toàn lạc đường, tôi bắt đầu sợ chúng tôi lại rơi vào một đường hầm của hình nón con nào đó, cuối cùng đột nhiên tôi nhận ra một tảng đá rất lớn chúng tôi đã đi qua lúc đi xuống con đường nhỏ từ trên đỉnh. Thật kỳ diệu khi tôi nhận ra nó, thực ra chúng tôi cũng đã đi qua nó ở góc vuông với con đường đúng, có gì đó thôi thúc tôi, và tôi đã quay lại kiểm tra nó ngẫu nhiên, khi đó đã chứng minh chúng tôi được cứu rỗi.
Sau đó chúng tôi tới cầu thang đá tự nhiên không quá vất vả, cuối cùng trở lại căn phòng nhỏ nơi Noot ngốc nghếch đã sống và chết.
Nhưng giờ nỗi khủng bố mới lại hiện ra trước mặt chúng tôi. Nhớ rằng do nỗi sợ hãi và lúng túng của Job, tấm ván gỗ để chúng tôi đi qua từ mũi đá cựa gà khổng lồ tới hòn đá xích đu đã bị rơi xuống cái vực hun hút bên dưới.
Chúng tôi đi qua thế nào đây khi không có tấm ván gỗ?
Chỉ có một câu trả lời – chúng tôi phải thử nhảy qua đó, hoặc dừng ở đây tới khi chết đói. Khoảng cách không quá lớn, khoảng mười một tới mười hai feet, tôi nghĩ vậy, tôi từng thấy Leo nhảy qua trên hai mươi feet khi cậu ấy là nghiên cứu sinh trẻ trung của trường đại học; nhưng hãy nghĩ về hoàn cảnh đi. Hai người đàn ông mệt mỏi, quần áo rách rưới, một người trong đó già hơn tuổi bốn mươi của anh ta, phải bắt đầu nhảy từ tảng đá xích đu, tảng đá rung lắc vài feet trên bề mặt, còn một vực sâu không đáy có thể bị thổi bay trong gió lớn! Chúa ơi, đủ tồi tệ rồi, nhưng khi tôi chỉ những điều đó cho Leo, cậu khiến toàn bộ chuyện này thật đơn giản khi cho rằng, lựa chọn thật tàn nhẫn, chúng tôi phải chọn giữa việc chắc chắn chết dần dần trong căn phòng và nguy cơ chết nhanh chóng trong không trung. Tất nhiên, không tranh cãi làm gì trước chuyện này, nhưng rõ ràng chúng tôi không thể cố bật nhảy vọt lên được trong bóng tối; điều duy nhất phải làm là đợi ánh sáng xuyên qua vực thẳm lúc hoàng hôn. Chúng tôi có lẽ đang ở gần hay xa thời điểm hoàng hôn bao lâu, không ai trong chúng tôi có khái niệm nào dù mờ nhạt nhất; tất cả những gì chúng tôi biết là, ít ra khi ánh sáng tới đây, nó sẽ không kéo dài quá vài phút, chúng tôi phải sẵn sàng. Theo đó, chúng tôi quyết định bò lên đỉnh tảng xích đu và nằm sẵn ở đó. Chúng tôi đã thích nghi dễ hơn với hoàn cảnh này vì thực tế, những cây đèn lại sắp cháy hết một lần nữa – quả thực, một cây đã cháy hết sạch toàn bộ, còn cây kia ánh lửa đang nhảy lên xuống khi dầu đã cạn. Vì thế, với chút ánh sáng gần tàn đó, chúng tôi vội vàng bò ra khỏi căn phòng nhỏ và leo lên bề mặt hòn đá lớn.
Đúng lúc đó ánh sáng tắt.
Sự khác biệt vị trí của chúng tôi là điều đáng chú ý. Lúc ở bên dưới trong căn phòng nhỏ, chúng tôi chỉ nghe thấy tiếng gào rú của gió trên đầu – còn ở đây, nằm úp mặt trên tảng đá lắc lư, chúng tôi tiếp xúc với toàn bộ sức mạnh và cơn giận dữ của nó, như trận cuồng phong quăng quật từ hướng này rồi lại chuyển sang hướng khác, gào thét chống lại vách hang hùng vĩ và xuyên qua những vách đá dựng đứng như hàng vạn linh hồn tuyệt vọng. Chúng tôi nằm đó hàng giờ liền trong kinh hoàng và tinh thần khốn khổ sâu sắc tới mức tôi sẽ không cố mô tả nó, lắng nghe âm thanh bão tố hoang dại của thần vực thẳm Tartarus, tạo ra âm điệu sâu lắng của tảng đá cựa gà đối lập lại giai điệu gió ngân nga như tiếng đàn hạc ghê sợ, chúng gọi nhau từ vách này sang vách kia. Không cơn ác mộng nào con người từng mơ thấy, không phát minh hoang dại nào của kẻ lãng mạn, có thể so sánh với sự khủng bố sống động nơi này, tiếng kêu khóc huyền bí của những âm thanh đó trong màn đêm, chúng tôi bám như thủy thủ bị đắm tàu trên chiếc bè, bị xé nát trong không gian hoang vu đen ngòm khôn dò. May mà nhiệt độ không thấp; thực ra gió đều ấm, nếu không chúng tôi đã chết. Chúng tôi bám chắc và lắng nghe như vậy trong khi dạng dài người trên tảng đá, một việc khá tò mò và bản thân nó mang nhiều thâm ý đã xảy ra, dù không nghi ngờ gì, chỉ là một việc ngẫu nhiên thêm vào, chứ không hề giảm bớt đi gánh nặng thần kinh của chúng tôi.
Nhớ rằng khi Ayesha đứng ở mũi đá cựa gà trước khi chúng tôi đi qua tảng đá này, gió đã xé áo choàng lôi nó khỏi bà ấy, cuốn nó đi mất trong bóng tối của vực thẳm, chúng tôi không thể thấy nó đi đâu. Phải – tôi hầu như không muốn kể chuyện này; nó thật kì lạ. Khi chúng tôi nằm trên tảng đá xích đu đó, chiếc áo choàng này trôi nổi trong không gian tối đen, như ký ức về người đã chết, rồi rơi vào Leo – nó phủ lên người cậu gần như từ đầu đến chân. Thoạt tiên chúng tôi không hiểu đó là gì, nhưng ngay khi phát hiện ra nó bằng cảm giác, thì Leo khốn khổ lần đầu tiên thoái chí, tôi nghe cậu thổn thức trên tảng đá. Không nghi ngờ chiếc áo choàng đã bị giữ ở đỉnh nào đó của vách đá, rồi bị gió thổi ngẫu nhiên tới đây; nhưng việc này vẫn thật tò mò và cảm động.
Rất nhanh sau đó, đột nhiên, không có chút cảnh báo nào trước đó dù nhỏ nhất, lưỡi gươm ánh sáng đỏ vĩ đại phi tới xé tan bóng tối, xuyên qua và xuyên qua, đập vào tảng đá xích đu chúng tôi đang ở trên đó, và dừng lại trên đỉnh nhọn của mũi đá cựa gà đối diện.
“Giờ nó tới rồi,” Leo nói, “bây giờ hoặc không bao giờ.”
Chúng tôi nhỏm dậy, kéo căng mình, nhìn vào những vòng mây nhuộm màu máu từ ánh sáng đỏ như chúng bị cào xé từ vực thẳm bệnh hoạn bên dưới, rồi trong không gian trống giữa tảng đá xích đu và phiến đá đang run rẩy, tuyệt vọng tận đáy lòng, chúng tôi chuẩn bị chết. Chắc chắn chúng tôi không thể xóa bỏ được nó – nỗi tuyệt vọng xuyên qua người chúng tôi.
“Ai sẽ đi trước?” Tôi nói.
“Bác, nhà nghiên cứu sinh già,” Leo trả lời. “Cháu sẽ ngồi lên đầu kia của tảng đá để giữ nó ổn định. Bác phải cố chạy thật nhanh nhất có thể, và nhảy cao lên; Chúa sẽ thương xót chúng ta.”
Tôi bằng lòng gật đầu, rồi tôi làm một việc tôi chưa bao giờ làm từ khi Leo còn nhỏ. Tôi quay lại vòng tay quanh cậu, hôn lên trán cậu. Nghe như kiểu Pháp, nhưng thực ra tôi đang gửi lời chia tay cuối cùng tới một người tôi không thể yêu hơn nếu cậu là con trai của chính mình lần thứ hai hay hơn nữa.
“Tạm biệt, chàng trai của ta,” Tôi nói, “bác hy vọng chúng ta sẽ gặp lại, dù chúng ta đi bất cứ nơi đâu.”
Thực sự tôi không muốn sống thêm hai phút nữa.
Kế tiếp tôi lui về đầu phía xa kia của tảng đá, đợi tới khi một cơn gió bổ vào tôi phía sau, rồi tôi chạy theo chiều dài tảng đá khổng lồ, khoảng ba mươi ba hay ba mươi tư feet, điên cuồng tung người vào không gian gây hoa mắt kia. Ôi! Tôi cảm thấy những nỗi khủng bố đến phát ốm khi tung mình từ đỉnh nhỏ của tảng đá, cảm giác tuyệt vọng kinh hoàng bắn qua não khi nhận ra tôi đã nhảy ngắn hơn! Nhưng đúng là thế, bàn chân tôi không bao giờ chạm tới đỉnh, chúng đi vào không khí, chỉ tay và cơ thể tôi chạm được tới nó. Tôi hét lên, nắm chặt lấy nó, nhưng một tay trượt xuống, tôi bị lắc quay tròn sang phải. Tôi điên cuồng gồng người lên bằng tay trái, lúc này định túm một núm đá, và tôi treo lơ lửng ở đó trong ánh sáng đỏ rực gay gắt, cùng hàng nghìn feet không gian trống rỗng bên dưới tôi. Đôi tay tôi đang giữ bên mặt kia của phần dưới mũi đá cựa gà, đỉnh của nó chạm đầu tôi. Thế nên dù có sức khỏe, tôi cũng không thể tự đẩy mình lên được. Nhiều nhất tôi có thể làm là treo người khoảng một phút, rồi thả ra, rơi xuống cái hố không đáy. Nếu ai có thể tưởng tượng ra tình cảnh đáng sợ hơn, hãy để anh ta nói! Tất cả những gì tôi biết là, sự tra tấn trong nửa phút đó gần như làm biến đổi não tôi.
Tôi nghe Leo gào lên, đột nhiên thấy cậu ấy nhảy tới như một chú sơn dương trong không gian. Cậu đã nhảy quá tuyệt trong hoàn cảnh khủng bố và tuyệt vọng này, xóa tan vực thẳm kinh hãi như thể nó chẳng là gì, tiếp đất thật đẹp trên đỉnh đá, cậu quay mặt lại, ngăn bản thân bị trượt vào vực thẳm. Tôi cảm thấy mũi đá cựa gà phía trên tôi rung lắc dưới cú sốc do ảnh hưởng của cậu, khi đó tôi thấy tảng đá xích đu khổng lồ lắc lư, bị ép quá mạnh khi cậu nhảy, đã bay ngược trở lại do trọng lực của cậu, và lần đầu tiên trong suốt bao thế kỷ qua, vốn cân bằng, giờ nó va chạm kinh hãi rồi rơi ngay vào căn phòng đá từng dành cho nhà triết học Noot sống ẩn dật, không nghi ngờ gì, đã bịt kín vĩnh viễn lối đi dẫn vào Nơi của Sự Sống bằng hàng trăm tấn đá.
Tất cả chỉ diễn ra trong một giây, thật tò mò, dù tình thế của tôi rất đáng sợ, tôi vẫn chú ý quan sát một cách không tình nguyện. Tôi vẫn nhớ đã nghĩ rằng không ai còn có thể xuống được con đường ghê sợ đó lần nữa.
Ngay kế sau đó, tôi cảm thấy Leo dùng hai tay nắm lấy cổ tay phải của tôi. Do nằm áp dài trên đỉnh mũi đá, cậu có thể tiếp cận tôi.
“Bác phải cố và phải đu mình lên,” cậu bình tĩnh nói một cách có chọn lọc, “Còn cháu sẽ cố kéo bác lên, hoặc cả hai chúng ta sẽ cùng đi. Bác sẵn sàng chứ?”
Tôi trả lời đồng ý, đầu tiên bằng tay trái, sau đó tới tay phải, kết quả là, tôi xoay ra khỏi tảng đá trong bóng tối, toàn bộ trọng lượng treo trên cánh tay Leo. Đó là một khoảnh khắc đầy sợ hãi. Cậu ấy rất khỏe, tôi biết, nhưng sức lực của cậu so với việc nâng tôi lên tới đỉnh mũi đá cựa gà, trong hoàn cảnh này, cậu ấy phải bán mạng không ít chứ?
Tôi đong đưa qua lại vài giây, trong khi cậu ấy tập trung toàn bộ sức lực, tôi nghe thấy gân cốt cậu nứt gãy phía trên mình, rồi tự cảm thấy mình được nâng lên như một đứa trẻ nhỏ, tới khi tôi vòng được tay trái quanh hòn đá, ngực tôi áp chặt vào nó. Phần còn lại trở nên dễ dàng; hai hay ba giây sau tôi đứng dậy, rồi chúng tôi nằm thở hổn hển cạnh nhau, run rẩy như chiếc lá, mồ hôi lạnh toát vì kinh sợ ướt sũng da.
Sau đó, cũng như trước, ánh sáng đi mất như mấy cây đèn.
Chúng tôi nằm khoảng nửa giờ không nói một từ, rồi cuối cùng bắt đầu bò dọc theo mũi đá cựa gà hùng vĩ, đó là cách tốt nhất có thể để đi trong bóng tối dày đặc. Tuy nhiên khi tới bề mặt vách đá, mà mũi đá cựa gà nhô ra từ đó như cành cây nhô ra từ bức tường, ánh sáng tăng dần lên dù rất ít ỏi, vì bây giờ trên đầu đang là ban đêm. Sau khi gió giảm, chúng tôi đi dễ hơn, cuối cùng tới cửa hang hay đường hầm đầu tiên. Nhưng giờ một rắc rối mới lại hiện ra: dầu đã hết, các cây đèn chắc chắn bị nghiền thành bột dưới tảng đá xích đu bị rơi. Chúng tôi không có giọt nước nào cho cơn khát, vì chúng tôi đã uống giọt cuối cùng trong căn phòng của Noot. Làm sao chúng tôi nhìn nổi con đường xuyên qua đường hầm cuối cùng rải đầy đá này?
Rõ ràng tất cả những gì chúng tôi có thể làm là tin tưởng cảm giác của chính bản thân, cố lần ra lối đi trong bóng tối, chúng tôi cứ bò như thế, sợ rằng nếu trì hoãn, kiệt sức sẽ chiến thắng chúng tôi, và có lẽ chúng tôi sẽ nằm xuống rồi chết đi ở nơi này.
Ôi, thật kinh hoàng trước con đường hầm cuối cùng! Nơi này rải đầy đá, chúng tôi ngã lên ngã xuống, rồi tự bảo mình đứng dậy tới khi chúng tôi chảy máu vì hàng đống vết thương. Chỉ dẫn duy nhất của chúng tôi là vách hang, chúng tôi luôn chạm vào đó, càng lúc càng hoang mang trong bóng tối tới mức vài lần xuất hiện ý nghĩ kinh hãi rằng chúng tôi đã quay lại, đã đi sai đường. Chúng tôi cứ đi như thế, yếu ớt, thậm chí càng lúc càng yếu ớt hơn, hết giờ này qua giờ khác, cứ vài phút lại dừng để nghỉ, vì sức lực đã dùng hết. Chúng tôi ngủ một lần, tôi nghĩ phải ngủ vài giờ vì khi tỉnh dậy, tay chân đều cứng lại, máu từ các vết trầy xước đã đóng thành bánh, cứng và khô cong trên da. Rồi chúng tôi lại tự kéo lê mình, tới khi tuyệt vọng tới tận tim gan, chúng tôi nhìn một lần nữa ánh sáng ban ngày, và phát hiện ra đang ở bên ngoài đường hầm nơi nếp gấp đá mặt ngoài của vách núi dẫn tới đây.
Lúc đó còn rất sớm – chúng tôi có thể nói đang cảm thấy không gian thật ngọt ngào và bầu trời đầy hạnh phúc, điều chúng tôi không bao giờ hy vọng nhìn lại. Nhưng chúng tôi biết mình đã đi vào đường hầm lúc gần một giờ sau hoàng hôn, cứ đi như vậy, chúng tôi đã mất trọn vẹn một đêm bò xuyên qua nơi ghê sợ này.
“Nỗ lực một lần nữa, Leo,” Tôi hổn hển, “chúng ta phải tới dốc núi Billali ở đó, nếu ông ta chưa đi mất. Đi nào, đừng nản chí,” vì cậu ấy đang che mặt. Cậu đứng dậy, rồi chúng tôi dựa vào nhau đi xuống vách núi năm mươi feet – tôi không có khái niệm ít nhất là bao nhiêu nữa. Tôi chỉ nhớ thấy bản thân nằm thành một đống dưới chân vách núi, sau đó lại một lần nữa bắt đầu tự kéo lê bằng tay và đầu gối về phía lùm cây Bà ấy đã bảo Billali đợi bà ấy quay lại, vì chúng tôi không thể đi bằng chân được nữa. Chúng tôi không kịp đi được năm mươi thước theo kiểu này thì đột nhiên một người câm hiện ra từ đám cây cối bên trái, tôi cho rằng anh ta đang đi dạo buổi sáng và chạy tới để xem chúng tôi là loại động vật kỳ lạ gì. Anh ta nhìn mãi, nhìn mãi, rồi giơ tay lên khiếp sợ, suýt ngã ra đất. Tiếp theo, anh ta chạy nhanh nhất có thể về phía lùm cây cách đó hai trăm thước. Không có gì lạ khi anh ta kinh hoàng trước sự xuất hiện của chúng tôi, vì chúng tôi phải trải qua hoàn cảnh rất sốc. Lúc này Leo, những lọn tóc vàng đã biến thành trắng như tuyết, quần áo gần như rời hết khỏi cơ thể cậu, gương mặt mệt mỏi và bàn tay cậu đầy vết bầm tím, vết cắt, bẩn thỉu tụ đầy máu, một cảnh thật đáng báo động, khi cậu đau đớn tự kéo lê mình trên mặt đất, còn tôi không nghi ngờ gì, trông khá hơn một chút. Tôi biết hai ngày sau khi kiểm tra mặt mình trong nước, tôi hầu như không nhận ra chính mình. Tôi chưa bao giờ nổi tiếng vì vẻ đẹp bề ngoài, những đường nét của tôi bị đóng dấu xấu xí khiến tôi chưa bao giờ bỏ đi được tới tận ngày nay, thứ đó giống như vẻ hoang dại mà một người giật mình thức dậy từ một giấc ngủ sâu. Và thực sự không nên băn khoăn làm gì. Tôi đã tự hỏi điều gì khiến chúng tôi thoát khỏi tất cả những chuyện đó.
Hiện giờ, với niềm tin mãnh liệt, tôi thấy ông già Billali vội vã chạy về phía chúng tôi, thậm chí tôi khó có thể mỉm cười trước biểu cảm kinh ngạc trên gương mặt trang nghiêm của ông ấy.
“Ôi, Khỉ Đầu Chó của ta! Khỉ Đầu Chó của ta!” ông ta kêu lên, “con trai yêu quí của ta, thực sự là ngươi và con Sư Tử đấy ư? Tại sao, cái bờm như ngô chín của hắn lại trắng như tuyết thế. Các ngươi đi đâu vậy? còn Con Lợn đâu, còn cả Bà ấy – người chúng ta phải tuân lệnh đâu rồi?”
“Chết, cả hai đã chết,” tôi trả lời; “nhưng đừng hỏi nữa; hãy giúp chúng tôi, cho chúng tôi thức ăn và nước uống, nếu không chúng tôi cũng sẽ chết trước mặt ngài. Ngài không thấy lưỡi chúng tôi đã đen lại vì thiếu nước sao? Thế nên chúng tôi có thể nói chuyện thế nào đây?”
“Chết rồi ư?” ông ta thở hổn hển. “Không thể nào. Bà ấy không bao giờ chết – chết rồi ư, làm sao có thể?” Sau đó như cảm nhận được gương mặt mình đang bị những người câm chạy tới theo dõi, ông ấy ra hiệu cho họ mang chúng tôi tới trại mà họ đã dựng lên.
Thật may mắn khi chúng tôi trở về đã có ít nước dùng đang đun trên lửa, Billali cho chúng tôi ăn loại nước này, vì chúng tôi quá yếu đến nỗi không tự đút ăn được, và tôi chính thức tin chúng tôi đã được cứu thoát khỏi chết vì kiệt sức. Rồi ông ấy bảo những người câm lau máu và bụi bẩn trên người chúng tôi bằng vải ướt, sau đó, chúng tôi được đặt nằm trên đống cỏ thơm, ngay lập tức ngủ như chết vì kiệt sức hoàn toàn cả tâm trí và thể xác.

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham  

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...