Thứ Hai, 18 tháng 5, 2015

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 23



CHƯƠNG 23

Ngôi Đền Sự Thật
Chúng tôi chuẩn bị không mất nhiều thời gian lắm. Chúng tôi để một ít quần áo và ủng dự phòng trong túi Gladstone, chúng tôi cũng mang súng lục và súng trường mỗi người một khẩu, cùng với đạn dược đầy đủ, một biện pháp phòng ngừa, vì, dù có Thượng Đế, chúng tôi cũng nợ tính mạng của mình hết lần này đến lần khác. Phần còn lại, những khẩu súng trường nặng, chúng tôi đành bỏ lại.
Vài phút trước giờ đã định, chúng tôi lại chờ đợi trong phòng ngủ của Ayesha, thấy bà ấy đã sẵn sàng, chiếc áo choàng đen khoác bên ngoài đống vải quấn quanh.
“Các ngươi đã chuẩn bị cho cuộc mạo hiểm vĩ đại chưa?” bà ấy nói.
“Rồi,” Tôi trả lời, “về phần mình, Ayesha, tôi không tin vào nó.”
“À, Holly của ta,” bà ta nói, “ngươi thật giống những người Do Thái cổ xưa kia – trong ký ức họ đã chọc giận ta rất đau lòng – không tin, và hầu như không chấp nhận những gì họ không biết. Nhưng ngươi sẽ thấy; trừ khi chiếc gương của ta nói dối,” bà ta chỉ vào mặt nước như pha lê, “con đường đã mở ra như khi xưa. Giờ chúng ta hãy bắt đầu cuộc đời mới mà ai biết được nó sẽ kết thúc ở đâu?”
“A,” Tôi thốt lên, “ai biết được ở đâu ư?” rồi chúng tôi đi xuống hang động lớn ở trung tâm, tiến vào vùng ánh sáng ban ngày. Tại cửa hang, chúng tôi thấy một cái ổ sáu người khiêng, tất cả đều là người câm, đang đợi, tôi thấy nhẹ nhõm khi gặp ông bạn già Billali, người tôi có một tình cảm nhất định. Vì lí do không cần giải thích, Ayesha cho đó là cách tốt nhất, ngoại trừ bà ấy, chúng tôi đều đi bộ, chúng tôi không miễn cưỡng phải làm thế, sau khi đã ở khá lâu trong khu hang động này, tuy nhiên cái ổ kia có lẽ hợp với cái quách – một từ không phù hợp lắm, dù sao với những ngôi mộ đặc biệt này, chắc không tốn sức người khiêng đến vậy – ép người ở trong như người chết vẫn còn thở. Ngẫu nhiên hay do mệnh lệnh của Bà ấy, không gian trước cái hang diễn ra vũ hội kinh dị đã hoàn toàn bị dọn sạch. Không thấy một linh hồn nào, tất nhiên tôi không tin chuyến đi này mọi người đều biết, có lẽ trừ những người câm đợi Bà ấy, tất nhiên họ có thói quen giữ chặt những gì họ thấy cho bản thân.
Vài phút sau chúng tôi bước từng bước trên đồng bằng lớn được canh tác, hay lòng hồ, bị đóng khung như miếng ngọc lục bảo lớn đặt trong vách núi, lại có cơ hội nữa để tự hỏi về bản chất phi thường của nơi này, nơi dân tộc Kôr xưa kia đã lựa chọn làm thủ đô của họ, với số nhân công khổng lồ, sự khéo léo và kỹ thuật được những người sáng lập nên thành phố trưng dụng, để làm khô cạn một khối nước khổng lồ, sau đó giữ nó được tích tụ lại. Quả thực, qua kinh nghiệm của tôi, đây là một ví dụ vô song về những gì con người có thể làm khi đối đầu với tự nhiên, theo tôi, thành tựu này giống như Kênh đào Suez hay Đường Hầm Mont Cenis, nhưng không lớn lao và hùng vĩ như công trình cổ đại này.
Khi chúng tôi đi được khoảng nửa giờ, tự thưởng thức khoảnh khắc thú vị vui vẻ trong ngày dường như luôn tới trên khu đồng bằng Kôr rộng lớn, chuộc lỗi mức nào đó cho mong muốn của đất và gió biển – vì gió đều bị chắn bởi bức tường núi đá – chúng tôi bắt đầu nhìn thấy rõ khung cảnh Billali đã kể cho chúng tôi về những tàn tích của một thành phố vĩ đại. Ngay từ xa chúng tôi đã có thể thấy đống tàn tích này tuyệt vời thế nào, mỗi bước đi đều thấy rõ rệt hơn. Thành phố không quá lớn nếu so sánh với Babylon hay Thebes, hay những thành phố thời cổ đại xa xôi khác; có lẽ bức tường bên ngoài nó khoảng mười hai dặm vuông, hoặc ít hơn. Các bức tường không còn nguyên vẹn, như chúng tôi nhận ra khi đặt chân lên đó, không quá cao, có lẽ không quá bốn mươi feet, đó là độ cao hiện giờ khi chìm dưới đất một phần, hay vì nguyên nhân nào đó, bị sụp đổ. Nguyên nhân chắc chắn là dân tộc Kôr, dùng thành lũy to lớn hơn bất kỳ thứ gì bàn tay con người có thể tạo ra để bảo vệ khỏi các cuộc tấn công từ bên ngoài, chỉ cần chúng xuất hiện, và bảo vệ chống lại các mối bất hòa dân sự. Mặt khác chúng cũng rộng rãi và cao lớn, hoàn toàn bằng đá, được đào từ khu hang động, bao quanh một con hào lớn rộng khoảng sáu mươi feet, một số vẫn đầy nước. Khoảng mười phút trước khi mặt trời chìm hoàn toàn xuống, chúng tôi tới được chỗ con hào này, đi xuống xuyên qua nó, leo qua vật giống như các mảnh tường xếp chồng lên tới đỉnh. Tôi ước nó nằm dưới sức mạnh ngòi bút của mình để trao ý tưởng về khung cảnh hùng vĩ bắt gặp cái nhìn của chúng tôi. Nơi đó hòa quyện trong sắc đỏ của mặt trời đang chìm xuống, là hàng dặm nối hàng dặm phế tích – cột đá, đền thờ, miếu, cung điện nhà vua, đa dạng với những miếng vá bằng bụi cây xanh. Tất nhiên, mái của các tòa nhà từ lâu đã sụp đổ và biến mất, nhưng vẫn có một số lượng cực lớn kiểu kiến trúc đó, kiên cố và bền bỉ bằng đá, rất nhiều bức tường và cột lớn vẫn còn đứng thẳng. [*]
[*] Liên hệ với trạng thái bảo tồn kỳ lạ đống phế tích này sau giai đoạn sụp đổ lớn như vậy – ít nhất sáu nghìn năm – phải nhớ rằng Kôr không bị thiêu cháy hay hủy diệt bởi kẻ thù hay động đất, mà bị bỏ hoang do tác động của một dịch bệnh khủng khiếp. Vì thế những ngôi nhà bị bỏ lại không hư hại gì; khí hậu của vùng đồng bằng này rất tốt và khô ráo, ít mưa gió; kết quả là đống di tích đó chỉ phải chống lại thời gian, chúng tác động chậm chạp lên các khối công trình lớn. – L.H.H.
Ngay phía trước chúng tôi rõ ràng là đường chính của thành phố, vì nó rất rộng, rộng hơn bờ kè sông Thames, sau đó chúng tôi phát hiện ra, nó được trải nhựa, hay đúng hơn là được xây bằng những khối đá được mài giũa, giống như dùng để thi công các bức tường, giờ nó đã được phủ đầy cỏ và cây bụi mọc lên từ lớp đất không sâu lắm. Nơi là công viên và vườn cây, ngược lại, giờ như rừng rậm. Quả thật, từ xa rất dễ lần ra vô vàn đường phố bằng cách đốt cháy đám cỏ ít ỏi mọc trên đó. Phía bên kia của con đường lớn này là những khối tàn tích rộng lớn, mỗi khối nói chung đều phân tách với láng giềng của nó bằng một không gian, tôi giả thiết, có lẽ từng là mảnh vườn, nhưng giờ chi chít cây bụi rậm rạp. Chúng đều được xây với loại đá cùng màu, hầu hết đều là cột lớn, nhiều đến mức chúng tôi có thể nhận ra trong ánh sáng mờ nhạt khi chúng tôi đi nhanh qua đường chính, tôi tin mình đã đúng khi nói rằng không có bàn chân người sống đặt vào đây hàng nghìn năm qua. [*]
[*] Billali kể cho tôi, người Amahagger tin rằng thành phố này bị ma ám, và không nên bước vào đây với bất cứ lý do gì. Quả thực, tôi có thể thấy bản thân ông ta không hoàn toàn thích làm việc này, chỉ giải khuây bằng cách cho rằng ông ta đang nằm dưới sự bảo vệ trực tiếp của Bà ấy. Bản thân Leo và tôi cũng rất tò mò, một dân tộc không phản đối sống cùng người chết, những người mà sự suồng sã có lẽ sẽ sinh ra khinh bỉ, và dùng thân xác họ làm nhiên liệu, lại kinh sợ với nơi cư trú mà những người đã mất chiếm đóng khi còn sống. Tuy nhiên cuối cùng, đó chỉ là sự không nhất quán của đám người hoang dã. – L.H.H.
Hiện tại chúng tôi đã tới một cái đống khổng lồ, đúng đắn là một đền thờ rộng ít nhất tám mẫu, được xếp theo trình tự cung điện, mỗi điện gần một điện khác nhỏ hơn, theo nguyên lý của bộ hộp xếp lồng nhau Trung Hoa, các cung điện phân tách với nhau bởi những hàng cột khổng lồ. Khi tôi đang nghĩ về nó, tôi cũng nhận ra điểm đáng chú ý về hình dáng những cây cột này, chúng không giống những gì tôi từng nhìn thấy hay nghe thấy, được tạo dáng thắt eo ở giữa, rồi phồng ra ở trên và dưới. Thoạt tiên chúng tôi nghĩ hình dáng đó biểu trưng cho dáng hình cơ thể phụ nữ, thói quen chung trong kiến trúc tôn giáo cổ xưa của nhiều tín ngưỡng. Nhưng hôm sau, khi tới sườn núi, chúng tôi phát hiện ra một lượng lớn cây cọ trông vô cùng trang nghiêm, cũng có chính xác hình dáng này, nên giờ không nghi ngờ gì nữa, nhà thiết kế đầu tiên của đống cột kia được truyền cảm hứng từ đường cong duyên dáng của những cây cọ này, hay đúng ra là tổ tiên của chúng khoảng tám hay mười nghìn năm trước, giống như bây giờ, vẫn trang hoàng đẹp đẽ cho các sườn núi từng tạo nên bờ của hồ núi lửa.
Mặt tiền của ngôi đền này rất lớn, tôi tưởng tượng, rộng như đền El-Karnac tại thành Thebes, một vài trong số những cây cột lớn nhất mà tôi đo được, đều có đường kính từ mười tám tới hai mươi feet, cao khoảng bảy mươi feet, đoàn rước nhỏ của chúng tôi đã dừng lại, Ayesha bước xuống khỏi cái ổ.
“Đây có một chỗ, Kallikrates,” bà ấy nói với Leo đang chạy tới giúp bà ấy bước xuống, “có thể ngủ. Hai nghìn năm trước, chàng và ta, cùng người Ai Cập kia từng nghỉ ở đó, nhưng từ đó ta không đặt chân đến đây nữa, không ai cả, không chừng nó đã sụp đổ,” đi theo bởi cả đoàn chúng tôi, bà ấy bước qua như bay hàng đống hoang phế đổ nát tới cung điện bên ngoài, rồi nhìn quanh trong bóng tối. Hiện giờ, dường như đã nhớ ra, bà ấy bước vài bước theo bức tường tới bên trái, rồi dừng lại.
“Nó đây,” bà ta nói, cùng lúc ra hiệu cho hai người câm đang chở đống đồ dùng cùng ít đồ cá nhân của chúng tôi lên trước. Một trong số họ cầm đèn đi lên, thắp nó sáng lên từ lò than (với người Amahagger, khi đi đường gần như đều luôn luôn mang theo người một lò than nhỏ và nhẹ, để cung cấp lửa). Đống bùi nhùi của lò than làm từ mảnh vỡ của xác ướp được hãm cẩn thận, nếu trộn với đất ẩm đúng cách, hợp chất tội lỗi này có thể cháy âm ỉ hàng giờ. [*] Ngay khi ngọn đèn được thắp lên, chúng tôi bước vào nơi đó trước khi Ayesha dừng lại. Xuất hiện một căn phòng được đào trong tường dày, từ thực tế vẫn có một bàn đá lớn bên trong nó, tôi nghĩ có lẽ đó là phòng khách, dành cho một trong những người giữ cửa của ngôi đền lớn này.
[*] Cuối cùng chúng ta cũng không tiến bộ hơn người Amahagger nhiều lắm trong vấn đề này. “Xác ướp” mà người Ai Cập cổ nghiền ra, tôi tin là loại sắc tố được các nghệ sĩ sử dụng rất nhiều, đặc biệt những người dùng tài năng tái sinh lại các tác phẩm bậc thầy ngày xưa. – Biên tập viên.
Chúng tôi dừng ở đây, sau khi lau sạch sẽ chỗ này làm nó trở nên tiện nghi như hoàn cảnh và bóng tối cho phép, chúng tôi ăn chút thức ăn lạnh, ít ra Leo, Job và tôi làm thế, còn Ayesha, tôi nghĩ tôi đã từng nói, không bao giờ chạm vào bất kỳ cái gì trừ bánh bột mì, trái cây và nước. Trong khi chúng tôi vẫn đang ăn, mặt trăng tròn đầy nhô lên trên tường núi, bắt đầu làm nơi đây tràn ngập ánh bạc.
“Có biết tại sao ta mang các ngươi tới đây đêm nay không, Holly của ta?” Ayesha nói, gối đầu lên tay và ngắm nhìn quả cầu lớn đang mọc lên, như nữ hoàng nơi thiên đường, phía trên những cây cột uy nghi của đền thờ. “Ta mang các ngươi, không, thật kì lạ, nhưng chàng có biết, Kallikrates, lúc này chàng nằm ở chỗ đó, chính là nơi cơ thể đã chết của chàng nằm xuống khi ta mang chàng trở lại khu hang động Kôr nhiều năm trước đây không? Giờ tất cả đã trở về tâm trí ta. Ta có thể thấy nó, cảnh tượng thật khủng khiếp!” bà ấy rùng mình.
Leo bật dậy khỏi đó và vội vàng thay đổi chỗ ngồi. Nhưng hồi tưởng có lẽ đã tác động tới Ayesha, rõ ràng hơi lôi cuốn cậu ấy.
“Ta mang các ngươi tới,” Ayesha lại tiếp tục, “có lẽ các ngươi sẽ thấy cảnh tượng tuyệt vời nhất mà mắt người từng thấy – ánh trăng tròn tỏa sáng trên xứ Kôr hoang phế. Khi các ngươi ăn xong – ta có thể dạy chàng không ăn gì ngoài hoa trái, Kallikrates, nhưng chỉ sau khi chàng tắm qua lửa. Ngày xưa ta cũng ăn thịt như kẻ súc vật. Sau khi xong, chúng ta sẽ đi ra ngoài, ta sẽ chỉ cho các người thấy ngôi đền vĩ đại này và Vị Thần mà người dân nơi này từng thờ phụng ở đây.”
Tất nhiên chúng tôi bật dậy ngay để bắt đầu. Ngòi bút của tôi lại thất bại. Đưa ra một chuỗi thước đo và chi tiết của vô số cung điện trong ngôi đền rất mệt mỏi, nếu tôi làm thế, tôi không biết phải mô tả những gì nhìn thấy thế nào, tráng lệ ngay cả trong đống đổ nát, gần như vượt quá năng lực nhận thức. Điện thờ nối tiếp điện thờ mờ ảo, hàng nối hàng những cây cột trụ hùng vĩ – vài cây cột trong số đó (đặc biệt tại các cửa ngõ) đều được chạm khắc từ bệ tới đỉnh cột – không gian nối tiếp không gian những căn phòng trống nói cho trí tưởng tượng hùng hồn hơn mọi đường phố đông đúc. Trên tất cả, im lặng chết chóc của xứ sở đã chết, cảm giác đơn độc hoàn toàn, và tinh thần ủ ê của Quá Khứ! Đẹp biết bao, buồn chán biết bao! Chúng tôi không dám nói to. Ayesha cũng kinh ngạc trước sự hiện hữu của đế chế cổ xưa, so với tháng ngày bà ấy đã trải qua, chỉ là một việc nhỏ; chúng tôi chỉ thì thầm, lời thì thầm như chạy từ cột này tới cột khác, cho tới khi chúng mất hút trong không gian im lặng. Ánh trăng sáng ngời rơi xuống cột trụ, điện thờ và những bức tường vỡ tan, che dấu nét vay mượn và những gì không hoàn hảo trong ánh bạc, khoác lên tấm áo uy nghi đã hoa râm cùng vinh quang đặc biệt của màn đêm. Thật tuyệt vời khi thấy trăng tròn nhìn xuống tòa miếu đổ nát của Kôr. Thật tuyệt vời khi nghĩ tới hàng nghìn năm qua, quả cầu chết chóc bên trên, thành phố chết bên dưới, cùng nhìn nhau, trong không gian cô đơn tột độ, rót cho nhau nghe câu chuyện về cuộc đời đã qua và vinh quang đã đi xa của chúng. Ánh sáng trắng rơi xuống, từng phút từng phút bóng tối yên lặng bò dọc các điện thờ đầy cỏ mọc, như linh hồn các linh mục xưa ám ảnh chỗ cư trú của vị thần được thờ phụng – ánh sáng trắng rơi xuống, bóng tối lớn dần lên tới khi vẻ đẹp hùng vĩ của mỗi khung cảnh cùng vẻ uy nghi không thể chế ngự được của Thần Chết như chìm vào tâm hồn chúng tôi, hét to hơn tiếng kêu la của những đội quân đang phô trương lộng lẫy mà nấm mồ đã nuốt chửng, và ký ức cũng bị lãng quên.
“Đi thôi,” Ayesha nói, sau khi chúng tôi nhìn mãi và nhìn mãi, tôi không biết bao lâu, “Ta sẽ chỉ cho các ngươi bông hoa đá trên vương miện Nhan Sắc và Kỳ Quan, nếu nó vẫn còn đứng đây thử thách thời gian bằng vẻ đẹp của nó, khiến trái tim con người khát khao như thứ sau tấm màn che,” không đợi câu trả lời, bà ấy dẫn chúng tôi qua hai điện thờ có trụ đá, sâu vào trong ngôi đền của tòa miếu cũ.
Nơi đây, giữa trung tâm điện thờ trong cùng, khoảng năm mươi thước vuông, hay ít hơn, chúng tôi đứng mặt đối mặt với tác phẩm Nghệ thuật có tính biểu tượng vĩ đại nhất mà một thiên tài đã trao cho thế giới. Ngay chính giữa điện thờ, đặt trên một phiến đá vuông dày là một quả bóng tròn bằng đá tối đen rất to lớn, đường kính khoảng hai mươi feet, đứng trên quả bóng là một nhân vật có cánh khổng lồ mang vẻ đẹp mê hoặc và thần thánh đến mức khi tôi lần đầu nhìn chằm chằm vào nó, bóng sáng tối dưới ánh trăng mềm mại, hơi thở của tôi như dừng lại, tim tôi ngừng đập một lúc.
Bức tượng đẽo từ đá cẩm thạch vẫn tinh khiết và trắng đến tận bây giờ, sau nhiều niên đại, tỏa sáng khi ánh trăng đang nhảy múa trên nó, chiều cao bức tượng, nói giỡn cùng phải trên hai mươi feet. Nhân vật có cánh mang hình phụ nữ với vẻ đẹp kỳ diệu và dáng hình tinh tế, kích thước dường như lấy ra từ vẻ đẹp người thật và tâm linh. Cô đang uốn người về phía trước và lơ lửng trên đôi cánh đã giang ra một nửa như thể giữ cô cân bằng. Cánh tay giang rộng như phụ nữ muốn ôm người mình yêu thương, trong khi thái độ của cô mang ấn tượng của vẻ cầu khẩn dịu dàng. Thân hình hoàn hảo duyên dáng để trần, - một điều kỳ lạ hiện ra – gương mặt có mạng che mỏng, vì vậy chúng tôi chỉ có thể theo dấu các đặc trưng đường nét. Một màn mỏng như sương tròn trịa phủ trên đầu, hai điểm cuối của nó rơi xuống ngực trái, bên dưới nó, giờ đã bị vỡ, một luồng không khí phía sau đi vào.
“Cô ấy là ai?” Tôi hỏi khi vừa rời mắt khỏi bức tượng.
“Ngươi không thể đoán ra ư, Holly?” Ayesha trả lời. “Trí tưởng tượng của ngươi đâu mất rồi? Đó là thần Sự Thật trên Thế Gian, đang kêu gọi con cháu tháo che mặt cho người. Hãy nhìn những gì viết trên bệ. Không nghi ngờ gì nữa, nó được lấy từ cuốn sách Kinh Thánh của người Kôr,” bà ấy dẫn đường tới chân bức tượng, nơi có văn tự bằng chữ tượng hình giống tiếng Trung Quốc thông thường được khắc sâu đến mức giờ vẫn đọc được rõ ràng, ít nhất với Ayesha. Theo phiên dịch của bà ấy, nó có nội dung như sau:
“Không có người nào vén màn che và nhìn vào gương mặt ta, vì nó rất đẹp ư? Dành cho người vén màn che của ta, ta sẽ trao cho anh ta hòa bình, những đứa con trí tuệ ngọt ngào và những công việc tốt.”
Rồi một giọng than khóc, “Dù tất cả những ai tìm kiếm theo ngươi đều mê đắm ngươi, than ôi! Ngươi là Đức Mẹ Đồng Trinh, ngươi sẽ thành Đức Mẹ Đồng Trinh khi Thời Khắc tới. Không ai nơi đây sinh ra người phụ nữ che mặt và sống động này, sẽ không có ai. Chỉ Thần Chết có thể rút ra màn che mặt của ngươi, ôi Thần Sự Thật!”
Và Thần Sự Thật giang cánh tay khóc than, vì những ai tìm kiếm người có lẽ sẽ không tìm thấy người, cũng không nhìn thẳng vào mặt người.
“Ngươi thấy đấy,” Ayesha nói, khi dịch xong, “Thần Sự Thật là nữ thần của dân tộc Kôr cổ xưa, vì người, họ đã xây dựng những đền thờ này, họ tìm kiếm người; biết rằng họ có thể không bao giờ tìm thấy, họ vẫn tìm kiếm.”
“Như vậy,” Tôi buồn bã nói thêm, “những người tìm kiếm giờ phút này, nhưng họ đã phát hiện ra; như Kinh Thánh này nói thì họ sẽ không tìm thấy; vì chỉ Thần Chết mới tìm thấy Thần Sự Thật.”
Rồi nhìn lại lần nữa vẻ đẹp biểu tượng hóa bị che mặt này – hoàn hảo và tinh khiết đến mức ai cũng ưa thích, ánh sáng tâm linh sống động chiếu xuyên qua nhà tù bằng cẩm thạch, dẫn con người tới những suy nghĩ cao cả và thanh tao – giấc mơ về vẻ đẹp của nhà thơ bị đóng băng trong đá, tôi sẽ không bao giờ quên khi tôi còn sống, chúng tôi quay người và đi trở lại xuyên qua những cung điện đầy ánh trăng về tới nơi chúng tôi xuất phát. Tôi không bao giờ thấy lại bức tượng nữa, điều tôi vô cùng hối tiếc, vì trên quả bóng bằng đá lớn biểu trưng cho Thế Gian với nhân vật đứng trên đó, các đường nét được vẽ lên, có lẽ nếu đủ sáng, chúng tôi có khi còn phát hiện ra cả bản đồ Vũ Trụ nổi tiếng của dân tộc Kôr. Dù sao đi nữa, nó cũng gợi ý về một tri thức khoa học mà những người tôn thờ đã chết từ lâu của Thần Sự Thật đã công nhận thực tế đó: trái đất hình tròn.

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham  

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 22



CHƯƠNG 22

Job có Linh Cảm
Chín giờ sáng hôm sau, Job, trông vẫn còn sợ hãi và kinh hoàng, đi vào gọi tôi, đồng thời thở hắt ra vì biết ơn khi thấy chúng tôi vẫn còn sống trên giường, dường như ngoài dự đoán của anh ta. Khi tôi nói với anh ta kết cục đáng sợ của Ustane khốn khổ, dù rất biết ơn vì chúng tôi sống sót, nhưng anh ta vẫn sốc, dù không thích Ustane lắm. Cô ấy gọi anh ta là “đồ con lợn” bằng tiếng Ả Rập pha tạp, còn anh ta gọi cô ấy là “đồ mất nết” theo tiếng Anh chuẩn, nhưng những trò đùa thú vị đó đã bị lãng quên khi đối mặt với thảm họa đầy rẫy trong lòng bàn tay Nữ Hoàng.
“Tôi không muốn nói gì không thể chấp nhận được, thưa ngài,” Job nói khi nghe xong câu chuyện của tôi, “nhưng quan điểm của tôi cho rằng Bà ấy này là một quí bà cao tuổi, có lẽ là vợ cậu ấy, nếu cậu ấy chính là người đó, tôi cho rằng cậu ấy chính là người đó, vì bản thân cậu ấy không thể xấu xa đến vậy. Mụ Phù Thủy làng Endor là kẻ ngốc so với bà ấy: lạy chúa phù hộ cho bà ta không làm gì nữa để kéo hết các đức ngài trong Kinh Thánh ra đây, nơi những nấm mồ đầy dã thú này, nếu không tôi phải trồng cải xoong trên đống vải flannel cũ kỹ kia mất. Đây đúng là một đất nước của ma quỷ, thưa ngài, còn bà ta là chủ nhân của đám ma quỉ đó; nếu chúng ta có thể biến mất khỏi nơi này, đúng là ngoài mong đợi của tôi. Tôi không thấy còn cách nào thoát khỏi nó. Mụ phù thủy đó sẽ không để chàng trai trẻ tốt đẹp như Ngài Leo ra đi.”
“Đi thôi,” Tôi nói, “Dù sao đi nữa bà ta đã cứu mạng cậu ấy.”
“Phải, và bà ta sẽ lấy đi linh hồn của cậu ấy để trả nợ cho việc đó. Bà ta sẽ biến cậu ấy thành phù thủy, như chính bà ta. Tôi cho rằng thật xấu xa nếu có gì để làm với loại người này. Đêm qua, thưa ngài, tôi tỉnh giấc và đọc một chút Kinh Thánh mà người mẹ già nua khốn khổ của tôi đưa cho, về những gì sẽ xảy đến với các nữ phù thủy, cho đến khi tóc tôi dựng đứng. Chúa ơi, bà già đó có thể nhìn ra sao nếu bà ta thấy nơi Job của bà ta đã tới chứ!”
“Phải, đúng là một đất nước kỳ quái, con người cũng kỳ quái, Job,” Tôi thở dài đáp lại, vì dù không mê tín như Job, nhưng tôi vẫn phải thừa nhận đã bị co lại (sẽ không chịu điều tra) trước những gì thuộc về Tạo Hóa.
“Ngài đã đúng, thưa ngài,” anh ta trả lời, “nếu ngài không nghĩ tôi rất ngu ngốc. Tôi muốn nói với ngài rằng, giờ đây ngài Leo đã hết đường rồi” – (Leo đã dậy sớm và đi dạo rồi) – “và tôi biết đây là đất nước cuối cùng tôi nhìn thấy trên đời. Đêm qua tôi đã mơ, tôi mơ thấy cha già của tôi mặc bộ đồ ngủ, giống như đám người này mặc khi họ muốn mặc trang phục đầy đủ dịp đặc biệt, cầm ít cỏ lông ông ấy hái trên đường trong tay, vì hôm qua tôi đã thấy rất nhiều loại cỏ này, khoảng ba trăm thước từ cửa cái hang thú vật này.”
“’Job’, ông ấy trang trọng nói với tôi, một vẻ hài lòng tỏa sáng trên người ông ấy, giống mục sư Methody khi ông ta bán cho người hàng xóm một con ngựa bị đánh dấu với giá hời hai mươi pound để làm việc – ‘Job, thời gian đã hết rồi, Job ạ; nhưng cha không bao giờ muốn tới săn đuổi con ở nơi này, Job ạ. Những việc thế này mà cha phải chõ mũi vào; thật không hay ho gì khi bắt người cha già yếu khốn khổ của con chạy như vậy, để cha đơn độc khi đầy ngập kẻ xấu xa như mưa nơi vùng đất Kôr này.’”
“Cảnh báo thường xuyên,” Tôi đưa ra giả thuyết.
“Phải, thưa ngài, - tất nhiên, thưa ngài, chỉ có những gì ông nói bọn họ – ‘chú ý, những kẻ cực kỳ bạo lực’ – thưa ngài, tôi chắc chắn không nghi ngờ điều đó, như những gì tôi biết về họ, và cách họ đặt chậu nung nóng,” Job tiếp tục một cách buồn bã. “Dù sao đi nữa, ông chắc chắn thời gian đã hết, rồi đi mất khi nói chúng ta nên sớm nhìn ra nhiều thứ hơn là quan tâm đến nhau, và tôi cho rằng ông đang suy nghĩ về thực tế là tôi và cha chưa bao giờ giận nhau lâu quá ba ngày, tôi dám chắc mọi thứ sẽ tương tự khi chúng tôi gặp lại nhau.”
“Chắc chắn,” tôi nói, “cậu không nghĩ cậu sắp chết vì đã mơ gặp cha già của cậu đấy chứ; nếu như có người chết vì mơ thấy cha họ, thì chuyện gì xảy ra với người mơ thấy mẹ vợ anh ta nhỉ?”
“A, thưa ngài, ngài đang cười nhạo tôi,” Job nói; “nhưng ngài thấy đấy, ngài không biết cha tôi. Nếu đó là ai đó khác – Bác Mary của tôi chẳng hạn, bà ấy không bao giờ làm quá sức một việc gì – tôi sẽ không nghĩ nhiều về điều đó; nhưng bố tôi là người ăn không ngồi rồi, ông không nên có mười bẩy người con, ông chưa bao giờ tự đặt mình vào vị trí đó để nhìn nhận. Không, thưa ngài; tôi biết ngài như một thương nhân. Phải, tôi không thể giúp gì; tôi cho rằng mọi người đều phải ra đi vào lúc này hay lúc kia, dù thật khó khăn khi phải chết ở một nơi như thế này, nơi chôn chất người Thiên Chúa Giáo không phải vì lượng vàng họ sở hữu. Tôi đã cố làm một người tốt, thưa ngài, làm hết bổn phận trung thành của tôi, và nếu không phải vì cách thức kiêu ngạo cha tôi tới đêm qua – một kiểu hít hít ngửi ngửi tôi không thích – như thể ông không muốn thử thách tôi – tôi cảm thấy khá dễ dàng trong đầu. Dù sao thưa ngài, tôi đã là một người đầy tớ tốt của ngài và ngài Leo, chúa phù hộ ngài ấy! – tại sao nhỉ, dường như một ngày tôi từng dẫn cậu ấy xuống phố bằng xe ngựa; - nếu ngài có thể thoát khỏi chỗ này – vì cha không ám chỉ gì đến ngài, nên có lẽ ngài có thể thoát – tôi hy vọng ngài sẽ nghĩ về đống xương trắng của tôi một cách hài lòng, và đừng làm gì nữa với bản văn tự tiếng Hy Lạp trên những cái chậu hoa, thưa ngài, nếu tôi cả gan được nói điều đó.”
“Thôi đi, thôi đi, Job,” Tôi nghiêm giọng nói, “Thật vớ vẩn, cậu thấy đấy. Cậu không ngu ngốc đến mức cho hết những ý tưởng kiểu đó vào đầu đấy chứ. Chúng ta đã sống sót dù trải qua nhiều chuyện ly kì, và tôi mong chúng ta sẽ tiếp tục làm được điều đó.”
“Không, thưa ngài,” Job trả lời với giọng tin tưởng khiến tôi không vui, “không hề vớ vẩn. Tôi là người có số phận bi đát, tôi cảm thấy thế, đó là một cảm xúc không thoải mái vô cùng, thưa ngài, vì không ai có thể giúp hay hỏi chuyện sẽ ra sao. Nếu ngài ăn tối và nghĩ về thuốc độc, nó sẽ chống lại dạ dày ngài, nếu ngài đi dạo trên những hang thỏ tối tăm này và nghĩ về dao kéo, Lạy Chúa, ngài sẽ chỉ thấy rùng mình phía sau lưng! Tôi không phải người đặc biệt, thưa ngài, cũng không sắc sảo như cô gái khốn khổ kia, giờ cô ta cũng đi rồi. Tôi rất tiếc phải nói thế, dù tôi không chấp nhận đạo đức của cô ta trong việc kết hôn, việc tôi thấy tự phong quá nhanh. Thưa ngài,” Job khốn khổ tái mặt khi nó điều này, “tôi vẫn hy vọng đó sẽ không phải là trò cái chậu nung nóng.”
“Vớ vẩn,” Tôi quát lên giận dữ, “Vớ vẩn!”
“Tốt rồi, thưa ngài,” Job nói, “không phải nơi tôi khác biệt với ngài, thưa ngài, nhưng nếu ngài định đi đâu, thưa ngài, tôi có thể đề nghị ngài mang tôi theo cùng được không, vì tôi sẽ rất vui được đối mặt nhìn giờ khắc đó đến, chỉ để giúp nó được suôn sẻ, như nó vốn thế. Còn bây giờ, thưa ngài tôi sẽ làm bữa sáng,” rồi anh ta đi, bỏ tôi lại trong tâm trạng rất không thoải mái. Tôi gắn bó sâu sắc với Job già dặn, một trong những người đàn ông tốt nhất và trung thực nhất tôi từng có trong đời, thực sự là người bạn hơn là một đầy tớ, ý nghĩ về chuyện gì đó sẽ xảy ra với anh ta tạo thành cục bướu sưng lên trong cổ họng tôi. Sau cuộc nói chuyện ngớ ngẩn đó, tôi có thể nhận ra bản thân anh ta hoàn toàn tin rằng sẽ có gì đó sắp xảy ra, dù trong hầu hết tình huống, những niềm tin kiểu này đều biến mất hoàn toàn dưới ánh trăng – niềm tin cụ thể này được đặc biệt hình thành do môi trường xung quanh tăm tối và không quen thuộc nơi nạn nhân đang được đặt trong đó – chuyện này vẫn mang theo ít nhiều lạnh lẽo tràn tới trái tim tôi, thật đáng sợ khi rõ ràng đối tượng đích thực của đức tin có xu hướng suy nghĩ như vậy, dù điều này thật vô lý. Giờ bữa sáng đã tới, và cả Leo vừa đi dạo ngoài hang đã trở lại – để làm cho đầu óc tỉnh táo, cậu ấy nói vậy – tôi rất vui khi nhìn thấy cả hai người, vì họ đã mang đến cho tôi sự thư thái, thoát khỏi những suy nghĩ tối tăm. Sau bữa sáng, chúng tôi đi dạo tiếp, quan sát vài người Amahagger gieo hạt trên một lô đất để làm ra loại bia của họ. Họ làm theo giống như ghi chép – một người với chiếc túi da dê gắn chặt quanh eo đi lên đi xuống trên lô đất, rắc hạt giống khi anh ta đi qua. Đó là một hành vi tích cực của tộc người đáng sợ này khi hài lòng gieo hạt trên cánh đồng, có lẽ vì hành động đó liên kết họ với phần còn lại của nhân loại.
Khi chúng tôi trở về, Billali gặp chúng tôi, thông báo rằng Bà ấy rất vui khi chúng tôi chờ đợi bà ấy, sau đó chúng tôi đi vào nơi bà ấy hiện diện, không phải không lo lắng, vì Ayesha chắc chắn có ngoại lệ cho việc này. Quen thuộc với sức mạnh, gieo hạt giống đam mê, kỳ bí và kinh hãi, nhưng chắc chắn không gieo hạt giống khinh bỉ.
Chúng tôi thường gặp những người câm, sau khi họ đi, Ayesha sẽ tháo che mặt, một lần nữa Leo lại ôm bà ấy, dù tự vấn lòng mình đêm trước, cậu vẫn sốt sắng và nhiệt tình hơn phép lịch sự yêu cầu.
Bà ấy đặt bàn tay trắng trẻo lên đầu cậu, nhìn vào mặt cậu đầy trìu mến. “Chàng có tự hỏi, Kallikrates của ta,” bà ấy nói, “khi nào chàng sẽ coi ta như chính chàng, khi nào chúng ta sẽ thực sự người này vì người kia? Ta sẽ nói cho chàng. Trước tiên, chàng phải là người giống ta, thực ra không cần bất tử, vì ta không phải thế, mà chỉ cần được bao bọc, cứng rắn chống lại Thời Gian tấn công, mũi tên của Thời Gian sẽ lướt qua áo giáp sự sống vinh quang của chàng như tia sáng mặt trời xuyên qua nước. Ta sẽ không thể kết hôn với chàng, vì chàng và ta khác nhau, vẻ rực rỡ chói sáng của ta có thể thiêu cháy chàng, không chừng sẽ phá hủy chàng. Chàng cũng không thể chịu đựng được việc nhìn vào ta quá lâu mà không khiến mắt chàng đau đớn, cảm xúc của chàng sẽ quay cuồng, thế nên” (hơi gật đầu) “giờ ta sẽ che mặt lại.” (Dù sao bà ta cũng không làm điều này.) “Không: nghe này, chàng sẽ không phải chịu đựng, vì tối nay, một giờ trước khi mặt trời lặn, chúng ta sẽ bắt đầu, tới đêm mai, nếu mọi thứ đều tốt đẹp, con đường cho ta không biến mất, ta cầu xin để được như thế, chúng ta sẽ đứng ở nơi của Sự Sống, chàng sẽ tắm trong ngọn lửa, và đi ra vinh quang, không ai trước chàng được như thế, và Kallikrates, chàng sẽ gọi ta là vợ, còn ta sẽ gọi chàng là chồng.”
Leo lẩm bẩm gì đó đáp lại câu nói gây kinh ngạc kia, tôi không biết gì, bà ta cười nhỏ trước sự bối rối của cậu ấy và tiếp tục.
“Còn ngươi cũng vậy, Holly; ta cũng sẽ ban cho ngươi ân huệ này, và ngươi sẽ mãi mãi thanh xuân, ta sẽ làm thế - phải, vì ngươi khiến ta vui lòng, Holly, vì ngươi không phải kẻ ngu ngốc như hầu hết đám con cháu loài người, vì dù ngươi nằm trong bầy triết gia nhảm nhí như những kẻ thời xưa, nhưng ngươi cũng không quên đáp lại lời đẹp đẽ thế nào trước mắt phụ nữ.”
“Này, nhà nghiên cứu sinh già!” Leo thì thầm, quay về sự vui vẻ ngày xưa của cậu, “bác được trả công cho lời khen tặng ư? Cháu không bao giờ nghĩ bác lại thế!”
“Tôi xin cảm ơn người, Ayesha,” Tôi đáp một cách thật trân trọng, “nhưng nếu có một nơi như người mô tả, nếu ở nơi kỳ lạ này có thể tìm thấy một vật chất mạnh mẽ giúp thoát khỏi Thần Chết khi ông ta tới tóm chúng ta, tôi cũng không muốn. Đối với tôi, Ayesha, thế giới không mềm mại như cái lồng để tôi nằm trong đó vĩnh viễn. Người mẹ có trái tim sắt đá là trái đất của chúng ta, sỏi đá là bánh mì bà ấy cho những đứa con mình làm thức ăn hằng ngày. Đá để ăn và nước để khi khát, nắm đấm để giáo dục cẩn thận. Những người đang sống kia, ai muốn chịu điều này? Ai muốn mang trên lưng ký ức về những giờ khắc và tình yêu đã mất, về nỗi buồn của người láng giềng không hề vơi bớt, và những điều khôn ngoan nhưng không chứa niềm an ủi? Chết thật khó khăn, vì xác thịt của chúng ta co lại đến con sâu cũng sẽ không cảm nhận thấy, đến những thứ vô danh gió thổi buông rèm che mất tầm nhìn của chúng ta. Nhưng với tôi, càng khó khăn hơn để sống, tươi xanh như lá, nhưng lại thối ruỗng mục nát trong lõi, rồi cảm nhận con sâu hồi ức bí ẩn gặm nhấm trái tim.”
“Ngươi hãy suy nghĩ đi, Holly,” bà ta nói; “Cuộc đời dài lâu, sức mạnh và vẻ đẹp là những thước đo mang ý nghĩa mạnh mẽ, và là tất cả những gì con người mong muốn.”
“Ôi, thưa Nữ Hoàng,” Tôi đáp, “Những thứ con người mong muốn là gì? Chúng không phải là bong bóng sao? Không phải là tham vọng mà là một cái thang vô tận không có chiều cao để trèo lên tới bậc cuối cùng không thể trèo nổi nữa hay sao? Vì chiều cao dẫn tới chiều cao, không có nơi ngừng nghỉ trên đó, từng bậc nối tăng từng bậc, không có giới hạn con số. Của cải không thể thỏa mãn, rồi trở nên buồn chán, hài lòng và vui vẻ không còn nữa, hay phải mua một giờ yên bình của trí óc? Có kết cục nào khôn ngoan mà chúng ta hy vọng đạt được không? Thực ra chúng ta càng học hỏi nhiều, chúng ta sẽ vẫn không thể chỉ xoay quanh sự thiếu hiểu biết của bản thân đấy ư? Sống mười nghìn năm để chúng ta có thể tìm ra bí mật của mặt trời, vũ trụ xa hơn các mặt trời, và Bàn Tay treo chúng ta lên thiên đường ư? Trí khôn của chúng ta không phải kẻ đói khát cồn cào kêu gọi ý thức mỗi ngày được tiếp thêm tri thức vào linh hồn trống rỗng của chúng ta đó sao? Không phải ánh sáng của cái hang lớn này, dù được chiếu sáng, cũng không thấy hết bóng tối sâu thẳm quanh nó ư? Có điều tốt đẹp nào chúng ta thu được nhờ tuổi đời dài đằng đẵng như thế không?”
“Không, Holly của ta, có tình yêu – tình yêu làm mọi thứ trở nên đẹp đẽ, phả khí trong lành vào cát bụi chúng ta bước qua. Với tình yêu, cuộc đời sẽ trôi đi trong vinh quang từ năm này sang năm khác, như âm nhạc tuyệt vời mang sức mạnh níu giữ trái tim người nghe trên những cánh đại bàng, vượt qua xấu hổ nhơ bẩn và điên rồ của trái đất.”
“Có lẽ vậy,” Tôi trả lời; “nhưng nếu người yêu dùng cây sậy gẫy đâm chúng ta, hay nếu tình yêu trong vô vọng, - thì chuyện gì sẽ tới? Con người sẽ chôn nỗi buồn thương xuống sỏi đá khi anh ta cần viết chúng lên nước ư? Không, thưa , tôi sẽ sống cuộc đời của tôi, trở nên già nua cùng thế hệ của tôi, rồi chết đi như đã định, và bị lãng quên. Vì tôi hy vọng bất tử trong một không gian nhỏ bé không chừng người có thể ban cho, nó chỉ dài một ngón tay thôi, so với thước đo của thế giới vĩ đại này, hãy nhớ điều này! Sự bất tử mà tôi mong chờ, mà đức tin đã hứa với tôi, là tự do thoát khỏi những cam kết buộc chặt linh hồn tôi. Trong khi xác thịt tôi vẫn còn tồn tại, nỗi buồn, điều xấu xa và những cái đuôi bọ cạp tội lỗi cũng tồn tại; nhưng khi xác thịt rời bỏ chúng ta, tinh thần sẽ tỏa sáng mạnh mẽ trong vẻ lộng lẫy của cái thiện vĩnh hằng, vì không gian chung để hít thở rất hiếm những suy nghĩ cao quí truyền cảm hứng tột đỉnh cho con người, hay hương thơm tinh khiết từ lời cầu nguyện của người thiếu nữ, những thứ có thể minh chứng vô cùng trần tục đó đều sẽ phảng phất trôi qua đây thôi.”
“Ngươi đã nhìn thật xa,”Ayesha khẽ cười đáp lại, “và nói rõ ràng như cây kèn đồng cùng âm thanh không chút do dự. Còn ta nghĩ về cái ngươi nói “thứ vô danh” làm gió thổi rèm che chắn chúng ta. Không chừng ngươi nhìn bằng con mắt của một người mang Đức Tin, thấy vẻ chói sáng của nó, dù đã qua lăng kính trí tưởng tượng của ngươi. Thật kỳ lạ trước những bức hình về tương lai con người có thể vẽ ra bằng cây bút của Đức Tin và màu sắc phong phú của trí tưởng tượng! Ta có thể kể cho ngươi – nhưng để làm gì chứ? Tại sao lại cướp của kẻ ngốc món trang sức của hắn ta? Hãy để chuyện này trôi qua đi, ta cầu xin đó, Holly, khi ngươi cảm thấy tuổi già chầm chậm bò về phía mình, lão hóa và nhầm lẫn làm suy giảm bộ não ngươi, ngươi sẽ không được hối tiếc cay đắng vì đã từ chối ân huệ tối cao ta ban cho ngươi. Nhưng phải như vậy, con người không bao giờ hài lòng với những gì tay họ chạm được tới. Nếu cây đèn trong tầm với chiếu sáng anh ta giữa tối tăm, anh ta sẽ muốn ném nó xuống vì không có các vì sao. Hạnh phúc nhảy múa vội vã trước anh ta, như đám lửa nhấp nháy trong đầm lầy, anh ta phải bắt lấy ngọn lửa, anh ta phải giữ lấy ngôi sao! Vẻ đẹp chẳng là gì với anh ta, vì làn môi ngọt ngào hơn thế; của cải chẳng là gì, vì người khác có thể hạ anh ta xuống với những đồng bạc nặng hơn; danh vọng không là gì, vì sẽ có những người vĩ đại hơn anh ta. Ngươi đã nói thế, ta vừa quay lại những lời ngươi nói. Ta nghĩ ngươi thật ngu ngốc, Holly của ta, ngươi đã ném cây đèn đi.”
Tôi không trả lời, vì tôi không thể - đặc biệt trước mặt Leo – nói với bà ấy rằng, từ khi tôi nhìn thấy mặt bà ấy, nó luôn hiện lên trước mặt tôi, tôi không mong kéo dài sự tồn tại khi luôn bị ám ảnh và tra tấn bởi ký ức về bà ấy, bởi những cay đắng khi tình yêu không được thỏa mãn. Nhưng thực sự là thế, than ôi, giờ phút này là thế!
“Bây giờ,” Bà ấy tiếp tục, đổi giọng và chủ đề, “hãy nói cho ta, Kallikrates của ta, vì ta không biết, chàng làm thế nào tìm kiếm ta ở đây? Đêm qua chàng đã nói rằng Kallikrates – người chàng nhìn thấy – là ông tổ của chàng. Thế là sao? Hãy nói cho ta – chàng đừng nói quá nhiều!”
Được van nài, Leo kể cho bà ấy câu chuyện kỳ diệu về chiếc quan tài và mảnh gốm được viết bởi bà tổ của cậu, Amenartas người Ai Cập, đã dẫn đường chúng tôi tới chỗ bà ấy. Ayesha chăm chú lắng nghe, khi cậu ấy nói xong, bà ấy nói với tôi.
“Ta đã không nói cho ngươi vào ngày đó, khi chúng ta nói về thiện ác, Holly ạ - đó là ngày người ta yêu đang bệnh tật ốm yếu – rằng thiện trở thành ác, và ác thành thiện – người gieo hạt không biết mùa màng sẽ thế nào, cũng không biết nơi nào gió mạnh tới sẽ làm cây đổ? Giờ hãy nhìn xem: Amenartas người Ai Cập kia, đứa con hoàng tộc của sông Nile, kẻ căm ghét ta, kẻ ta cũng căm ghét, khi đó vì cô ta đã thắng ta – giờ hãy xem đi, cô ta đã mang người yêu của mình tới vòng tay ta! Vì cô ta, ta đã giết chàng, bây giờ, than ôi, nhờ cô ta, chàng lại trở lại bên ta! Cô ta muốn làm ta thành quỉ dữ, gieo hạt giống để ta chỉ có thể gặt được cỏ lác, than ôi, cô ta đã cho ta nhiều hơn tất cả những gì thế gian này có thể cho ta, vì chàng, hình vuông kỳ lạ đã khớp khít vào vòng tròn thiện ác, Holly ạ!
“Như vậy,” bà ấy tiếp tục sau khi dừng một lúc – “cô ta đã kêu gọi con trai mình tiêu diệt ta nếu hắn có thể, vì ta đã giết cha hắn. Còn chàng, Kallikrates của ta, là cha, theo một nghĩa nào đó, chàng cũng giống như con trai; chàng muốn trả thù cho sai lầm của ta không, sai lầm mà người mẹ xa xôi đó của chàng muốn làm với ta, Kallikrates? Nhìn đi,” bà ấy quì gối xuống, khiến vạt áo trắng bị trượt xuống sâu hơn nơi bộ ngực trắng ngà – “nhìn đi, trái tim ta đang đập ở đây, với con dao bên sườn chàng, nặng, dài, và sắc nhọn, con dao thực sự để giết chết một nữ hoàng. Hãy cầm lấy nó, và báo thù đi. Hãy đâm đi, đâm đi! – chàng sẽ được toại nguyện, Kallikrates, và trôi qua một đời người hạnh phúc, vì chàng đã trả thù được cho điều sai trái này, tuân theo lời ủy thác của quá khứ.”
Cậu ấy nhìn vào bà, đưa tay nâng bà ấy dậy.
“Đứng dậy đi, Ayesha,” cậu buồn bã nói; “người biết rằng tôi không thể đâm người, không, không phải vì cô ấy, người ngươi đã giết đêm qua. Tôi nằm dưới sức mạnh của người, là nô lệ thực sự của người. Tôi có thể giết người thế nào đây? – tôi sẽ tự giết mình ngay sau đó thôi.”
“Chàng đã bắt đầu yêu ta, Kallikrates,” bà ấy mỉm cười đáp lại. “Giờ hãy kể cho ta về đất nước của chàng – đó là một dân tộc vĩ đại, phải không? Có một hoàng đế giống như Rome! Chắc chắn chàng muốn quay về đó, ta nghĩ chàng sẽ không muốn cư trú trong khu hang động Kôr này. Không, một khi chàng đã trở thành người giống như ta, chúng ta sẽ cùng đi tới đó – đừng sợ, ta sẽ tìm ra đường – chúng ta sẽ tới nước Anh của chàng, sống như chúng ta được sống. Hai nghìn năm qua ta đã đợi ngày này, phải nhìn những hang động đáng ghét và đám người có gương mặt u ám này, giờ trái tim ta như trẻ thơ hướng về lễ hội. Vì chàng sẽ thống trị nước Anh – “
“Nhưng chúng tôi đã có một nữ hoàng,” Leo vội vã ngắt lời.
“Vô ích, vô ích,” Ayesha nói; “bà ta sẽ bị lật đổ.”
Lúc này cả hai chúng tôi thở ra vì cảm thán đến mất tinh thần, rồi bảo rằng, chúng tôi nên sớm nghĩ đến việc đảo chính.
“Nhưng vẫn có điều kì lạ,” Ayesha kinh ngạc nói; “nữ hoàng là người được người dân yêu mến ư! Chắc thế giới phải thay đổi nhiều từ khi ta cư ngụ ở Kôr.”
Chúng tôi lại giải thích rằng, nhân vật trong hoàng triều đã thay đổi, người trong thời chúng tôi sống đều được quần chúng nhân dân biết suy nghĩ chính đáng tôn trọng và yêu quí trong vương quốc rộng lớn của bà. Chúng tôi cũng kể cho bà ấy, sức mạnh thực sự của quốc gia năm trong tay nhân dân, thực tế chúng tôi đều được cai trị bằng cách bầu cử từ cộng đồng người dân ở các tầng lớp thấp hơn và ít học hơn.
“À,” bà ấy nói, “nền dân chủ, - thế thì chắc chắn có một bạo chúa rồi, vì ta đã từng nhìn thấy các nền dân chủ quá lâu rồi, chúng không có ý chí rõ ràng, cuối cùng lập nên một bạo chúa, và tôn sùng ông ta.”
“Phải,” tôi nói, “chúng tôi cũng có các bạo chúa.”
“Được,” bà ấy cam chịu đáp lại, “dù sao chúng ta cũng có thể tiêu diệt các bạo chúa này, và Kallikrates sẽ thống trị mảnh đất đó.”
Tôi ngay lập tức báo cho Ayesha biết, ở Anh, “nổ” không phải trò giải trí có thể say mê mà được miễn hình phạt, những nỗ lực hành động như vậy có thể bị luật pháp quan tâm đến và có thể kết thúc trên giàn giáo.
“Luật pháp,” bà ấy cười một cách khinh miệt – “Luật pháp ư! Ngươi không hiểu, Holly ạ, ta ở trên luật pháp, Kallikrates của ta sao lại không thế chứ? Tất cả luật pháp của loài người đối với chúng ta như gió bắc tràn qua ngọn núi. Gió có thể uốn cong ngọn núi sao, hay ngọn núi sẽ bẻ cong cơn gió?”
“Giờ hãy về đi, Ta cầu xin ngươi, và cả chàng cũng thế, Kallikrates của ta, vì ta muốn chuẩn bị sẵn sàng cho hành trình của chúng ta, cả hai người cũng thế, người đầy tớ kia cũng thế. Nhưng đừng mang quá nhiều thứ theo, vì ta tin rằng chúng ta sẽ ra đi trong ba ngày tới. Rồi chúng ta sẽ tới đó, ta sẽ lập kế hoạch để chúng ta có thể chia tay vĩnh viễn đống mồ mả của Kôr. Phải, chắc chắn chàng sẽ hôn tay ta thôi!”
Chúng tôi đi ra, còn tôi bắt đầu cảm nhận sâu sắc về bản chất kinh khủng của vấn đề đang mở ra trước mặt. Bà ấy đáng sợ rõ ràng quyết định tới nước Anh, khiến tôi rùng mình nghĩ tới những gì có thể xảy ra khi bà ta tới đó. Tôi biết sức mạnh của bà ta là gì, không nghi ngờ gì chuyện bà ta sẽ thực hiện chúng hoàn hảo. Có thể điều khiển được bà ta một lúc, nhưng lòng tự hào, ý chí tham vọng của bà ấy chắc chắn sẽ phá vỡ để trả thù cho hàng thế kỷ dài cô đơn. Nếu cần thiết, và nếu nhan sắc không bất lực trước cơ hội này, bà ấy sẽ tàn phá theo cách của mình để đạt tới bất cứ kết cục nào bà ta định ra, vì bà ta không thể chết, và tôi biết, bà ta cũng không thể bị giết, [*] điều gì có thể làm bà ấy dừng chân? Cuối cùng, tôi hơi hoài nghi, bà ta có lẽ muốn thống trị tuyệt đối toàn bộ liên hiệp vương quốc Anh, rồi toàn trái đất, dù tôi chắc bà ấy sẽ nhanh chóng làm chúng tôi thành đế chế vinh quang nhất và thịnh vượng nhất mà thế giới từng thấy, nhưng cái giá sẽ là sự hy sinh khủng khiếp của bao sinh mạng.
[*] Tôi rất tiếc phải nói rằng tôi không bao giờ có thể chắc chắn liệu Bà ấy có bất khả xâm phạm trước các tai nạn thông thường trong cuộc sống không. Có lẽ vậy, một hành trình sai lầm nào đó có thể đặt dấu chấm hết cho bà ấy sau nhiều thế kỷ. Thực ra, bà ta đã trao cho Leo quyền giết bà ta, nhưng có lẽ chỉ là một thử nghiệm kiểm tra thái độ và tinh thần của cậu trước mặt bà ấy. Ayesha không bao giờ tạo ra xung đột mà không có mục đích cụ thể nào đó. – L.H.H.
Câu chuyện như một giấc mơ hay một phát minh kỳ lạ của bộ não tự biện, thực tế - một thực tế tuyệt vời – mà thế giới nên sớm được kêu gọi phải chú ý. Ý nghĩa của chuyện này là gì? Sau khi suy nghĩ rất nhiều, tôi chỉ có thể kết luận rằng sinh vật kỳ diệu này, tình yêu đam mê giữ bà ấy nhiều thế kỷ trong xiềng xích đến vậy, tương đối vô hại, giờ sẽ được Thượng Đế sử dụng làm phương tiện để thay đổi trật tự thế giới, có thể dựng nên một sức mạnh không thể chống lại hay bị hoài nghi như các qui định của Định Mệnh, biến đổi nó về chất tới một thứ tốt đẹp hơn.

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham

Nữ Hoàng Ayesha và Khu Hang Động Kôr - Chương 21



CHƯƠNG 21

Người Chết và Người Sống Gặp nhau
“Giờ hãy nhìn nơi ta ngủ suốt hai nghìn năm qua,” Ayesha nói, lấy cây đèn từ tay Leo và giơ nó lên trên đầu bà ấy. Những tia sáng rơi xuống khe trũng trên sàn, nơi tôi từng thấy ánh lửa bập bùng, nhưng giờ đống lửa không còn nữa. Chúng rơi trên bóng hình màu trắng phủ đầy vải trên giường đá, rơi trên bề mặt trạm khắc văn hoa chữ triện của ngôi mộ, và trên cả bệ đá đối diện với một cơ thể đang nằm trên đó, tách biệt qua bề rộng của hang.
 “Đây rồi,” Ayesha tiếp tục, để tay lên phiến đá – “Ta ngủ ở đây mỗi đêm qua bao thế hệ, với một chiếc áo choàng phủ lên người. Sẽ không còn là ta nếu ta nói dối trong khi chồng ta đang nằm kia,” rồi bà ấy chỉ vào một thân hình cứng nhắc, “đã chết cứng. Nơi đây đêm này qua đêm khác ta ngủ cùng hơi lạnh của chàng – các ngươi thấy đấy, cho đến khi phiến đá dày này, cũng giống những bậc thang đi xuống chúng ta vừa bước qua kia, bị mài mỏng đi vì cơ thể nằm lên của ta – ta đã trung thành với ngươi đến như vậy dù ngươi đang say ngủ, Kallikrates. Bây giờ, ngươi sẽ thấy một điều tuyệt vời – sống động, ngươi sẽ thấy cơ thể đã chết của chính ngươi – vì ta luôn ở bên ngươi bao năm qua, Kallikrates. Ngươi đã sẵn sàng chưa?”
Chúng tôi không trả lời, nhưng nhìn chằm chằm vào nhau bằng đôi mắt sợ hãi, toàn bộ khung cảnh thật đáng sợ và nghiêm trang. Ayesha tiến lên trước, đặt tay vào góc vải niệm, nói một lần nữa.
“Đừng sợ,” bà ta nói; “dù thứ này có vẻ rất tuyệt vời với ngươi – tất cả chúng ta đều sống ở nơi này trước đây; hình dáng này dưới mặt trời cũng không phải là người lạ với chúng ta đâu! Chỉ là chúng ta không biết nó, vì ký ức không lưu lại dòng nào, và trái đất quanh quanh chính nó, nó tận lực vì chúng ta, không gì cứu được vinh quang của chúng ta khỏi nấm mồ. Nhưng bằng tài nghệ của mình và tài nghệ của người Kôr đã chết mà ta học hỏi được, ta đã mang ngươi quay trở lại từ cát bụi, ôi Kallikrates, dấu ấn vẻ đẹp như tượng sáp trên gương mặt ngươi còn lưu lại trước mắt ta. Đó là mặt nạ ký ức có lẽ đã tô nên, theo cách mà ngươi đã hiện ra trong quá khứ, trao cho nó sức mạnh lang thang trong nơi tâm trí ta đang cư ngụ, khoác trong nghi lễ tầm thường của sự sống khiến ta hài lòng khi nhìn về những ngày đã tàn.”
“Than ôi, giờ đây hãy để Người Chết và Người Sống gặp nhau! Trên dòng Thời Gian chúng vẫn chỉ là một. Thời Gian không có sức mạnh chống lại Bản Sắc, dù giấc ngủ xót xa đã xóa nhòa các mảnh tâm trí, lãng quên in dấu nỗi buồn săn đuổi chúng ta hết đời này qua đời khác, nhồi vào não những sầu thương tích tụ tới khi nổ tung trong điên cuồng của tuyệt vọng. Chúng vẫn là một, vì tấm vải phủ cho giấc ngủ của chúng ta sẽ cuốn đi như mây dông trước gió; tiếng nói quá khứ lạnh lẽo sẽ tan chảy trong âm nhạc như tuyết trên núi dưới ánh mặt trời; tiếng khóc cười của thời gian đã mất sẽ lại được nghe thấy lần nữa ngọt ngào vang vọng khắp vách đá của thời gian vô tận.”
“Ôi, giấc ngủ sẽ trôi đi, lời nói sẽ được lắng nghe, khi chuỗi xích đầy đủ nơi mỗi tồn tại của chúng ta là một kết nối rơi xuống, ánh sáng của Linh Hồn sẽ tới chiếu rõ mục đích của bản thân chúng ta; thúc đẩy và nung chảy tháng ngày xa cách, biến chúng thành người phục vụ để chúng ta an toàn dựa vào như thể chúng ta đang cuốn theo định mệnh của chính mình.”
“Thế nên đừng sợ, Kallikrates, khi ngươi – người sống, vừa được ra đời – nhìn thấy bản thể đã chết của chính ngươi, kẻ đã từng thở và chết đi rất lâu trước đây. Ta lật một trang trong Quyển Sách Sinh Mệnh của ngươi, và chỉ cho ngươi những gì được viết trong đó.”
“Than ôi!”
Bất ngờ bà ấy nhấc tấm vải niệm khỏi cơ thể lạnh lẽo kia, để ánh đèn chiếu trên nó. Tôi nhìn rồi co lại vì sợ hãi; vì nói như bà ấy đã giải thích, cảnh tượng thật kỳ quái – vì lời giải thích của bà ấy vượt khỏi tầm với tâm trí hữu hạn của chúng tôi, khi chúng cởi ra lớp sương mù của triết học bí truyền mơ hồ, đưa bằng chứng lạnh lẽo ghê sợ vào cuộc tranh cãi, nhưng không làm được gì nhiều để phá vỡ sức mạnh của chúng. Nơi đây, trải dài trên quan tài đá trước mặt chúng tôi, khoác áo choàng trắng và được bảo quản hoàn hảo, dường như là thi thể của Leo Vincey. Tôi nhìn vào Leo đang đứng và còn sống ở đây, và nhìn vào Leo đã chết nằm kia, không thể thấy gì khác biệt; có lẽ ngoại trừ thi thể trên quan tài trông già hơn. Từng đặc điểm đều giống nhau, thậm chí ngay cả những lọn tóc vàng rũ xuống, đó là vẻ đẹp hiếm có nhất của Leo. Với tôi, biểu cảm trên gương mặt người chết cũng giống hệt biểu cảm đôi khi tôi nhìn thấy trên mặt Leo khi cậu chìm vào giấc ngủ sâu. Tôi chỉ có thể tóm tắt sự sống nhau vô cùng đó bằng cách nói rằng, tôi chưa bao giờ từng thấy một cặp sinh đôi nào giống nhau chính xác như cặp người sống kẻ chết này.
Tôi quay lại xem phản ứng của Leo trước bản thể đã chết của cậu ấy, và thấy hơi sửng sốt. Cậu ấy đứng nhìn chằm chằm khoảng hai ba phút, không nói gì, cuối cùng cậu chỉ thốt lên.
“Che nó vào, và đưa tôi đi.”
“Không, đợi đã, Kallikrates,” Ayesha nói, bà ấy đang đứng cùng cây đèn trên đầu, tràn ngập ánh sáng, vẻ đẹp lộng lẫy của bà trước kỳ quan lạnh lẽo của xác chết trên quan tài giống như một Phù Thủy đang truyền cảm hứng hơn là một phụ nữ, như thể bà thốt ra những lời thần bí đầy quyền thế và tự do tuyệt đối, than ôi! Tôi hoàn toàn không có khả năng tái hiện được.
“Đợi đã, ta muốn cho ngươi xem vài thứ, không phải là tội lỗi ta che dấu ngươi. Holly, ngươi hãy mở tấm vải trên ngực của Kallikrates đã chết, vì không chừng chúa tể của lòng ta sợ chạm vào nó.”
Tôi tuân theo mà tay run rẩy. Đó giống như việc mạo phạm và tội lỗi khi chạm vào hình ảnh người sống bên cạnh tôi giờ đang say ngủ. Hiện giờ lồng ngực rộng rãi của anh ta đang để trần, ngay trên chỗ trái tim là một vết thương, rõ ràng do một cây giáo gây ra.
“Ngươi thấy đấy, Kallikrates,” bà ấy nói. “Nhớ rằng chính ta đã giết ngươi: trong Cung Điện của Sự Sống, ta đã trao cho ngươi cái chết. Ta giết ngươi vì Amenartas người Ai Cập, kẻ ngươi yêu, vì cô ta âm mưu nắm giữ trái tim ngươi, và ta không thể đánh lại cô ta giống như bây giờ ta đã tiêu diệt được người phụ nữ đó, cô ta đã quá mạnh so với ta. Trong cơn giận dữ vội vàng và cay đắng, ta đã giết chết ngươi, suốt những ngày tháng qua ta đã khóc than cho ngươi, và chờ đợi ngươi quay lại. Ngươi đã đến, không gì có thể đứng giữa ngươi và ta, sự thật giờ đây dù chết, ta sẽ mang lại cho ngươi sự sống – không phải sự sống vĩnh hằng, vì không gì có thể cho được điều đó, mà là sự sống và tuổi trẻ kéo dài hàng nghìn, hàng nghìn năm, cùng với nó là sự phù hoa, sức mạnh và của cải, mọi thứ tốt đẹp mà không người đàn ông nào trước ngươi, cũng không người nào đời sau ngươi có được. Giờ còn một việc nữa, ngươi hãy ở lại và sẵn sàng cho ngày ra đời mới của mình đi. Ngươi nhìn cơ thể này, chính là cơ thể của ngươi. Hàng thế kỷ qua nó luôn đồng hành bên ta, thoải mái lạnh lẽo, nhưng giờ ta không cần nó nữa, vì ta đã có con người sống của ngươi, nó chỉ có thể dùng để khuấy động những ký ức ta muốn lãng quên. Thế nên hãy để nó trở về với cát bụi.”
“Than ôi! Ta đã chuẩn bị cho giờ phút hạnh phúc này!” Đi tới một cái kệ đá lồi ra khác mà bà ấy dùng làm giường ngủ, bà ta lấy ra một cái bình tráng men hai tay cầm lớn, miệng nó gắn một lớp bóng. Bà ấy thong thả cúi xuống hôn nhẹ nhàng lên vầng trán trắng tinh của người đàn ông chết, bà ta tháo chiếc bình, rắc chất bên trong cẩn thận lên thi thể, phòng bị để không giọt nào chạm vào chúng tôi hay bà ấy, rồi rót hết chất lỏng còn lại lên ngực và đầu. Ngay lập tức một làn hơi dày đặc bốc lên, cái hang đầy nghẹt khói ngăn chúng tôi nhìn thấy bất kỳ thứ gì trong khi chất axit chết người đang hoạt động (tôi cho rằng đó là lượng lớn hợp chất loại này). Từ chỗ thi thể nằm, âm thanh xì xèo khốc liệt như nứt vỡ, nhưng nó đã ngừng lại trước khi khói tan hết. Ít ra chúng đã đi hết, trừ đám mây nhỏ vẫn lơ lửng trên cái xác. Vài phút sau nó cũng biến mất, thật tuyệt, thực ra trên băng ghế đá đặt hài cốt của Kallikrates cổ xưa qua bao thế kỷ, giờ không còn gì ngoài chút bột màu trắng đang bốc khói. Axit đã tiêu hủy hoàn toàn thi thể, thậm chí ăn mòn vài chỗ trên đá. Ayesha lại cúi xuống, lấy một nắm bột đó trong tay, ném vào không khí, cùng lúc đó nói bằng giọng bình tĩnh uy quyền.
“Cát bụi lại về với cát bụi! – Quá khứ lại về với quá khứ! – Người chết lại về với người chết! – Kallikrates đã chết, lại được tái sinh rồi!”
Tro tàn lặng lẽ rơi trên sàn đá, chúng tôi đứng trong im lặng đến kinh ngạc và nhìn chúng rơi xuống, quá mất tinh thần để nói bất kỳ lời nào.
“Giờ hãy đi đi,” bà ấy nói, “hãy đi ngủ nếu các ngươi muốn. Ta phải quan sát và suy nghĩ, đêm mai chúng ta sẽ đi, đã lâu lắm rồi kể từ khi ta đặt chân lên con đường chúng ta phải theo đuổi.”
Sau đó chúng tôi cúi chào và rời đi.
Khi chúng tôi về phòng mình, tôi liếc nhìn chỗ ngủ của Job xem anh ta thế nào, vì anh ta trốn đi trước khi chúng tôi nói chuyện với Ustane, do kinh sợ lễ hội của người Amahagger. Anh ta đang ngủ ngon lành, một người đồng hành lương thiện tốt bụng, tôi vui mừng cho rằng, thần kinh anh ấy giống như những người ít học nhất, cũng không mạnh mẽ lắm, nên tránh xa những cảnh cuối của ngày kinh khủng này. Rồi chúng tôi vào buồng của riêng mình, ở đó ít ra Leo khốn khổ - vừa mới nhìn hình ảnh đông cứng của chính mình và đang trong tâm trạng sửng sốt – có thể xả ra chuỗi buồn rầu. Giờ không còn sự hiện diện của Bà ấy đáng sợ nữa, cảm giác kinh sợ của cậu về mọi chuyện vừa xảy ra, đặc biệt việc giết hại Ustane, người có mối quan hệ rất gần gũi với cậu, làm cậu tan nát, như một cơn bão quất vào cậu hối hận đau đớn và khủng bố khi phải chứng kiến. Cậu tự nguyền rủa chính mình – cậu nguyền rủa giờ phút chúng tôi lần đầu thấy bản văn tự trên mảnh gốm quá kỳ bí, cậu nguyền rủa cay đắng sự yếu đuối của chính mình. Cậu không dám nguyền rủa Ayesha – ai dám nói người phụ nữ xấu xa như thế chứ, người mà chúng tôi biết, rất có ý thức và luôn quan sát chúng tôi mọi lúc?
“Cháu nên làm gì, nhà nghiên cứu sinh già?” cậu ấy rên rỉ, ngả đầu vào vai tôi trong đau buồn vô hạn. “Cháu đã làm cô ấy bị giết – cháu đã không thể giúp gì, nhưng năm phút sau, cháu đã hôn kẻ giết cô ấy trước thi hài cô ấy. Cháu là tên khốn đê hèn, nhưng cháu không thể cưỡng lại điều đó” (giọng cậu chìm dần) – “mụ phù thủy kinh tởm đó. Cháu biết cháu sẽ lại làm thế ngày mai; cháu biết cháu sẽ luôn trong vòng sức mạnh của bà ta; nếu cháu không bao giờ nhìn thấy bà ta nữa, cháu sẽ không bao giờ nghĩ về ai khác nữa trong đời; cháu phải theo đuổi bà ta như cây kim bị nam châm hút; giờ cháu không muốn đi dù cháu có thể; cháu không thể rời bà ta, chân cháu không nghe theo cháu, dù trí óc cháu vẫn rõ ràng, trong đầu, cháu căm thù bà ta – ít ra cháu nghĩ vậy. Tất cả thật khủng khiếp; và cái xác đó nữa! Cháu được làm bằng gì? Đó là cháu! Cháu đã bị bán thành nô lệ, nhà nghiên cứu sinh già ơi, bà ta sẽ lấy linh hồn cháu làm giá cả!”
Lần đầu tiên tôi nói với cậu ấy rằng, tôi ở vị trí tốt hơn chút ít; tôi phải nói dù đang điên cuồng, cậu ấy vẫn lịch sự thông cảm cho tôi. Có lẽ cậu không nghĩ nó đáng ghen tuông, và cho rằng cậu không có lý do nào để phụ nữ quan tâm. Tôi tiếp tục đề nghị chúng tôi nên thử chạy trốn, nhưng ngay sau đó dự định đó bị bác bỏ vì vô ích, thành thật mà nói, tôi không tin có ai trong chúng tôi thực sự rời khỏi Ayesha được, ngay cả khi có sức mạnh siêu nhiên nào đó đột nhiên được trao cho chúng tôi để rời khỏi khu hang động tăm tối này và đặt chúng tôi xuống Cambridge. Chúng tôi không thể rời khỏi bà ta như con ngài không thể bỏ thứ ánh sáng phá hủy nó. Chúng tôi giống những kẻ nghiện thuốc phiện: chúng tôi biết rõ bản chất chết người của việc theo đuổi, nhưng chắc chắn không muốn ngừng niềm vui thú kinh khủng nó mang lại.
Không ai từng thấy Bà ấy bỏ mặt che, nghe thấy giọng nói như nhạc của bà ấy, và say mê trước sự thông thái trong mỗi lời bà ấy nói, lại có thể đành lòng từ bỏ toàn bộ cảnh vui êm đềm đó. Thế thì với trường hợp của Leo, tôi tự hỏi, có bao nhiêu khả năng, khi sinh vật kỳ lạ này tuyên bố sự trung thành hoàn toàn và tuyệt đối, đưa ra những thứ dường như là bằng chứng suốt hai nghìn năm qua?
Không nghi ngờ bà ta là người độc ác, không nghi ngờ việc bà ta đã giết Ustane khi cô ấy đứng trên con đường của bà ta, nhưng bà ta rất chung thủy, theo tự nhiên, đàn ông thường suy nghĩ nhẹ nhàng về tội lỗi của phụ nữ, đặc biệt nếu cô ta xinh đẹp và tội lỗi đó lại xuất phát từ tình yêu với anh ta.
Phần còn lại, khi nào cơ hội như vậy đến với một người đàn ông trước những gì giờ đang nằm trong tay Leo? Đúng vậy, khi tự hòa mình vào người phụ nữ đáng sợ này, cậu ấy muốn đặt tính mạng của cậu dưới tầm ảnh hưởng của sinh vật kỳ bí xấu xa này, [*] nhưng dường như với cậu thế là đủ cho một cuộc hôn nhân bình thường. Mặt khác, không đám cưới bình thường nào có thể mang tới cho cậu một nhan sắc phi thường đến vậy – vì “phi thường” là từ duy nhất có thể dùng để mô tả - sự hy sinh thần thánh đến thế, thông thái như thế, và ra lệnh được cho những bí mật tự nhiên, nơi chốn và sức mạnh; cuối cùng, vương miện hoàng gia của tuổi trẻ vĩnh hằng, nếu thực sự bà ấy có thể cho được. Không, nói chung, thật không tuyệt vời, dù Leo đang rơi vào xấu hổ và sầu muộn, như bất kỳ quí ông nào cũng sẽ cảm thấy thế trong hoàn cảnh này, cậu ấy cũng sẽ không sẵn sàng đùa bỡn bằng ý tưởng chạy trốn khỏi vị thần vận mệnh kỳ lạ này.
[*] Sau vài tháng cân nhắc câu này, tôi buộc phải thú nhận rằng tôi không hoàn toàn hài lòng với sự thật của nó. Sự thật đầy đủ nhất là, Ayesha đúng là kẻ giết người, nhưng tôi nghi ngờ rằng nếu được một quyền lực tuyệt đối như vậy ưu ái, nếu chúng ta có lợi ích to lớn như thế, chúng ta cũng sẽ có xu hướng làm như vậy trong hoàn cảnh tương tự. Phải nhớ rằng, bà ấy xem nó như việc xử lý kẻ không tuân lệnh trong một hệ thống, mà bất kỳ việc không tuân lệnh nào dù nhỏ nhất, cũng bị trừng phạt bằng cái chết. Bên cạnh nghi vấn về giết người, việc làm độc ác của bà ấy cũng đại biểu cho quan điểm và sự thừa nhận những động cơ trái với lời rao giảng của chúng ta nếu chúng ta không thực hành. Thoạt nhìn, có lẽ khá công bằng khi nó được lấy làm bằng chứng cho bản tính xấu xa, nhưng khi xem xét bối cảnh cổ đại của cá nhân này, thật đáng hoài nghi nếu đó chỉ là thứ gì đó chứ không phải là phát sinh tự nhiên do tuổi tác, trải nghiệm cay đắng và sở hữu những năng lực quan sát kỳ lạ. Một thực tế rất phổ biến là, nếu rất thường xuyên hoài nghi trong thời thơ ấu, chúng ta càng già thì càng hoài nghi và cứng rắn hơn; quả thực nhiều người trong chúng ta chỉ được cứu vớt bằng cái chết khi hoàn toàn nhẫn tâm nếu không vi phạm đạo đức. Không ai phủ nhận một chàng trai trẻ nói chung tốt hơn một ông già, vì anh ta không có trải nghiệm về trật tự mọi thứ, trong sự sắp đặt có chủ ý cụ thể, thật khó mà không nảy sinh nghi ngờ, bất chấp các phương thức được thừa nhận và phong tục tập quán mà chúng ta coi là độc ác. Bây giờ người già nhất trên trái đất nhưng cũng chỉ là em bé so với Ayesha, người thông thái nhất trên trái đất không bằng một phần ba sự thông thái của bà ấy. Thành quả của trí tuệ của bà ấy còn có một thứ đáng giá nữa, đó là tình yêu với cung bậc cảm xúc cao nhất, để dành được điều tốt đẹp bà ấy sẽ không có ý định dừng bước ở những chuyện vặt vãnh. Đó thực sự là tổng kết cho những việc làm xấu của bà ấy, mặt khác cũng phải nhớ rằng, dù nghĩ gì đi chăng nữa, bà ấy có một số tính cách được phát triển tới mức độ rất bất thường khi giới tính không đổi. – L.H.H.
Quan điểm của tôi là, cậu ấy sẽ phát điên nếu làm vậy. Nhưng rồi tôi thú nhận, lời tôi nói về chuyện này phải có điều kiện để được chấp nhận. Bản thân tôi cũng yêu Ayesha, tôi muốn làm đối tượng yêu đương của bà ấy một tuần ngắn ngủi còn hơn với bất kỳ phụ nữ nào khác trên đời. Hãy để tôi nói thêm, nếu có ai nghi ngờ điều này và cho rằng tôi thật ngu xuẩn, nếu được thấy Ayesha vén che mặt lên và lộ ra vẻ đẹp, quan điểm của anh ta chắc chắn sẽ giống tôi thôi. Tất nhiên, tôi đang nói cho đàn ông. Chúng tôi chưa bao giờ có lợi thế trước quan điểm về Ayesha của phụ nữ, nhưng tôi nghĩ bà ấy hoàn toàn có thể bị coi là Nữ Hoàng không được yêu thích, người ta sẽ biểu đạt sự bất đồng theo cách thức ít nhiều châm chọc và cuối cùng nguyền rủa bà ấy.
Sau hơn hai giờ Leo và tôi ngồi trong căng thẳng và sợ hãi, nói chuyện về những sự kiện kỳ bí chúng tôi đã trải qua. Giống như mơ hay một câu chuyện thần tiên, thay vì trang trọng, lại là thực tại tỉnh táo. Ai có thể tin bản văn tự trên mảnh gốm không chỉ đúng thật, mà chúng tôi vẫn còn sống để kiểm nghiệm sự thật đó, hai kẻ đi tìm kiếm là chúng tôi, đã tìm ra bà ấy – người được tìm kiếm, đang kiên nhẫn chờ chúng tôi đến khu lăng mộ Kôr? Ai có thể nghĩ được trong con người Leo, người đàn bà bí ẩn đó – như bà ta tin – phát hiện ra bản thể bà ấy chờ đợi từ thế kỷ này qua thế kỷ khác, nơi cư trú cõi trần thế của người đó bà ta vẫn bảo quản mỗi đêm? Nhưng đúng là như vậy. Trên bề mặt mọi chuyện chúng tôi gặp, thật khó để những con người có lý trí bình thường chúng tôi nghi ngờ sự thật này, thế nên cuối cùng, với lòng khiêm nhường và sự bất lực sâu sắc từ tri thức con người, và với giả thiết xấc xược chối bỏ khả năng không có trải nghiệm nào về nó, chúng tôi đi ngủ, bỏ lại số phận cho bàn tay Thượng Đế - người đã chọn cho phép chúng tôi vén bức màn ngu dốt của con người, tiết lộ cho chúng tôi lướt nhìn thiện ác từ trong các khả năng của cuộc đời.

Bản gốc: SHE - A History of adventure
Tác giả: H.R. Haggard
Người dịch: Cheryl Pham  

Chuẩn bị cho một khóa thiền Vipassana 10 ngày như thế nào?

Vì liên tục có nhiều bạn hỏi về các khóa thiền Vipassana mà mình thi thoảng tham gia, để không phải giải thích lại nhiều lần, mình viết các ...